Đèn bắt đầu được thắp, có thể trông thấy Thần Nông trấn thấpthoáng trong khói bếp lơ lửng trên không trung. Vó ngựa đạp lên nhưng viên đáxanh lát đường cũ kỹ phát ra những âm thanh giòn giã, vừa qua cổng trấn, tiếngvó ngựa dần chìm vào sự ồn ã chốn đông người.
Vốn “Thính Phong Lâu” có tên là “Lâm Giang Tiên”, là chỗ lớnnhất, có khí thế nhất trong Thần Nông trấn. Chỉ bởi nơi này nằm bên bờ sông, bấtkể anh có ngồi đầu đi chăng nữa đều có thể nghe thấy âm thanh vù vù của gió thổi,cho nên mới đổi tên như hiện nay. Chỗ đặc biệt của Thần Nông trấn so với nhữngnơi khác, ngoài việc tiệm thuốc nhiều, phòng mạch lắm, khách điếm nhan nhản rathì chính là nhiều tửu lâu, cơ hồ cứ mười bước lại có một quán. To nhỏ khácnhau, phục vụ đầy đủ cho mọi loại du khách. Những người phải tới đây tìm thuốcbệnh thường không nhẹ, cho nên hơn nửa đều phải ở lại trong trấn mười ngày nửatháng. Bệnh nhân, lại thêm người đi theo chăm sóc, tự nhiên phải có chi phí rồi.Cho nên, quán rượu tuy nhiều nhưng quán nào cũng có việc cả. Lại thêm bệnh tậtđến chẳng phân thời tiết, thời điểm nào trong năm cũng có người bệnh đến tìm đến,cho nên việc làm ăn ở đây đơn giản là không phân biệt mùa đắt khách, mùa đông.Thính Phong lâu tính ra chính là nơi tấp nập nhất.
Trà thơm được rót ra, khói nghi ngút bốc cao. Hà Y vừa tiếnvào cửa lớn lập tức có tiểu nhị ân cần chào hỏi. Nàng đang cảm thấy khát chonên trước tiên gọi một chén trà hoa cúc. Chén trà làm bởi sứ men đen, vừa rótnước sôi vào, qua một lúc, hoa cúc đã nở trong chén, thật giống hệt như tranhthủy mặc. Quán hạng nhất đương nhiên dùng đồ hạng nhất, chén men đen này làm phỏngtheo hình dạng chén thời Tống, người thời Tống rất thích so sánh trà, màu tràquý ở chỗ trắng, cho nên dùng chén sứ đen thì có thể làm sắc trà hiển hiện rõràng nhất. Như bây giờ tuy trên thị trường đồ mô phỏng nhiều nhưng phần lớn làcác nhà giàu có cất giữ. Hà Y lăn lộn trong giang hồ, đã uống trà ở không biếtbao nhiêu quán rượu, nhưng quán dùng đồ thưởng trà quý giá nhường này thì thậtsự hiếm thấy. Chẳng qua, giá cả ở Thính Phong lâu cũng đắt đến dọa người ta khiếpvía.
Tiểu nhị nói: “Cô nương là khách lần đầu tới, bản quán có lệkhách lần đầu tới đều giảm giá bốn phần. Không biết cô nương muốn mua thứ gì”.
Hà Y nghĩ, hôm qua vừa kiếm được một khoản lớn, tuy vừa mấtđứt hai trăm lương ngân phiếu trong bọc hành lý, nhưng vẫn quyết định phải tiêuxài một phen. Dù sao đây cũng là lần đầu tiên trong đời nàng thoải mái tiêupha. Bèn nói: “Quán các vị có món gì ngon, đặc sắc thì cứ đem lên đi”.
Tiểu nhị đáp: “Có đương nhiên có. Bản quán gần đây có để ramột suất ăn Đạo gia thất tinh, tùy theo khách nhiều hay ít phân thành ba loại lớn,vừa, nhỏ. Cô nương dùng bữa một mình, đồ không cần quá nhiều, gọi loại nhỏ đượcrồi”.
Hà Y nói: “Gọi như thế đi, nhanh đem lên”.
Một lát sau, tiểu nhị bưng lên sáu đĩa thức ăn nhỏ, xem racó vẻ rất cầu kỳ tinh tế. Nhưng ở giữa lại có một chiếc đĩa trống không. Hà Y hỏi:“Cậu nói là bảy món, thế thì phải có bảy đĩa mới đúng, thế nào lại chỉ có sáuđĩa? Cái đĩa trống ở giữa có phải dùng để bỏ xương không?”.
Tiểu nhị khẽ cười, sớm đã dự liệu nàng sẽ hỏi như thế, bènđáp: “Không phải đâu. Đĩa trống ấy cũng là một món. Tên gọi là ‘Hỗn nguyên nhấtkhí’”.
Hà Y trợn tròn mắt hỏi: “Ông chủ chỗ các vị muốn phát tài đếnphát cuồng rồi sao? Một cái đĩa trống mà cũng tính là một món?”.
Tiểu nhị đáp: “Cô nương không biết rồi, khách đến bản quánđa phần đều xuất thân từ dòng dõi thư hương. Món này chính là chỉ cái ý lấykhông làm có mà Đạo gia nhắc tới. Chẳng giấu gì cô nương, bản quán giới thiệumón này ra đã hơn hai tháng, những người nếm qua đều khen là có ý tứ. Không ítquan khách còn cố tình dẫn theo bạn bè đến ăn, chuyên gọi món này đê thể hiệntrình độ học vấn. Còn nữa, cái dĩa đựng món này làm bằng sứ men xanh Châu Quangcủa trấn Cảnh Đức, trăng như ngọc, sáng như gương mỏng như giấy, gõ vào âmthanh trong như tiếng khánh. Chỉ mỗi cái đĩa không đã có giá trị năm lượng bạcrồi”.
Hà Y vừa ăn vừa lắc đầu, mới ăn xong một đĩa đã nghe thấytrên lầu có tiếng đánh lộn vọng xuống. Chỉ là lầu dưới đông khách, mọi người ainấy đều lo việc của mình, vui đùa uống rượu, ồn ào huyên náo che lấp luôn tiếngđánh nhau kia. Hà Y không nhịn được hỏi tiểu nhị: “Trên lầu hình như không đượcyên ổn cho lắm?”.
Tiểu nhị gật đầu nói: “Là huynh đệ của Thủy Long bang và PhiƯng đường có chút quá khích, làm loạn lên ở trên ấy. Đây là việc bình thường,cô nương không cần phải lo sợ”, vừa nói xong, chợt nghe “bịch, bịch” hai tiếng,hai đại hán cường tráng đã bị người ta quăng từ lan can lầu hai xuống dưới. Haingười kia nặng nề rơi xuống đất, làm vỡ một cái bàn lớn, rượu và đồ nhắm vungvãi khắp nơi. Khách ở lầu dưới gặp việc lạ mà cứ như không, ai nấy chỉ quay đầunhìn một cái rồi lại quay đi tiếp tục ăn uống.
