Song Bích

Chương 190: Hôn lễ (1)




Mùng Mười tháng Tư, Xuân đi Hạ đến, cả thành đầy hương hoa cỏ, thích hợp cưới gả.



Thời tiết hôm nay vô cùng tốt, bầu trời trong xanh như được tẩy rửa, ánh nắng lập lòe chiếu rọi trên con đường hoa. Phủ Trấn Quốc Công đã đổi mới hoàn toàn, cửa chính đã yên lặng nhiều năm mở rộng, dây lụa đỏ chót treo ở hành lang sẫm màu của chính đường, cổ kính mà trang trọng, người đi đường ngang qua, cho dù là giàu sang nghèo hèn, dù là già hay trẻ, chỉ cần liếc mắt một cái là biết ngay, nhà này sắp gả nữ nhi đi rồi.



Nhưng phủ Trấn Quốc Công bài trí trang trọng, khách khứa lại lác đác, không được mấy người. Mấy ngày gần đây, phủ Trấn Quốc Công đã nhận được không ít thiệp mời, trong đó, cái nào cũng tràn đầy mấy lời khen ngợi nhiệt tình, tâng bốc Minh Hoa Thường đến mức tưởng như nàng chính là tiên nữ trên trời, nhưng cuối cùng, ai nấy cũng đều vờ ra vẻ tiếc nuối, nói mình có chuyện ngoài ý muốn gì đó nên mới không thể đến nhà.



Hỉ nương thấy đã lâu rồi mà không có khách khứa nào ra hình ra dáng đến tân phòng chúc mừng, thì vô cùng khó xử, chỉ có thể cố ý cao giọng nói mấy lời cát tường, tự vừa nói vừa cười, như thể là chỉ hận mình không thể lấp đầy khuê phòng bằng lời nói. Bà ấy thầm thấy tiếc nuối cho vị Vương phi này, tiểu nương tử mới mười tám tuổi, dung mạo xinh đẹp, tính tình cũng ôn hòa, chỉ tiếc thay, số phận không may mắn. Gả vào hoàng gia vốn là nhân duyên tốt đẹp, ai ngờ, lại không thể tính được số trời, còn chưa hưởng phúc của Vương phi mà phu quân đã thất thế rồi.



Ung Vương đại hôn, đương nhiên trong cung là chúc mừng rất hoành tráng, Hoàng đế thì hết lần này tới lần khác dặn dò Lễ bộ làm lớn, nhưng đều bị Lý Hoa Chương từ chối. Hoàng đế vô cùng tiếc nuối, đưa vàng bạc châu báu, tơ lụa đến phủ Ung Vương như nước chảy, làm rầm rộ đến mức tưởng chừng như chỉ hận không thể làm cho cả thiên hạ đều biết chuyện.



Hoàng đế ngoài mặt thì vui vẻ, như thể là việc cháu trai thành hôn còn khiến ông ta vui hơn cả việc nhi tử của mình thành hôn; nhưng mọi người trong thành Trường An đều hiểu rõ, thánh tâm và Ung Vương đã rạn nứt, ban thưởng càng nhiều, trái lại, lại càng che càng lộ. Trong tình cảnh này, còn có ai dám mạo hiểm đắc tội Hoàng đế mà đến phủ Trấn Quốc Công đưa dâu đâu?



Mà bấy giờ, Minh Hoa Thường “vô cùng đáng thương”, “chưa thành hôn đã thất thế” trong suy nghĩ của hỉ nương, lại không hề cảm thấy số phận mình bi thảm, toàn bộ mọi tinh thần của nàng đều đang đặt vào trâm hoa địch y [*] trước mặt. Theo phẩm cấp, trong hôn lễ, nàng nên mặc bộ váy áo ống tay rộng màu xanh bằng vải la, cài chín hoa cài đầu chín cây trâm hoa, đeo bao che đầu gối, dải lụa, song bội. Dù trước đó đã làm quen rồi, nhưng khi thật sự mặc vào, nàng vẫn phải thấy đau đầu chóng mặt bởi địch y phức tạp, nào có sức lực quan tâm xem người khác nhìn nàng như thế nào.



