Tiền thuộc về Tiểu Địch Tạp Nhĩ, sau khi ông ngoại của nó bị đưa vào tòa án tôn giáo, liền thuộc về tòa án tôn giáo.
Một năm qua với ngài Địch Tạp Nhĩ mà nói chẳng khác gì bị dày vò dưới địa ngục.
Trước khi bị đưa vào tòa án tôn giáo, ông bị giam trong ngục Ba Sĩ Để (Bastille ).
Tòa ngục này xây 270 năm trước, hình dạng giống thành bảo, được người Anh dùng tác chiến, nơi này chứng kiến vô số nhân vật anh hùng bất tử, trứ danh nhất là thánh nữ Trinh Đức nước Pháp. (Jeanne d'Arc)
Nơi này chứng kiến thánh nữ Trinh Đức bị tòa án tôn giáo do Anh khống chế phán tội dị đoan và phù thủy đem thiêu sống, cũng chứng kiến tòa án tôn giáo Pháp lấy lại danh tiếng.
Dù làm thế nào thì Trinh Đức vẫn bị thiêu sống, ngay gần đây.
Cùng với chiến tranh Anh Pháp đình chỉ, thêm vào thành Ba Lê ( Paris) mở rộng, ngục Ba Sĩ Để thành kiến trúc trong thành, mất đi công năng quân sự.
Tòa ngục này có hào sâu, có cầu treo, tường thành dầy, còn không chế cao điểm ở Ba Lê, dễ thủ khó công được dùng làm nhà ngục, giam giữ phạm nhân trọng yếu.
Khi ngài Địch Tạp Nhĩ bị giam trong ngục Ba Sĩ Để, Trương Lượng bỏ ra 600 đồng bạc mua chuộc từ trên xuống dưới, vì thế cuộc sống trong ngục của ông rất tốt, chí ít mỗi ngày được uống sữa bò tươi, ăn bánh mì. Cứ 10 ngày còn được gặp hai đứa cháu ngoại Tiểu Địch Tạp Nhĩ và Tiểu Ngả Mễ Lệ.
Thậm chí vào thời điểm đặc thù ông còn được cùng Tiểu Địch Tạp Nhĩ thảo luận vấn đề toán học khô khan ngay trong ngục Ba Sĩ Để.
Ngài Địch Tạp Nhĩ là người có ý chí kiên cường tới khó tin, đối diện với những cám dỗ của tòa án tôn giáo, ông vẫn giữ được phẩm hạnh chính trực, kiên trì cho rằng khoa học mới là khao học tiến bộ, là ngày mai của nhân loại, vì thế ông không cúi đầu trước tòa án tôn giáo.
Nếu như không phải có hai đứa cháu cưng mong đợi từng ngày ở bên ngoài, ông thấy mình ngồi nhà giam cả đời cũng không phải là chuyện xấu. Vì n hư thế ông có thể khiến thêm nhiều người được mình cổ vũ, ưỡn ngực tấn công vào tòa án tôn giáo dã man ngu muội.
Trong mắt ông, tòa án tôn giáo là ung nhọt của thế giới, phải cắt bỏ nó, nếu không khoa học mới sẽ không có đất sinh trưởng.
Kiều Dũng vô cùng khâm phục tiết tháo của ngài Địch Tạp Nhĩ, thậm chí có thể thấy bóng dáng các tiên hiền thời xưa của Đại Minh trong ông, có lẽ đó là điểm chung của nhân loại.
Khi tầm nhìn của một người đã xa hơn, tai họa trước mắt không còn là gì nữa.
Trong thời gian ở trong ngục, ngài Địch Tạp Nhĩ hoàn thành một lần suy ngẫm dài trong đời, thông qua lần suy nghĩ này lần nữa xác định mệnh đề triết học mấy năm trước ông ta suy diễn ra .... Ta nghi ngờ, ta tư duy nên ta tồn tại.
Ông ta cho rằng khi nhân loại suy nghĩ thì nhất định phải có vật tham chiếu cố định, nếu không sẽ lệch lạc, không toàn diện.
Ông ta thích dùng phương thức đối chiếu này suy nghĩ vấn đề, tạo thành kiến giải mới trong hệ thống triết học .... Luận nhị nguyên.
Ông cho rằng, nếu đã có thượng đế thì sẽ có ma quỷ, có chết phải sống, có xấu phải có tốt ... Cách nói này rất cực đoan, không dùng phương thức biện chứng nhìn thế giới.
Ông ta tuyên bố mình "trầm tư" là để bảo vệ tính ngưỡng Cơ Đốc Giáo, nhưng ngài Địch Tạp Nhĩ bí mật tuyên truyền tín ngưỡng tự nhiên luận và vô thần luận.
Bạn thân của ông là Bố Lai Tư - Mạt Tư Tạp (Blaise Pascal ) nói :" Ta không thể tha thứ cho Địch Tạp Nhĩ, trong toàn bộ triết học của ông ta đều muốn gạt bỏ Thượng Đế. Nhưng ông ta lại không thể không cần Thượng Đế khẽ chạm một cái để thế giới vận động, trừ điều đó ra thì ông ta không cần tới Thượng Đế nữa rồi."
Đám sứ giả Đại Minh như Kiều Dũng, Trương Lương lấy học thuật Đại Minh nhìn ngài Địch Tạp Nhĩ, nói ông đang ở thời khắc quan trọng nhất trong đời, gọi là ... Giác ngộ.