Tại cái bàn vừa bị vỡ tan kia có hai thanh niên áo đen ăncơm, một người rất cao, mắt to mày rậm, vận áo vải gọn gàng, dáng vẻ từng trải.Người kia thấp hơn nửa cái đầu, nhìn vẫn cao hơn người bình thường rất nhiều,eo thon, tay dài, khoác một cái áo khoác màu xám. Hai người này từ bên ngoài tớivà rõ ràng đã tới nhầm nơi. Trên bàn của người khác toàn là thức ăn ngon lành,bọn họ thì mỗi người một bát cơm trắng, trên bàn trống không. Hai người nàytrông thấy có người rơi tới, liền nhanh chóng bưng bát cơm của mình, chuyển đếnmột cái bàn sát tường, tiếp tục và cơm ăn. Vừa ăn xong một miếng, trên lầu lạicó hai người nữa bị ném xuống, lại thấy sắp rơi xuống bàn của họ, chỉ thấy ngườicao lớn hơn vươn tay tới lưng của kẻ đang ngã xuống, một đỡ một đẩy, kẻ bị ngãkia vốn đang trong tư thế chân tay chổng hết lên trời, vậy mà bị anh ta, giữakhông trung tính chuẩn như dùng bàn tính, xoay một vòng, hai chân liền đứng vững,vừa chạm đất một cái lập tức cắm đầu cắm cổ chạy vội vàng ra ngoài. Người còn lạirơi xuống bên cạnh thanh niên áo đen thấp hơn, anh ta chẳng thèm để ý, mặc kể kẻkia lổm ngổm trước mắt. Chỉ nghe thấy người cao hơn hỏi: “Trên kia rốt cuộc cóchuyện gì vậy?”.
Người đi cùng đáp: “Có người rơi xuống, lại chẳng phải họ tựnhảy, tất nhiên là có chuyện rồi”.
Người cao hơn nói: “Để đệ lên xem sao”, nói xong cất bước địnhđi. Người đi cùng kéo lại, nói: “Đệ chờ đi. Nơi đây lắm người, nhiều chuyện phứctạp, không dưng chớ có đi tìm phiền phức. Phải nhớ cho kỹ điều thứ tám trongnguyên tắc an toàn khi hành tẩu giang hồ: Tài cao phải sợ gan lớn”.
Hà Y vừa nghe đươc, khúc khích một tiếng, thiếu nữa thì phìcười.
Người cao hơn rõ ràng không màng đến lời người kia nói: “Đệmuốn lên xem xem, rốt cuộc là kẻ nào ngang ngược ở đây”. Không đợi người kiađáp lời, thân hình của anh ta đã biến mất tựa khói, đi lên trên rồi. Chẳng baolâu sau, lại nghe thấy “bịch” một tiếng, có một người ngã xuống. Người áo đenkia ở dưới lầu vội vươn tay đỡ được người bạn của mình, trên mặt người ấy đã bịđánh cho ứa máu, người kia vội giúp bạn mình đứng dậy, nói: “Đã bảo đệ chớ đi,đệ cứ nằng nặc không nghe. Cứ để người ta dánh cho sưng mặt rồi mới thôi”.Thanh niên cao hơn hiển nhiên không phục, đưa tay quyệt máu trên mặt một cái, đẩybạn mình ra rồi lại xông lên.
Hà Y vẫn điềm nhiên uống trà hoa cúc, cảm thấy hai thanhniên này rất thú vị. Chẳng bao lâu sau, trên tầng lầu lại vang lên tiếng ồn ào,có mấy người bay qua cửa sổ văng ra ngoài, hàng loạt tiếng loảng xoảng chén đĩavỡ tan tành. Sau đó mọi thứ yên lặng trở lại, người thanh niên cao lớn hơnnghênh ngang đắc ý từ trên lầu đi xuống.
Người thấp hơn hỏi: “Đòi được công bằng chưa?”
Người cao hơn đáp: “Đòi được rồi”.
Người thấp hơn hỏi: “Cuối cùng thì sao bọn họ lại đánh lộn?”.
Người cao hơn đáp: “Đệ không biết”.
Người kia cười khổ: “Đệ không biết? Đệ cũng không hỏi?”.
Người cao hơn nói: “Đông người quá, hỏi không nổi. Chẳng qualà chút ân oán giang hồ, giống như đàn bà cãi nhau thôi, vĩnh viễn chẳng biếtđược ai đúng ai sai”, còn đang nói chợt nhìn thấy một người trung niên béo lùnkhông biết từ lúc nào đã vô thanh vô tức tới dứng sau lưng mình, tủm tỉm cười.Người trung niên này bụng to, eo tròn, mang một dáng vẻ nhàn nhã, thung dung.Ông ta một bên vuốt cái thắt lưng gấm xanh mới toanh trên người, dường như cựckỳ hài lòng với chất liệu của trang phục, một bên dùng một chiếc khăn lau đilau lại cái nhẫn làm bằng ngọc thời Hán có vân trên ngón trỏ, có vẻ như đang đợithanh niên áo đen cao hơn nói xong.
Thanh niên áo đen cao lớn hỏi: “Các hạ tìm tôi có việc gì?”
Người trung niên nói: “Không dám. Tại hạ là Ông Anh Đường làchủ cái quán nhỏ này. Vừa rồi công tử đạp vỡ của bản quán năm mươi hai cái đĩa,lại đánh hỏng ba cái bàn. Loại đĩa này là bản quán nhập từ trấn Đức Cảnh về,bàn bằng gỗ hồng, tất cả cộng lại là năm trăm linh ba lượng, năm tiền. Nếu nhưtrên người công tử có sẵn tiền vậy phiền công tử thanh toán, bằng như không tiệnthì ngân phiếu cũng được, Ngân phiếu của Đại thông, Bách Hối, Long nguyên, BảoPhong tứ đại điền tranh chúng tôi đều nhận”.
Người thanh niên kia cười lạnh, nói: “Vừa rồi những kẻ kiacũng đập của ông bao nhiều đồ, phá của ông bao nhiêu bàn? Ông cũng muốn bọnchúng bồi thường à?”
Ông Anh Đường đáp: “Bọn họ đã bồi thường rồi. Không tin thìcông tử nhìn xem, đây chính là bằng chứng”.
Quả nhiên ông ta đưa ra một tờ kê với một ngân phiếu. Thanhniên cao lớn kia nhíu mày, nói: “Tôi không có nhiều tiền như thế”.
Ông Anh Đường nói: “Như thế này thật quá kỳ lạ rồi. Cái bànnày không phải đồ nhà công tử, công tử cũng không định đền, vậy tại sao công tửđập vỡ nó? Vừa rồi những người kia sở dĩ đập phá, ấy là bởi bọn họ đã bảo trướcvới tôi bọn họ chuẩn bị đầy đủ tiền bồi thường rồi, tôi mới để bọn họ đập phá”.
Thanh niên cao lớn nói: “Đám người ấy, lẽ nào bọn họ ăn no rửngmỡ? Vừa đập đồ đạc vừa đền tiền?”.
Ông Anh Đường cười nói: “Thế thì có gì là lạ? Hai bang tranhchấp, muốn tìm một chỗ giải quyết. Bọn họ cũng bàn với nhau chọn đúng chỗ này củatôi, cảm thấy đập bàn phá chén cũng rất thú vị, chỉ cần có đủ tiền, cứ vô tư màphá. Ấy là bởi chỗ này người ra kẻ vào tấp nập, tin tức lan đi rất nhanh. Bọn họmuốn là muốn danh tiếng, để người trên giang hồ biết thế lực của Thủy Long bangvà Phi Ưng đường, lại muốn biểu diễn một chút, cũng định tổ chức ở đây, cho nênđã lo liệu hết rồi. Các hạ hồ đồ nhảy vào, phá bao nhiêu là đồ đạc, Người haibang ấy nói họ chỉ bồi thường những thứ họ phá, họ không quen biết các hạ, chonên không thể tùy tiện bồi thường giúp được”.
Thanh niên cao lớn bị ông ta nói một tràng như thế, cũng cảmthấy mình đuối lý, nói: “Việc này…” dáng vẻ rất bối rồi.
Hà Y đứng bên cạnh nói: “Tiền vị công tử này nợ, tôi trảgiúp là đươc”.
Ba người đều quay sang nhìn nàng. Thanh niên cao lớn hơnnói: “Đa tạ. Có điều tại hạ không hề quen biết cô nương, không dám tùy tiện nhậnân tình này. Món tiền này, tại hạ tự nghĩ cách”.