[*] Địch y (翟衣): chú thích bằng hình ảnh được đặt dưới cuối chương.



Bản thân nàng cũng sắp không nhìn thấy chính mình nữa rồi.



Hôm nay Minh Hoa Thường xuất giá, Minh Vũ Tễ đã chạy qua đây từ sớm, nàng ấy giúp Minh Hoa Thường chải tóc, trang điểm, thay y phục, bận đến nỗi tối mày tối mặt. Không dễ gì mới thuận lợi mặc xong địch y, bấy giờ Minh Vũ Tễ cũng đã muốn đổ mồ hôi đầy người rồi.



Nha hoàn nâng phát quan đến, mái tóc đen mềm mại của Minh Hoa Thường được bó lại gọn gàng trong hoa thụ quan [*] lấp lánh lộng lẫy, thoáng cái, nàng đã trút bỏ vẻ hoạt bát ngây thơ, nhiễm lên mấy phần đoan trang ổn trọng của một vị Vương phi. Minh Vũ Tễ nhìn, chợt bùi ngùi mãi không thôi.



[*] Hoa thụ quan (花树冠): chú thích bằng hình ảnh được đặt dưới cuối chương.



Bấy giờ, nàng ấy mới chính thức ý thức được rằng, Minh Hoa Thường phải xuất giá thật rồi. Nàng ấy và nàng, mặc dù hai người là tỷ muội sinh đôi, nhưng vừa ra đời là đã phải chia cách hai nơi, mỗi người một phương, không dễ gì mới nhận lại nhau, nhưng bấy giờ lại phải chia nhà, chính biến, triều đình và rất nhiều chuyện nối đuôi nhau mà kéo đến. Bọn họ bị thế giới bên ngoài dắt mũi kéo đi, thời gian thật sự ở bên nhau, thật ra cũng không có bao nhiêu cả.



Nàng ấy còn chưa học được cách chung đụng với một người tỷ muội cùng tuổi, thì Minh Hoa Thường đã phải xa nhà trước rồi. Minh Vũ Tễ nhớ đến tình hình hôm nay, một sự áy náy chợt trào dâng trong lòng, trong thời khắc quan trọng mà cả đời nữ tử chỉ có một lần thế này, vậy mà hôn lễ của Minh Hoa Thường lại vắng vẻ, nàng ấy thật lòng hổ thẹn trước hai tiếng “tỷ tỷ” này.



Trong lòng Minh Vũ Tễ đang suy sụp, nhưng rồi nàng ấy chợt nghe thấy Minh Hoa Thường nhỏ giọng gọi mình: “Tỷ tỷ.”



Minh Vũ Tễ khẽ run lên, quay đầu sang: “Sao vậy?”



Minh Hoa Thường gắng sức đỡ cổ, mắt nhìn nàng ấy giống như mắt của một chú hươu, vô tội nói: “Muội đói rồi. Muội còn nhớ trong thực đơn có bánh hoa lạnh, có thể bảo phòng bếp chia mấy miếng cho muội ăn được không?”



Hỉ nương nghe xong thì vội nói: “Nhị nương tử ơi, trước khi xong lễ thì không thể ăn được đâu, ngài nhịn thêm chút nữa đi.”

Việc cử hành hôn lễ cần chú trọng nhiều điều, mà hôn lễ hoàng gia thì còn phải chú trọng nhiều hơn thế. Nếu như trong hôn lễ, tân nương muốn đi nhà xí hoặc là không thoải mái, thì sẽ khiến hoàng gia mất thể diện. Cho nên, nhằm đề phòng để lỡ chẳng may có chuyện gì đó xảy ra, thì dứt khoát không để tân nương ăn uống trước hôn lễ, chú trọng nghiêm khắc đến mức, thậm chí là đến cả nước cũng không thể uống được.



Cả ngày không ăn không uống, còn phải đội phát quan nặng như vậy để hoàn thành lễ tiết rườm rà, Minh Hoa Thường không biết tân nương khác có thấy khó chịu hay không, dù sao thì nàng cũng không thể kiên trì được. Muốn mạng của nàng thì được, nhưng còn nhịn đói thì không.