Sau khi giác ngộ sẽ thành thánh nhân.
Giống như Vương Dương Minh tiên sinh của Đại Minh luyện khí trong quân doanh, đột nhiên hú dài chấn động mười dặm.
Chính vì đã vào nhà giam vẫn không chịu từ bỏ thứ khoa học dị đoan, ông bị đưa tới La Mã đợi ngày phán xử, khi ngài Địch Tạp Nhĩ tới La Mã, chính là lúc ông bị hỏa thiêu, ai ngờ khi ông vừa vào tòa án tôn giáo La Mã thì vị giáo hoàng hạ lệnh bắt ông chết đột ngột.
Sau đó vào một buổi sáng đầy ánh nắng, ngài Địch Tạp Nhĩ rời nhà giam, tới gặp cháu trai cháu gái đã đợi ông từ lâu.
Lúc đi, ông không cám ơn giáo hoàng Á Lịch Sơn Đại VII.
Ông đơn giản cho rằng một người tiếp nhận giáo dục bậc cao như giáo hoàng Á Lịch Sơn Đại thì có tầm nhìn rộng, không cần phải cám ơn, ngược lại giáo hoàng phải cám ơn ông ta ... vì ông ta còn sống.
Ông cho rằng cái đầu của mình không thuộc về mình nữa, nó thuộc về nước Pháp, thậm chí là toàn nhân loại, ông chết là tổn thất của thế giới này, nên giáo hoàng phải cám ơn ông ta.
Mặc dù nhà ngục không gây tổn hại tới ông, nhưng thân thể yếu ớt của ông không thể lập tức rời La Mã về Ba Lê, vì thế ông ở lại La Mã đầy ánh nắng nghỉ dưỡng một thời gian, thuận tiện đi tìm giáo hoàng đòi số tiền thuộc về cháu ông ta.
Hai năm trôi qua, Tiểu Địch Tạp Nhĩ đã trở thành thiếu niên anh tuấn, Tiểu Ngả Mễ Lệ cao hơn rất nhiều, làm ông kiêu ngạo nhất là Tiểu Địch Tạp Nhĩ di truyền tướng mạo của ông ta, vừa bước vào tuổi thiếu niên trên mặt đã có tàng nhang, rất giống ông ta.
Chỉ là tóc họ không giống nhau, tóc ông màu đen, còn Tiểu Địch Tạp Nhĩ và Ngả Mễ Lệ tóc vàng.
Nữ phó và nam phó đều ở lại Ba Lê, cho nên chỉ còn hai đứa cháu chăm sóc ngài Địch Tạp Nhĩ.
Sau khi được Ngả Mễ Lệ giúp tắm rửa, ngài Địch Tạp Nhĩ thấy một bức sáng thịnh soạn trên bàn, nhất là hai con chim ngói nướng cháy vàng làm ông ta rất thích.
Có điều khi ông đưa thịt chim ngói vào miệng mới nhận ra đây là thịt chim sẻ, ngài Địch Tạp Nhĩ cười lớn, cười tới không thở nổi, nói với cháu trai, ông ta đoán được lai lịch của chúng: “ Đây là chim sẻ ở quảng trường đại giáo đường à?”
Tiểu Địch Tạp Nhĩ không cười, lãnh đạm nói: “ Giáo hoàng không cần chim sẻ.”
“ Đó không phải là lỗi của giáo hoàng hiện giờ, mà là lỗi của giáo hoàng trước.”
“ Ông cũng đang ăn chim sẻ của giáo hoàng trước mà.”
Ngài Địch Tạp lại cười lớn: “ Nói thế cũng đúng.”
Ăn sáng xong, hai ông cháu Địch Tạp Nhĩ đi tản bộ, đó là yêu cầu của Tiểu Địch Tạp Nhĩ, nó cho rằng làm vậy giúp ông ngoại sống lâu hơn.
Ngài Địch Tạp Nhĩ nhìn sách trong tay cháu mình liền cau mày: “ Cháu thích phương đông sao?”
“ Vâng, cháu nghe nói ở phương đông xa xôi có một quốc gia cường đại, văn minh, giàu có gọi là Đại Minh, cháu rất muốn tới xem.”
“ Ừ, từ những thương nhân và truyền giáo sĩ ở đó về, ông cũng biết ít tin đồn về phương đông, nghe nói nơi đó có nhiều nhân vật giỏi giang. Nếu cháu thích, ông có thể giúp cháu hẹn cha cố Thang Nhược Vọng, ông ấy vừa từ phương đông xa xôi về tới La Mã, hơn nữa nghe nói ông ấy đã dạy học nhiều năm ở thư viện Ngọc Sơn nổi tiếng nhất Đại Minh, ông nghĩ, cháu sẽ có tin tức chính xác nhất về Đại Minh.”
Tiểu Địch Tạp Nhĩ ngước mắt lên: “ Thực sự là được sao, ý cháu là, khi ông đi gặp cha cố Thang Nhược Vọng có thể dẫn cháu theo sao?”
Ngài Địch Tạp Nhĩ véo cái má non nớt của cháu trai: “ Bọn ông hẹn nhau buổi tối ngày kia, khi đó có rất đông người, đều là nhân vật lớn. Khi đó nhớ lấy lá trà cháu thính thích và bánh khô của Ngả Mễ Lệ chiêu đãi họ.”