Hà Y nói: “Công tử cả nghĩ rồi. Tiền tài là vật ngoài thân,có rồi mất chẳng qua cũng chỉ là phút chốc mà thôi”, nàng rút ra một tờ giấyhoa văn tinh tế, bên trên kín mít các loại hoa văn. Ông Anh Đường vừa trông thấyngân phiếu, nụ cười trên mặt lại càng tươi như hoa, nói: “Được, được, chỉ cầncó người bỏ tiền là được. Tiền cũng chẳng có ai ký tên, tiền của ai cũng khôngthành vấn đề”, ông ta săm soi hoa văn, chợt biến sắc, nói: “Cô nương, xin hỏi tờngân phiếu này từ đâu mà có?”.
Hà Y đáp: “Chẳng lẽ ngân phiếu là giả?”.
Ông Anh Đường nói: “Ngân phiếu thì đúng là thật. Chỉ có điều,tờ ngân phiếu này là của Mộng Vân cốc phát ra. Phải chăng cô nương là người củaMộng Vân cốc”.
Hà Y đáp: “Tuy là không phải, nhưng tờ ngân phiếu này đúnglà do Mộ Dung tiên sinh đưa cho tôi”.
Ông Anh Đường hỏi: “Trong cốc có khá nhiều người mang họ MộDung, không biết người cô nương nhắc tới là vị Mộ Dung nào?”
Hà Y đáp: “Mộ Dung Vô Phong”.
Ông Anh Đường trợn tròn mắt nhìn nàng, nhìn chằm chằm cả buổimới nói: “Cô nương từng gặp Mộ Dung cốc chủ”.
Hà Y nói: “Đã gặp”.
Ông Anh Đường bỗng nhiên cúi thấp đầu nói: “Cô nương tuy rộngrãi, nhưng tại hạ không dám nhận tiền của cô nương”.
Hà Y hỏi: “Tại sao?”.
Ông Anh Đường kéo Hà Y sang một bên, nhỏ giọng nói: “Việchôm nay, cũng mong sau này cô nương đừng nói với cốc chủ”.
Hà Y hỏi: “Tại sao?’.
Ông Anh Đường nghĩ ngợi một lúc rồi nói; “Nguyên cớ bêntrong không tiện nhiều lời”, nói xong quay người lại cười với người thanh niênáo đen, nói: “Công tử, việc hôm nay không tính toán nữa, Sau này hạ cố tới bảnquán, thấy có người đánh nhau cũng xin công tử hỏi trước một câu rồi hãy đánh”.
Thanh niên áo đen cao lớn trợn mắt nhìn ông ta, bộ dang tỏra không thèm nhận món ân tình này. Nhưng người đi cùng đứng bên cạnh lại nóingay: “Đương nhiên, đương nhiên”.
Ông Anh Đường cười ha hả nói: “Nói hay lắm, nói hay lắm,chuyện vừa rồi quấy rầy ba vị dùng bữa, đồ ăn xem ra cũng nguội cả rồi. Xin ngồiđợi một chút, tôi lập tức kêu người chiếu theo các món cũ mà mang lên đồ mới,coi như là một chút tâm ý của tôi”.
Thanh niên cao lớn nhìn ông ta rời đi, nói: “Kỳ quái. Saoông ta tự nhiên lại rộng rãi thế?”.
Người đi cũng nói: “Xem ra ắt là đối với thần y Mộ Dung cóchút úy kỵ”.
Anh ta ngừng một chút rồi nói tiếp: “Việc vừa rồi đa tạ cônương giúp đỡ, tôi họ Uất Trì, gọi là Uất Trì Tĩnh Lôi. Đây là tiểu đệ, Uất TrìTĩnh Đình”, nói rồi chỉ sang người thanh niên cao lớn vừa nãy xông lên lầu.
Thì ra là một cặp huynh đệ, thảo nào tướng mạo giống nhau đếnthế.
Hiển nhiên Hà Y chưa từng nghe tới hai cái tên này, nói:“Hân hạnh. Tôi họ Sở, gọi là Sở Hà Y”.
Uất Trì Tĩnh Lôi kinh ngạc đổi sắc mặt, nói: “Lẽ nào chínhlà Sở cô nương, một kiếm đánh bại Phi Ngư đường? Chúng tôi đã từng đọc trênGiang hồ khoái báo rồi”.
Hà Y hỏi: “Giang hồ khoái báo?”.
Uất trì Tĩnh Lôi nói: “Chẳng lẽ cô nương không biết Giang hồkhoái báo của Phấn Trai tiên sinh? Giang hồ danh nhân bảng mỗi năm đều đăngtrên đó”.
Hà Y nói: “Thế sao?”.
Uất Trì Tĩnh Lôi nói: “Chúng tôi tới từ vùng Tây Bắc. Cônương đã nghe tới phái Côn Lôn chưa?”.
Trên giang hồ ấn tượng về phái Côn Lôn đơn giản giống hệtnhư ấn tượng về dãy Côn Lôn, xa tít mù tắp. Tựa như chỉ tồn tại trong truyềnthuyết thôi. Ít nhất là trong vòng hai ba chục năm gần đây, chẳng hề thấy mộtai thuộc phái Côn Lôn vào trung nguyên hành tẩu.
Hà Y cười chiếu lệ, nói: “Đương nhiên là có nghe qua”.
Uất Trì Tĩnh Lôi vui mừng nói: “Tuy mười mấy năm gần đây,phái Côn Lôn không có ai trới trung nguyên nhưng nếu Sở cô nương từng đọc Gianghồ cựu văn san của Phấn Trai tiên sinh, nhất định sẽ không thấy lạ lẫm vớichúng tôi”.
Uất Trì Tĩnh Đình cũng sáp lại nói: “Sư tổ của chúng tôi,‘Côn Lôn nhị lão’, năm xưa ở tây bắc, điểm những người dám bằng vai phải lứa vớihai vị cũng chỉ có mỗi mình Thiên Sơn Băng Vương thôi. Chỉ đáng tiếc hai vị lãogia một lòng theo đạo, cả năm không xuống núi, cho nên mới khiến cả trungnguyên chỉ biết tới mỗi Thiên Sơn Băng Vương mà không biết tới Côn Lôn nhịlão”.
Hà Y nói: “Chẳng trách, chẳng trách. Ngưỡng mộ đã lâu, ngưỡimộ đã lâu. Danh tiếng của Côn Lôn nhị lão, không chỉ ở vùng tây bắc, mà ngay cảở trung nguyên cũng vang dội không thôi”.
Hai huynh dệ nghe thấy nàng nói vậy, ngay lập tức lộ vẻ vuimừng, nói: “Sư phụ chúng tôi lúc lâm chung có dặn dò, muốn chúng tôi nhất địnhphải khiến cho Côn Lôn danh chấn giang hồ, cô nương cũng là người nổi tiếng trongvõ lâm, liệu có thể chỉ bảo cho một, hai điều chăng?”
Uất Trì Tĩnh Lôi nói: “Danh hiệu của chúng tôi là ‘Côn Lônsong hùng’, cũng gọi là ‘Côn Lôn song kiệt’. Cái tên này nghe cực hay, chúngtôi phải mất đứt ba tháng mới nghĩ ra được đấy”.
Hà Y nói: “Hành tẩu trong giang hồ, đương nhiên là phải códanh hiệu hay ho, chỉ là…”.
Hai huynh đệ kia lập tức hỏi: “Chỉ là sao? Lẽ nào cái tên ấynghe không hay?”.
Hà Y nói: “Nếu như hai vị lấy hiệu là song hùng, ví như ngườikhác không ưa hai vị thì sẽ có thể thay chữ ‘hùng’ trong anh hùng, thành chữ‘hùng’ trong cẩu hùng[1]. Nếu như hai vị gọi là song kiệt, những bậc giang hồlão luyện có thể không thích. Bởi vì lão làng trong giang hồ thích nghe nhữngdanh hiệu khiêm tốn một chút”.