Minh Hoa Thường nhìn Minh Vũ Tễ với vẻ đáng thương, Minh Vũ Tễ do dự một lúc rồi vẫn chịu thua trước nàng.



Dù sao thì cũng không có khách khứa đến xem lễ, cần gì phải ra vẻ? Về phần những nữ quan cung đình đến hỗ trợ hôn lễ kia, sau khi họ nhìn thấy thì liệu họ có không thích hay không… Bọn họ muốn nói thì cứ nói đi, dù sao thì Hoàng đế cũng chẳng thật lòng chúc phúc cho hôn sự này, tệ và tệ hơn thì cũng có gì khác nhau đâu.



Minh Vũ Tễ nói: “Bánh hoa lạnh thì lạnh quá, muội ăn vào, coi chừng lại tiêu chảy đấy. Bảo phòng bếp bưng một dĩa bánh ngũ phúc đến đi, cái đó nhỏ mà lại dễ tiêu hóa, muội ăn là vừa vặn.”



Minh Hoa Thường vội nói: “Để lại mấy miếng bánh hoa lạnh cho muội với, muội về muội ăn!”



Hỉ nương nghẹn họng trố mắt nhìn Ung Vương phi – người chỉ trong một cái chớp mắt thôi mà đã ăn xong một dĩa bánh ngũ phúc, người còn chưa đi ra ngoài mà đã tính toán xong xuôi xem lần sau nên ăn gì. Hỉ nương thầm nghĩ, quả đúng là một tiểu cô nương, trong đầu chỉ nghĩ đến ăn uống thôi, rồi sau khi nàng gả đi, bắt đầu phải lo liệu viêc nhà, giúp chồng dạy con, hầu hạ nhà chồng, chỉ e là sẽ không còn hồn nhiên như bây giờ nữa.



Vừa nghĩ như thế, hỉ nương đã hơi thương cảm, cười nói: “Ăn được là phúc, vừa nhìn là biết nhị nương tử là người đại phú đại quý. Nếu nhị nương tử đã thích mùi vị như thế này, vậy thì tại sao lại không dẫn nữ đầu bếp làm bánh ngọt đến Vương phủ? Tránh cho việc nhị nương tử nhớ nhà mẹ đẻ.”



“Vậy thì không được đâu.” Minh Hoa Thường nói: “Nữ đầu bếp phải ở lại phủ Quốc Công, nếu không thì sau này sao ta lấy cớ về ăn chực được nữa?”



Nha hoàn ma ma trong phòng nghe thấy thế thì đều cười phá lên, hỉ nương lau nước mắt chảy ra vì cười, rồi lại nói: “Tình cảm của nhị nương tử và nhà mẹ đẻ thật là tốt quá, còn chưa xuất giá mà đã nghĩ đến chuyện về nhà mẹ rồi.”



“Đúng vậy, may mà ta có một vị tỷ tỷ tài giỏi trong việc lo liệu chuyện nhà cửa, sau này, ta không những được quay về ăn nhờ ở đậu, mà ta còn phải dẫn thêm một người nữa về cùng đó.”



Trong phòng là tiếng cười vang, Minh Vũ Tễ nghe Minh Hoa Thường ăn nói lung tung thì cảm thấy rất bất lực, nhưng nàng ấy cũng bất giác nở nụ cười theo.



Đúng vậy, hôn lễ chỉ là một nghi thức thôi, Minh Hoa Thường vẫn là người Minh gia, tình thân của bọn họ không bị cắt đứt, ngược lại, họ lại có thêm một người thân nữa.



Cả nhà bọn họ cứ kiên định sống qua ngày như thế, vậy thì đâu có cần phải so bì chuyện khách khứa đến chật nhà làm gì đâu chứ?



Bọn họ đang ở trong phòng nói cười, thì chợt, tiếng nha hoàn bẩm báo vang lên: “Đại nương tử, nhị nương tử, Bình Nam Hầu đến rồi!”