[1] Gấu chó.
Hai huynh đệ kia nghe hết một lượt rồi gật đầu lia lịa nói:“Chí phải, chí phải, vậy theo cô nương, phải chọn danh hiệu thế nào mới tốtđây?”.
Hà Y nói: “Chẳng bằng gọi là ‘Côn Lôn song kiếm’ đi. Một làhai vị đều dùng kiếm, hai là chữ ‘kiếm’ chỉ là tên binh khí, bất kể các vị bâygiờ chưa nổi tiếng hay là sau này nổi tiếng, đều dùng được”.
Uất Trì Tĩnh Lôi vừa nghe xong, mừng rơn, nói: “Hay lắm haylắm, Côn Lôn song kiếm, chính là cái tên này, Chúng tôi đến đây chính là để xemtỉ thí. Trận chiến ở Phi Ngư đường, chúng tôi đã bỏ lỡ mất, nhưng cuộc chiến ởPhi Diên cốc lần này, chúng tôi thế nào cũng quyết không bỏ lỡ “.
Uất Trì Tĩnh Đình nói: “Ngày mai hai người chúng tôi và Thẩmcông tử phái Nga My có hẹn so kiếm ở Phi Diên cốc. Nếu có thể thắng được vị ấy,chúng tôi hẳn được xếp hạng thứ mười hai rồi. Cô nương giả như có thời gian haylà cũng tới xem”.
Tay Hà Y chợt run run, nói: “Thẩm công tử? Thẩm Bân?”.
Hai huynh đệ nhà Uất Trì gật đầu, nói: “Đúng vậy. Xin thứ lỗi,không thể tiếp tục trò chuyện được rồi, hai huynh đệ chúng tôi tối nay còn phảiluyện kiếm. Cáo từ”. Hà Y đang do dự, có nên đem chuyện Thẩm Bân chết thảm nóira không vừa ngẩng đầu lên, hai huynh đệ kia đã ra khỏi cửa lơn.
Đưa mắt nhìn theo hai người đó, trong lòng Hà Y đột nhiên dânglên một nỗi phiền muộn không tên. Hai người này xem ra vẫn còn là hai thanhniên chân chất thuần phác không hơn, trong đầu tràn đầy nhiệt huyết và mộng tưởng,hăng hái bừng bừng bước chân vào giang hồ. Giống như tất cả những người vừa vàogiang hồ, họ theo bước những người nổi tiếng, đi bốn phương khiêu chiến, tranhthủ từng cơ hội để nổi danh.
Còn phải rất lâu nữa họ mới có thể biết được quy tắc vậnhành của giang hồ, nhưng sẽ rất nhanh thôi hiểu được cái hung hiểm của nó.
Hay gặp trên đường nhất, quá nửa là thiếu niên thế cô lực mỏng,bọn họ thường trước bái sư học nghệ, gia nhập vào một môn phái có tiếng tăm. Màmôn phái này tất nhiên thế nào cũng có thù oán truyền đời với một, hai môn pháinào đó khác nữa. Mỗi năm, đệ tử của hai phái sẽ lại khiêu khích nhau, sau đó làmột trường đại chiến, do các đệ tử ưu tú của hai phái tham gia, từ đồ đệ tỉ thírồi đến sư phụ lên đài, phân rõ thắng bại. Bên thua tất nhiên phải nghiến răngnghiến lợi, ngậm đắng nuốt cay mà luyện tập gian khổ để năm sau rửa nhục.
Tất nhiên, đã là người thân mang tuyệt kỹ, con đường điđương nhiên sẽ khác. Con đường ấy ngắn hơn, trực tiếp và nguy hiểm hơn.
Con đường ấy chính là tìm đến kẻ có tiếng mà khiêu chiến,đánh bại kẻ ấy thì chính mình nổi danh. Đương nhiên, nếu xui xẻo mà thua, hậuquả tất yếu hoặc mất mạng đương trường, hoặc tàn phế cả đời, hoặc bị trục xuấtkhỏi võ lâm
Người đi trên con đường thứ hai, đương nhiên cũng có cách thứcriêng mà theo. Đối với kiếm khách mà nói, chính là một câu: phải thường xuyênquan sát. Anh phải biết tường tận những nhân vật kiệt xuất trong giang hồ mấynăm gần đây, từ cuộc sống cho đến hành vi của bọn họ đều phải năm rõ như lòngbàn tay. Trước khi cầm chắc chiến thắng, anh phải bám sát họ, không bỏ qua bấtcứ cơ hội nào để quan sát kiếm pháp.
Loại khát vọng thành danh này đang thúc đẩy các kiểu thỉ thítrên giang hồ.
Linh Tiên đài của Hoa Sơn, Phi Diên cốc của Vân Mộng và ThíKiếm sơn trang của Tạ gia ở Giang Nam là ba địa điểm tỉ thí vang danh nhấtgiang hồ. Lúc náo nhiệt nhất, ở ba nơi ấy cơ hồ trong một năm tháng nào cũng cómột cuộc tỉ thí.
Trong ba nơi ấy, Phi Diên cốc lại càng là nơi tấp nập nhất.Nguyên nhân thì cực kỳ đơn gian: Đánh nhau thì tất có tử thương, mọi người aicũng muốn chọn nơi nào gần thần y Mộ Dung một chút.
Thẩm Bân đương nhiên là cao thủ thành danh theo con đường thứnhất. Nga My phái người nhiều thế mạnh, trong đám đệ tử, người kiệt xuất cũngkhông ít, nổi tiếng nhất đương nhiên là Hạ Hồi, thứ đến là Thẩm Bân, Thẩm Đồngvà Lưu Côn. Ngoài ra vẫn còn ba vị đạo nhân trung tuổi, tuy danh tiếng không lớnnhưng công phu thì cực ỳ cao thâm, chính là sư huynh đệ của chưởng môn PhươngNhất Hạc. Đạo hiệu của họ lần lượt là Tùng Phong, Tùng Lôi và Tùng Vân, đượcngười đời xưng tụng là “Nga My tam Tùng”. Ba vị này rất ít xuất hiện trong võlâm, nhưng trên núi Nga My thì có uy vong cực cao, kể như Phương Nhất Hạc, khigặp họ, nói năng cũng cực kỳ khách khí. Thẩm Bân lại chính là đệ tử của TùngLôi.
Hà Y không nhịn được nghĩ tới bộ dạng chết thảm của ThẩmBân. Ánh mắt của Thẩm Bân khi ấy rõ ràng rất kinh ngạc với kết cục của chínhmình. Hiển nhiên y không ngờ tới bản thân lại chết bất ngờ, chết một cách hồ đồnhư vậy, rất nhanh chóng trên người có thêm một vết thương, thiếu đi một thứ rồiđi đời.
Theo cách nhìn của Hà Y, mỗi con người trong suốt cuộc đờimình hình như đều theo đuổi một mục đích nào đó đã được định sẵn, mà mục tiêunày thì mỗi người một kiểu, nghìn sai vạn khác. Mộ Dung Vô Phong đã được định sẵnphải làm một thần y, Thẩm Bân định sẵn phải chết bởi kiếm, còn anh em nhà UấtTrì thì đã định sẵn phải trở thành Côn Lôn song kiếm. Mỗi người đều vì mục tiêuđã được định sẵn của mình mà bôn ba bận rộn. Mộ Dung Vô Phong bận hành nghề, ThẩmBân bận tỉ kiếm, còn anh em nhà Uất Trì thì bận đọc số mới nhất của Giang hồkhoái báo. Dường như bọn họ đều hiểu rất rõ bản thân đang bận rộn cái gì, tạisao phải bận rộn.
Còn chính nàng thì sao? Đang bận rộn cái gì? Tại sao lại bậnrộn? Nàng hoàn toàn không biết.