Minh Hoa Thường hơi kinh ngạc, Nhậm Dao đến à? Bây giờ thế cục không rõ, mấy nhà bọn họ chỉ sống thôi mà cũng đã vô cùng gian nan rồi, nàng còn tưởng là Nhậm Dao sẽ không tới nữa cơ. Minh Vũ Tễ hoàn hồn lại đầu tiên, vừa nói “Mau mời vào”, vừa bảo nha hoàn lấy hộp bánh ngọt đi, dặm phấn lại cho Minh Hoa Thường.



Nhậm Dao mặc Hồ phục màu tím, trên y phục có thêu hình đôi thú, tóc dài buộc lên một cách đơn giản, khi nàng ấy sải bước đi, khí khái hào hùng. Lúc đi vào, nàng ấy nhìn thấy đám nha hoàn đang vội vàng thu dọn hộp bánh ngọt, bèn đĩnh đạc nói: “Nên ăn thì cứ ăn đi, che che giấu giấu làm gì? Đây có nghĩa là không xem ta là người nhà à?”



Minh Hoa Thường nghe thấy thế thì cười khúc khích rồi nói: “Nhậm tỷ tỷ nói đúng, lấy bánh hoa lạnh ra đi, ta thấy ta còn chưa no nữa đâu.”



Minh Vũ Tễ trừng mắt nhìn nàng một cái: “Còn ăn nữa, ăn trôi cả son môi luôn rồi. Nếu như lát nữa đội đón dâu đến, muội định cứ thế này mà ra cửa à?”



“Có gì đâu mà không được? Dù sao thì lúc ra ngoài cũng dùng quạt che mặt mà, người khác không nhìn thấy thì sao mà biết được muội không son môi? Đợi đến tối bỏ quạt ra, muội sẽ nói là do đi ở trên đường nên vô tình cọ trôi mất rồi.”



Minh Hoa Thường càng nghĩ càng thấy đây quả đúng là một lý do hoàn mỹ, Minh Vũ Tễ vừa bực mình vừa buồn cười: “Muội đó, chỉ biết ăn bớt ăn xén trong hôn lễ của mình thôi, ai không biết thì còn tưởng là muội thành hôn thay cho người khác nữa đó.”


Nhậm Dao cũng nói: “Không cần trang điểm dày như vậy đâu, dù sao thì người yêu trong mắt cũng hóa Tây Thi, cho dù nhị nương ăn mặc thành kiểu gì đi chăng nữa, thì Lý Hoa Chương cũng cảm thấy muội ấy đẹp nhất.”



Minh Hoa Thường không cam lòng yếu thế, bèn nói: “Đó là bởi vì bản thân muội đã đẹp sẵn rồi, không liên quan gì đến huynh ấy.”



Hỉ nương thấy Minh Hoa Thường cười nói mà không hề kiêng kỵ gì, dần dần bà ấy ý thức được sự đồng cảm mà mình dành cho Minh Hoa Thường không hề có căn cứ gì, thậm chí là còn vô cùng buồn cười nữa. Ngày hôn lễ mà khách khứa thưa thớt, tương lai nhà chồng chưa rõ; nếu là một vị nương tử khác, thì chắc chắn là sẽ tủi thân đến nỗi chỉ muốn chết đi thôi, nhưng Minh Hoa Thường lại không hề để ý điều ấy, ngược lại, nàng còn nói cười, có ăn có uống, chứng tỏ rằng nàng không hề lo lắng đến cuộc sống tương lai, nàng có đủ cảm giác an toàn đối với vị hôn phu và người nhà của mình.



Cuộc sống của mình hạnh phúc, cần gì phải có khán giả kia chứ?



Suy nghĩ của hỉ nương vừa dứt, lại có mấy khách nữ nữa đến, theo thứ tự là người của phủ Thái Bình Công chúa và phủ Tương Vương. Thái Bình Công chúa và Tương Vương là người thân của Lý Hoa Chương, không tiện đến tiệc nhà gái, bèn phái con dâu hoặc nữ nhi đắc lực nhất đến, lặng lẽ bày tỏ thái độ của mình. Khuê phòng không lớn dần dần có đầy người đứng, dù ít người nhưng mỗi một người đều không hề tầm thường.