Còn may là Hà Y nhớ mục đích tại sao lại bản thân lại chạy đếnđây. Ngân lượng.
Nàng không ghét ngân lượng. Thường vì ngân lượng mà nhận làmnhững việc hoang đường.
Bây giờ, cuối cùng nàng cũng có chút ngân lượng, vậy mà lạicảm thấy trống rỗng thế này.
Nàng chợt cảm thấy, đời người đúng là không do chính bảnthân mình chi phối. Nổi tiếng cũng chỉ vậy mà không nổi tiếng cũng thế, đều cóthể bị người khác chi phối.
Những thiếu niên giang hồ được những câu chuyện truyền kỳhun thêm bầu nhiệt huyết, thứ đầu tiên bị thiêu cháy, cuối cùng chính là bảnthân họ.
Nghĩ tới đây, trong lòng nàng dấy lên một nỗi buồn bực vàphiền muộn, bèn đứng dậy rời bàn, bước ra lan can bên ngoài hít thở bầu khôngkhí mát lạnh lúc đêm xuống.
Đối diện với lan can chính là con đường lớn nhất trong trấn,hàng rong hai bên dường vẫn chưa tan hết. Ở cái trấn nhỏ muôn phần xa lạ này, cảnhvề đêm lại thân thuộc đến vậy.
Ở đằng xa có tiếng vó ngựa văng vẳng vọng tới. Dõi theo thìthấy một cỗ xe ngựa màu đỏ thẫm, do bốn con ngựa khỏe kéo, không nhanh không chậmtừ tốn chạy đến.
Đằng sau xe ngựa có hai người mặc áo xám cưỡi ngựa theo hầu.
Hà Y nhớ tới lần đầu tiên mình ngồi xe ngựa. Nàng trước giờtoàn cưỡi ngựa, vậy mà lần đầu tiên ngồi xe lại ngồi trên một cỗ xe xa hoa nhưvậy. Bên trong còn trải cả da hổ rộng rãi giống như một căn phòng.
Thế mà cỗ xe này so với cỗ xe mình từng ngồi còn lớn hơn nhiều.
Cỗ xe đi đến cửa Thính Phong lâu thì từ từ dừng lại. Hai ngườiáo xám nhảy xuống ngựa, đến bên cỗ xe cung kính thưa: “Thưa cốc chủ, chúng ta đếnnơi rồi”.
Thì ra là Mộ Dung Vô Phong, phải sớm đoán ra mới đúng.
Chỉ nghe thấy tiếng người mệt mỏi trong xe truyền ra: “Nơiđây ồn áo quá, không biết trên lầu có chỗ nào yên tĩnh hơn một chút không?”.
Quả nhiên à chàng. Chỉ là âm thanh cực kỳ mệt nhọc.
“Trên lầu hai có một gian phòng riêng của ông chủ Ông, ở gócphía bắc, chúng ta có thể mượn dùng”.
Lời chưa dứt, Ông Anh Đường đã từ bên trong sải bước đi tớinghênh đón, đến trước xe ngựa vái chào, kính cẩn nói: “Cốc chủ hạ cố, Anh Đườngkhông tiếp đón từ xa thật thất lễ”.
Trong xe truyền ra một giọng lãnh đạm: “Ông chủ Ông kháchkhí quá rồi. Tôi muốn mượn một gian phòng trên lầu hai dùng một lúc, không biếtcó được không?”.
Ông Anh Dường nói: “Hiện còn hai phòng trống. Nhưng ở lầu bắctại hạ có một gian phòng riêng sạch sẽ hơn, ngày thường dùng để nghỉ ngơi, cựckỳ yên tĩnh. Hay là xin cốc chủ cứ tạm đến lầu bắc trước rồi tính sau?”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Không cần. Một gian phòng trống là đượcrồi”.
Người áo xám mở cửa xe, đầu tiên đưa chiếc xe lăn xuống trướcrồi mới nhẹ nhàng đưa Mộ Dung Vô Phong xuống sau.
Chàng vẫn mặc một bộ y phục màu trắng cực kỳ thanh nhã nhưlúc trước, ngồi trên chiếc xe lăn, lưng thẳng như bút. Tuy đầu mày còn vươngchút mệt mỏi nhưng ánh mắt vẫn còn nguyên vẻ sắc bén.
Người hầu cận áo xám quỳ xuống, giúp chàng chỉnh lại vạt áovừa rồi bị gió thổi lệch.
Ông Anh Đường nói: “Xin theo tại hạ. Cửa trước mùi rượu quánồng, sợ cốc chủ không quen. Đằng sau có cửa riêng của quán, thông thẳng lên lầuhai”.
Mộ Dung Vô Phong ho khan hai tiếng, nói: “Còn phải phiền ôngchủ Ông làm giúp một việc”.
“Xin cứ sai khiến.”
“Tôi có hẹn một vị cô nương họ Sở tới bàn việc. Nếu như Sởcô nương tới, phiền ông mời cô ấy đến chỗ tôi.”
“Có phải là Sở Hà Y nữ hiệp?”
Lần đầu tiên Hà Y nghe thấy có người gọi mình là “nữ hiệp”,trong lòng buồn cười, thiếu chút nữa cười thành tiếng.
Quả nhiên Mộ Dung Vô Phong nhíu mày, nói: “Chính là ngườinày. Chằng qua, cô ấy từ bao giờ lại đã thành nữ hiệp rồi?”.
Ông Anh Đường cười nói: “Cố chủ có chỗ chưa rõ, mấy năm naytrên giang hồ, chỉ cần là người cầm kiếm, nhân cách không tệ hại là có thể xưnghiệp rồi. Mà trong đó, nữ kiếm khách đã ít lại càng ít, không gọi là nữ hiệpcũng không được”.
Mộ Dung Vô Phong cười nhạt, nói: “Xưng vị trên giang hồ hóara đều rất có ý tứ”, nói xong, người hầu cận đẩy xe cho chàng hướng về bêntrái, chuẩn bị rời đi, chợt nghe thấy đằng sau có tiếng bước chân lộn xộn. Mộtkẻ thét lên: “Người đằng trước kia đứng lại”.
Người qua lại trước của quán vốn rất đông, nghe thấy tiếngthét giận dữ ấy có đến mười mấy người đứng lai.
Mấy người Mộ Dung Vô Phong cứ tiếp tục đi tiếp.
Chỉ thấy một bóng vàng vụt qua, một thân hình nhỏ nhắn tungmình nhảy tới, đáp xuống trước mặt Mộ Dung Vô Phong.
Mọi người nhìn kỹ, hóa ra là một cô gái mười bảy mười tám tuổi,mày nhỏ mắt lớn, mặc một bộ y phục màu vàng nhạt, mái tóc dài mượt mà dùng mộtchiếc khăn màu tía buộc lại, tai đeo một đôi khuyên bằng đá quý màu tím rủ xuốngmười mấy hạt đá quý ngũ sắc to bằng hạt gạo, theo cử động của thân thể mà phátra tiếng “lanh canh” Trong tay nàng ta là kiếm, mũi kiếm chỉ thẳng vào Mộ DungVô Phong, nói: “Vừa rồi chính ngươi nhắc tới tên của Sở Hà Y?”.
Người hầu áo xám duỗi ngón trỏ, đặt vào mũi kiếm ung dung hấtthanh kiếm khỏi mặt Mộ Dung Vô Phong tầm giọng nói: “Cô nương có gì muốn nói,xin bình tĩnh mà nói”, rồi tiện tay búng lên mũi kiếm một cái, chỉ nghe “keng”một tiếng, mũi kiếm đã gãy đôi.
Hà Y rùng mình, chỉ lực thật lợi hại!
Nàng ta nhìn thanh kiếm của mình, vừa giận vừa sợ nói:“Ngươi dám phá hỏng kiếm của ta?”.
Người hầu áo xám lạnh lùng nghiêm nghị, nói: “Kẻ dám vô lễtrước mặt công tử, không chỉ bẻ một thanh kiếm mà thôi”.
Người này xem ra tuổi hơn ba mươi, eo thon vai rộng. Mặt hẹpmà dài, lại có chiếc mũi khoằm như chim ưng, khi nói, mắt nheo thành khe hẹp.Còn người kia tuy tuổi tác tương đương, xem ra văn nhã thanh tú hơn nhiều.
Một ánh chớp rạch nàng không trung, trời bỗng đổ mưa nhỏ.Hai người hầu cận lại như họa lớn đến nơi, vội nâng Mộ Dung Vô Phong đưa vàotrong hành lang dưới hiên.
Tiểu cô nương kia lằng nhằng không thôi, nói: “Nếu các ngườichịu giao Sở Hà Y ra, mọi việc giữa chúng ta đều bỏ qua. Còn không bản cô nươngđây…”, rồi lại chỉ thanh kiếm gãy trong tay vào mặt Mộ Dung Vô Phong. Trong mắtchẳng rõ vì sao lại tràn đầy nước mắt và hận thù. Biết rõ là không địch lại, vậymà bộ dạng như bất cứ lúc nào cũng chuẩn bị lao vào liều mạng.
“Khoan hãy động thủ!”, một thanh niên áo gấm chớp mắt đã laotới, khẽ vung tay một cái đã nhẹ nhàng đẩy cánh tay của nàng ta đi.
Người vừa đến là một thanh niên cao ráo thanh tao tựa ngọc,chắp tay nói: “Tại hạ là Thẩm Đồng phái Nga My. Vừa rồi ngẫu nhiên nghe thấycác vị nhắc tới một người mà bản phái đang truy tìm khắp nơi, không khỏi quákích động. Tệ sư muội tuổi nhỏ chưa biết gì, mạo muội đắc tội rồi”, nói xong lạivái một vái. Đằng sau Thẩm Đồng cón có bốn người khác, y phục tuy khác nhaunhưng trên chuôi kiếm đều có khắc đồ hình bát quái, rõ ràng là kiếm riêng củaphái Nga My chuyên dùng.
Ông Anh Đường ha ha cười, cũng chắp tay đi tới, nói: “Chẳnghay ngọn gió nào đưa Nga My thất kiếm tới Thính Phong lâu chúng tôi vậy?”, ôngta bao nhiêu năm làm ông chủ, nhìn vô số người trên giang hồ mà Ông Anh Đườngkhông nhận ra thật không nhiều: “Vị này nhất định là thiên kim tiểu thư củaPhương chưởng môn, Phương Li Châu cô nương rồi. Chớp mắt đã lớn bằng chừng này!Cha cô vẫn khỏe chứ?”, rồi đưa mắt sang: “Chu Tôn Thập, Diệp Bá Thắng, TừKhuông Chi, Hà Thụy, ai da, sao lại chỉ có sáu người? Ha ha, ta biết rồi, ThẩmBân tên nghiện rượu đó, nhất định đã chạy vào quán nốc rượu rồi”.
Ông Anh Đường không nhắc tới Thẩm Bân thì thôi, vừa nhắc tớiThẩm Bân, sáu người kia trên mặt đều toát lên vẻ bi phẫn.
Thẩm đồng nói: “Chúng tôi tìm Hà Sở Y chính là vì việc củaThẩm Bân”.
Ông Anh Đường thấy bọn họ thần sắc nặng nề, không nhịn đượcmà ngây người ra, hỏi: “Thâm công tử làm sao rồi?”.
“Huynh ấy bị người ta sát hại rất tàn nhẫn, chúng tôi vừa mớitìm được thi thể, nếu các vị có thể nói cho chúng tôi biết hành tung của Sở hàY, tại hạ vô cùng cảm kích.”
“Tôi ở đây”, Hà Sở Y chậm rãi từ trong bóng tối bước ra.
Nàng liếc nhìn Mộ Dung Vô Phong, phát hiện chàng cũng đangnhìn mình.
Tay rút kiếm của sáu người phái Nga y đồng thời gồng lên,sát khí cuồn cuộn. Mấy năm gần đây, Nga My thất kiếm tiếng tăm đang thịnh, nhấtlà từ một năm trước, sau khi họ phá Võ Đang thất kiếm pháp. Trên giang hồ truyềnrằng, không có một ai có thể an toàn thoát khỏi bảy người ấy hợp công.
“Sở cô nương đã chịu xuất hiên, vậy những ai không liên cantới việc này, xin hãy lùi xa mười trượng. Phái Nga My không muốn làm bị thươngngười vô can”, Thẩm Đồng nói.
Sau người chia thành hai hàng, bắt đầu bày trận.
Hà Y cười lạnh nói: “Sao đây, các vị đến việc quý sư huynhcuối cùng đã chết thế nào cũng lười không thèm hỏi, cứ thế bày trận, chẳng phảicó hơi vội vàng sao?”.
Phương Li Châu hét lên: “Còn phải nói gì nữa, nếu chẳng phảingười dùng âm mưu quỷ kế, sư huynh ta sao có thể bỏ mạng dễ dàng thế được?”,nói rồi vung kiếm chuẩn bị xông tới. Thẩm Đồng lại kéo nàng lại rồi nói với HàY: “Được, cô nói đi”, xem ra y là người rất điềm tĩnh.
“Thẩm Bân đúng là có tới tìm tôi, nhưng chúng tôi vốn chưa hềđộng thủ”.
“Không phải là cô. Vậy thì là ai?” Thẩm Đồng lạnh lùng hỏi,rõ ràng đối với lời của Hà Y, một chút cũng không tin: “Lúc đi rõ ràng huynh ấynói với tôi là đi tìm cô. Ở hiện trường lại có ngựa với túi hành lý của cô”.
Hà Y nhìn thanh kiếm của mình, nói: “Lời tôi nói là thật. Nếunhư tôi muốn che giấu đã không tự mình bước ra đây”.
“Cô muốn nói, cô biết ai là hung thủ thực sự?”
Hà Y nhìn lên mái nhà đối diện, từng chữ từng chữ nói ra:“Biết, bởi chúng đã tới đây rồi”.
Chữ “rồi” chưa nói xong, chợt nghe thấy âm thanh “đinhđang”, hai bóng xám tóc dài đã như ma quỷ từ phía xa lướt tới. Phương Li Châuquát: “Kẻ đang tới là ai?”.
“Tránh ra!” Hà Y đẩy Phương Li Châu một cái, chỉ nghe “đang”một tiếng, một vật hình ống trong tay bóng xám đã phát xạ, Phương Li Châu theođó mà ngã xuống.
Nàng vừa nàng vừa ngã xuống, năm người còn lại đã vây lấy kẻvừa tới.
Bóng xám kia thì ra có một nam một nữ, nữ thì mắt ngọc màyngài, áo dài chấm đất, lúc đáp xuống đất nhẹ nhàng hệt như một chiếc lá vừa bịgió thổi rụng từ trên cây xuống. Còn nam nhân bên cạnh, dáng vẻ ngạo mạn, nhưngcũng mày rậm mắt sáng, cực kỳ anh tuấn. Dưới nách nam nhân kia có kẹp một chiếcquải trượng đen tuyền, y phục phơ phất, eo bên phải trống không, chân phải đã cụttận gộc. Hắn nhìn nữ nhân kia lấy ra một ống độc châm nheo mày nói: “Lão Thập,lần sau có thể đổi một loại độc khác không, mùi của ống độc châm này thực làkhó ngửi”, nói xong bèn rút trong người ra một chiếc khăn thêu hoa, vẻ chánghét mà bịt mũi lại.