Trong lúc người ta không hay không biết, thì cũng đã đến hoàng hôn, giờ lành đón dâu sắp đến. Đám nha hoàn đứng ở cổng trong hóng chuyện vội vã chạy vào, reo lên: “Ung Vương đến rồi! Ung Vương đến rồi!”



Không khí trong hỉ phòng dần trở trở nên gấp gáp, nha hoàn vội vàng tìm bọc đầu gối và quạt tròn để che khuất mặt của Minh Hoa Thường. Nhậm Dao cầm cây gậy gỗ thuận tay lên, giãn gân cốt, nói: “Các ngươi cứ từ từ tìm đi, không cần phải gấp, ta ra ngoài cửa cản bọn họ, có ta ở đây, chắc chắn là ta sẽ không để Lý Hoa Chương vào cửa một cách dễ dàng.”



Minh Hoa Thường thấy cây gậy gỗ chân bàn thô to trong tay Nhậm Dao thì da đầu cũng tê dại rần rần, vội nói: “Nhậm tỷ tỷ, điềm đạm là nhất!”



Triều Đường có tập tục từ Bắc triều, dân phong chú trọng võ, thậm chí là đã lan tràn đến tận hôn lễ. Con rể muốn qua cửa thì trước tiên phải vượt qua được bài kiểm tra của thân thích nhà gái, trưởng bối của tân nương sẽ đứng ở sau cửa mà cầm gậy gỗ đánh tân lang, tục xưng là “hạ tế”. Đến cả Hoàng đế cũng không thể là ngoại lệ của nghi thức được tiến hành theo phong tục này, có đôi khi, đánh mạnh quá dẫn đến chết người, thì cũng chẳng phải là chuyện hiếm lạ gì.



Đợi đến khi đánh võ xong, tân lang còn phải làm thơ, mỗi lần vượt qua một cánh cửa là phải ngâm một bài thơ ngay tại chỗ, khi đến trước khuê phòng của tân nương thì còn phải làm một bài thơ thúc giục; mãi cho đến khi cả nhà gái đều thấy hài lòng rồi, thì mới có thể gặp mặt tân nương.



Nhưng mà, đây chỉ là bước đầu tiên thôi, sau đó còn phải có văn chúc phúc, ngồi yên ngựa, thanh lư bái đường, bỏ quạt,… Dù sao thì Minh Hoa Thường cũng cảm thấy, nếu như nàng đầu thai thành nam nhân, thì chỉ e là đời này, nàng sẽ không thể cưới được thê tử mất thôi. May mà Lý Hoa Chương giỏi văn giỏi võ, để hắn giao đấu với Nhậm Dao, chắc là không sao đâu… nhỉ?



Tại chính đường của phủ Trấn Quốc Công, Lý Hoa Chương mặc bộ lễ phục đỏ tươi, giương cung cài tên. Một mũi tên được bắn lên trời, tạ ơn ông trời ban thưởng nhân duyên; một mũi tên được bắn xuống đất, cung kính tổ tông phù hộ; một mũi tên được bắn về phía xa hoa, đẩy lùi tiểu nhân chặn đường, phù hộ quãng đời còn lại, phu thê sẽ đồng lòng, răng long đầu bạc.



Hắn bắn ba mũi tên liền, mũi tên bay đi, như tạo nên một vệt cầu vồng trong không khí, khiến người qua đường vây xem vỗ tay khen hay. Lý Hoa Chương đã chuẩn bị cho ngày này từ rất lâu. Thơ chặn cửa, hoàn toàn không đáng để nhắc tới, mà hắn lại còn hiểu rõ kiến trúc của phủ Trấn Quốc Công như lòng bàn tay. Thế nên, suốt đường đi, “thế như chẻ tre”, hắn “tiến quân thần tốc”, phủ Trấn Quốc Công còn chưa hoàn hồn được mà hắn đã xông đến cửa ải cuối cùng – trước khuê phòng của Minh Hoa Thường.