Trong đầu Hà Y thoáng hiện lên một cái tên: Đường Thập. LãoThập của Đường gia, đó là một nữ nhân thích dùng độc.
Nữ nhân cười vang: “Tam ca, mùi khó ngửi nhưng lại thực sựhiệu nghiệm, muội đã làm riêng cho huynh một bình thuốc giải rồi”, nói rồi đưara một cái bình nhỏ: “Mở ra, xoa một ít vào dưới mũi là không ngửi thấy gì nữarồi”, hai người đó rõ ràng bị năm thanh kiếm vây lấy, vậy mà cơi như không cườinói tự nhiên.
Thẩm Đồng hừ một tiếng, nói: “Đường Thập. Đường Tam, hai vịmuốn cúi đầu chịu trói, nộp thuốc giải hay là muốn loạn kiếm phanh thây?”.
Đường Thập yểu điệu cười: “Tam ca, bon họ hỏi chúng ta kia.Huynh xem chúng ta cúi đầu chịu trói mới được, hay loạn kiếm phanh thây mới tốt?”.
Đường Tam cười nhạt: “Không tốt như nhau”, mắt lại nhìn MộDung Vô Phong: “Gần đây trên giang hồ dường như què không ít. Ngoài ta ra, ởđây vẫn còn một tên”.
Hà Y nhìn Mộ Dung Vô Phong có chút căng thẳng. Cứ như sựkiêu ngạo của chàng nghe thấy hai chữ “kẻ què” kia, nhất định rất tức giận.
Trên mặt Mộ Dung Vô Phong tuyệt nhiên chẳng hiểu gì. Chàng từtốn nói: “Ta với giang hồ chẳng có liên quan gì. Nhưng Đường gia vừa ra tay đãdùng một ống ‘Bách lạc thần mang’, trên phương diện giết người rất có uy lực.Trước nay nghe nói người Đường Môn tuân thủ môn quy rất nghiêm, thông thườngkhông dễ dàng ra tay, đối với độc dược lại càng cẩn thận. Xem ra, đó hẳn là tinđồn nhảm, hoặc là môn quy đã loạn rồi. Cuối cùng vẫn là đời sau chẳng bằng đờitrước”.
Sắc mặt của Đường Thất khẽ biến. Ám khí trên tay ả, từ hìnhdạng bên ngoài mà trông thì giống hệ ‘Bạo vũ lê hoa châm’ trong truyền thuyết,nhưng ả thường dùng khi đi lại trên giang hồ chính là ‘Ngũ độc thần châm’. Món‘Bách lạc thần mang’ này là ám khí mật truyền của Ngũ Tiên giáo miền Vân Nam,thường dùng nó giấu trong ống tay áo để bắn ra. Sau khi có được, Đường Thập cảitiến, trang bị thêm ống độc châm, một lần có thể bắn ra hơn trăm mũi châm độc,đây vẫn là lần đầu sử dụng. Thế mà người này chỉ liếc mắt cái mà đã nhìn ra ngọnngành. Ả cười cười, trong nụ cười có chút xấu hổ, nói với Đường Tam: “Kẻ này thậtthú vị, muội rất thích. Đợi chút nữa đi khỏi phải nhớ mang hắn theo. Nhà chúngta không phải thiếu một tay thầy thuốc hay sao?”.
Đường Tam lạnh nhạt đáp: “Người này, chúng ta chưa chắc đã hầunổi”.
“Sao lại không hầu hạ nổi? Vị đại ca này tên họ là gì? Một bữangươi ăn nhiều lắm sao?”, ả một mặt cười cười nói nói, một mặt đã vung tay, nămcây phi tiêu độc bay tới. Lại thấy một bóng người chớp động, Ông Anh Đường đãđưa hai tay lên, dùng bàn tay không bắt hết phi tiêu, bình thản như hái đậu vậy.Đường Thập nhìn đôi tay của ông ta nói: “Gan của ông chủ Ông càng ngày càng lớnđấy, đến cả độc tiêu bản cô nương cũng dám bắt”, đôi tay ấy đáng ra phải lập tứcsưng lên, rồi nhanh chóng thối rữa mới đúng. Bây giờ nhìn qua, đừng nói sưng làsưng, đến da gà cũng chẳng thèm nổi.
Ông Anh Đường nói: “Đâu có, đâu có. Sớm đã nghe Đường gia đờisau chẳng bằng đời trước. Ví như độc dược đời trước Đường gia phối chế, quả thậttại hạ không dám tiếp”.
Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm nói: “Thứ của đời trước, chẳng quacũng chỉ thế này thôi. ‘Phùng Ấn tán’ bôi trên cây tiêu độc này chính là do mộtnha hoàn họ Phùng của Đường gia trước đây phối ra. Sau này thị được gả cho ĐườngTuyển, tuy chỉ làm thiếp nhưng cũng là con dâu của Đường gia”.
Mặt của Đường Thập càng đỏ rần, chợt nhận ra người trước mặtmình là ai.
Đó chính là vị thần y tàn phế, đến việc ra khỏi giường cũngrất khó khăn trong truyền thuyết. Người suốt mười mấy năm nay liên tục đối đầuvới Đường môn đất Thục, chuyên hóa giải độc dược của Đường gia, Mộ Dung VôPhong.
Mỗi khi một loại độc dược mới xuất hiện trên giang hồ, chẳngquá vài hôm, các cửa tiệm thuốc bên ngoài Vân Mộng cốc đã bắt đầu bán thuốc giải.Thậm chí Mộ Dung Vô Phong còn nghiên cứu chế ra một loại thuốc độc cấp tốc cótính dự phòng, có thể chống lại gần như mọi loại độc dược truyền thống của ĐườngMôn.. Nghe nói nhân sĩ giang hồ cơ hồ trong tay ai cũng có một lọ.
Từ khi có Mộ Dung Vô Phong, sự nghiệp và thanh danh của Đườngmôn phải chịu đả kích xưa nay chưa từng có.
Chẳng qua nhìn Mộ Dung Vô Phong trước mắt, so với tưởng tượngcủa Đường Thập thì khỏe mạnh hơn nhiều. Trong tưởng tượng của Đường Thập, MộDung Vô Phong đáng ra phải là một nam nhân mắc chứng phong thấp, đau yếu tới mứcbiến dạng, mỗi cử dộng đều phải có người bên cạnh giúp đỡ, hầu hạ. Thế mà nhìnhắn ung dung tự tại, nếu không phải đang ngồi trên xe lăn, không phải ẩn hiệndưới lớp y phục kia là đôi chân sau nhiều năm tàn phế mà yếu ớt vô lực thì đơngiản là chẳng có gì khác so với người bình thường cả.
Đường Thập biết Mộ Dung Vô Phong hiếm khí rời cốc, không ngờtới hắn cứ thế bầu đoàn ít ỏi mà xuất hiện tại đây. Bốn phía nhất định có khôngít cao thủ bảo vệ ẩn nấp. Ả bắt đầu nghĩ mình nên rút lui như thế nào, theo lốinào mà rút.
Đường Thập cười nói với Đường Tam: “Tam ca, năm tên phái NgaMy này giao cho huynh, vị Sở cô nương này để cho muội thế nào?”.
“Không.” Ánh mắt Đường Tam từ từ nhìn về Hà Y, nói: “Sở cônương để cho ta, còn lại đều dành cho nuội”, hắn thúc trượng xuống đất, ngườiđã bay vút lên như chim cắt, thân hình xoay chuyển giữa không trung, thiết trượngcuộn gió, trực tiếp bổ xuống hai huyệt “Thiên đài”, “Linh tuyền” của Hà Y. Hà Ylui lại, tách khỏi thế đòn như sét đánh của Đường Tam, lại nghe thấy “keng” mộttiếng, quải trượng của Đường Tam đã bị một cây côn sắt của người tùy tùng áoxám đón lấy: “Kẻ này giao cho tôi, cô mau cứu Phương cô nương”.
Nàng chạy về phía Phương Li Châu, nhìn thấy bên cạnh Mộ DungVô Phong chỉ còn lại Ông Anh Đường. Người tùy tùng còn lại cũng gia nhập trận chiến,đang giúp ngũ kiếm đấu với Đường Thập.
Mặt của Phương Li Châu tím tái, đã không còn hô hấp.
“Cô ta sao rồi?” vẫn là giọng nói bình tĩnh, chàng cứ nhưngười ngoài cuộc mà ngồi xem tất thảy trước mắt.
Hà Y nói vẻ thương xót: “Chết rồi”, thân thể của cô gái vốnrất mềm mại, giờ đã bắt đầu cứng lại trên tay nàng.
Mộ Dung Vô Phong bắt cổ tay cô gái, điểm nhanh mười mấy huyệtđạo người Phương Li Châu, nói: “Còn cứu được, Theo tôi qua đây”.
Ông Anh Đường dẫn ba người tới căn phòng riêng ở lầu bắc.
Căn phòng này Ông Anh Đường chỉ dùng để nghỉ ngơi, mỗi buổitrưa ông ta hầu như đều về ngủ ở đây một lúc. Phòng không rộng nhưng bố cục cựckì hợp lý. Ông Anh Đường là người rất tình cảm, ông tổ ông ta từng buôn vải nênđối với y phục vải vóc ông ta rất chú tâm tìm hiểu.
Phương Li Châu nằm trên giường, mặt mũi xem ra đã không cònchút sắc khí gì. Toàn thân như chẳng có lấy một giọt máu, mấy chục cây kim độcđã hoàn toàn đâm vào người.
Sau khi đóng kín cửa, Mộ Dung Vô Phong nói với Ông Anh Đường:“Ông xuống dưới xem tình hình ra sao, ta sợ bên dưới không đủ người”.
Ông Anh Đường chần chừ nói: “Nhưng ở đây cố chủ cũng phải cóngười bảo vệ”.
“Ngài yên tâm, có tôi ở đây rồi”, Hà Y cười nói.
“Cô?”, trong mắt Ông Anh Đường thoáng vẻ hoài nghi nhưng cuốicùng vẫn gật đầu, quay người bước ra ngoài.
Hà Y nhìn theo bóng Ông Anh Đường, rồi nói với Mộ Dung VôPhong: “Ông ta rất quan tâm đến ngài”.
“Tôi muốn ông ra đi khỏi là bởi tôi cần phải cởi y phục củabệnh nhân. Tôi chẳng thể cách lớp y phục này mà chữa bệnh được”, chàng đã nhanhchóng cởi hết cúc áo của Phương Li Châu. Thân thể yểu điệu tươi trẻ của thiếu nữlồ lộ trước mắt. Mộ Dung Vô Phong chú tâm quan sát rất kỹ càng toàn thân PhươngLi Châu, đột nhiên vỗ mạnh lên ngực trái nàng một cái, từ miệng Phương Li Châu ứara một bụm máu đen.
“Cô ấy…còn sống?” Hà Y nhìn Phương Li Châu đã bắt đầu khe hẽhô hấp trở lại, không nhịn được mà kinh ngạc: “Vừa rồi tôi bắt mạch của cô ấy.Cô ấy…rõ ràng đã chết rồi!”.
“Chết rồi thì chết rồi, chỉ là chưa chết hẳn mà thôi”, chàngđột nhiên nói. Hình như chết cũng phân thành mấy loại đấy. Sau đó chàng bắt đầudùng ngón tay thăm dò huyệt đạo trên người Phương Li Châu từng li từng tí một.
Ngón tay chàng dài và xanh xao, móng tay sạch sẽ, lúc đầungón tay lần trên da thịt linh hoạt, mẫn cảm hệt như râu của côn trùng vậy.
“Nửa cốc nước”, chàng đột nhiên nói.
Hà Y lập tức đi lấy nước đem tới: “Nước này quá lạnh, nếungài muốn uống, tôi có thể đem đun lại cho ngài”.
Mộ Dung Vô Phong chẳng nói chẳng rằng, chỉ dùng một con daonhỏ cực kỳ tinh tế vạch một đường cực nhỏ trên da Phương Li Châu, rồi nhanhchóng từ trong đó rút ra một cây ngân châm vô cùng bé nhỏ rồi đem nó bỏ vào cốcnước. Châm dính máu tựa như cứ bám chặt vào bất cứ vật nào, bị nước rửa qua mớidần dần chìm xuống đáy cốc. Thì ra cốc nước này chẳng phải để uống.
Hà Y không nén được khâm phục nói: “Đại phu quả là một nghềtốt, tương lai tôi cũng phải đổi sang hành nghề y thôi”.
Trong khi nói, Mộ Dung Vô Phong đã dùng cách ấy rút ra mườimấy cây ngân châm, thủ pháp vừa nhanh vừa chuẩn, cứ như Hà Y xem, không hề thuakém kiếm thuật cao minh của bản thân chút nào. Nàng không thể không thừa nhận rằngmỗi loại nghề nghiệp đều có cao thủ riêng của nó, tuy luyện tập có thể hoàntoàn khác nhau nhưng khi gặp việc rồi, hiệu quả cũng không khác Cứ lấy thủ phápcủa Mộ Dung Vô Phong mà nói, dùng để phóng ám khí nhất định không chậm hơn ĐườngThập.
Hà Y quỳ bên giường, cứ thế nâng cốc nước. Vạt áo của MộDung Vô Phong nhè nhẹ lướt qua mặt nàng.
Nơi vạt áo của chàng phảng phất hương thơm nhè nhẹ như cónhư không.
Đó là một loại hương thơm rất riêng, không sao hình dung đượclà mùi vị gì, đọng lại trong phòng rất lâu không hề tan đi.
Nàng không nói thêm gì, chỉ im lặng quan sát tay của chàng.
“Tổng cộng có bao nhiêu cây châm độc trong người cô ấy?”, HàY đột nhiên lên tiếng.
“Bốn mươi chín cây. Nếu không phải cô đẩy cô ta một cái, cólẽ phải là một trăm cây.”
“Trong châm ấy có thể có độc không?”, nàng lại hỏi.
“Có.”
“Nói như vậy, ngài còn phải giải độc nữa?”
“Ừm.”
“Ngài có để ý không? Nhưng việc dại phu phải làm kỳ thực sovới kiếm khách còn phiền phức hơn rất nhiều?”, nàng chợt đi đến kết luận này. Lờinói còn chưa dứt, bỗng nghe “bốp” một tiếng, Mộ Dung Vô Phong đã nhận một cáitát, Phương Li Châu đã tỉnh lại, thấy bản thân lõa lồ nằm trước mặt một namnhân, vừa giận vừa sợ, mắng chửi: “Dâm tặc to gan! Ngươi dám xâm phạm thân thểbản cô nương…ta, ta rủa chết ngươi chết băm chết vằm, chết không tử tế!”
Không ngờ Phương Li Châu đã trọng thương mà sức lực vẫn cònnhiều thế, trên má Mộ Dung Vô Phong hằn lên dấu năm ngón tay.
Nhưng trọng thương vẫn là trọng thương, rồi còn quá giận dữPhương Li Châu lại lịm đi.
Mộ Dung Vô Phong điểm huyệt để cô ta không động đậy tiếp nữa,rồi tiếp tục rút hết số kim châm còn lại ra, từng cây từng cây một, thần sắcbình tĩnh, cứ như một cái tát vừa rồi không hề đánh lên mặt chàng.
Hà Y nhìn chàng, chợt nói: “Vừa mới rồi tôi có nói muốn làmđại phu phải không?”.
“Không nói”, chàng lãnh đạm đáp. Qua một lúc, lại nói: “Nữnhân trong giang hồ, tính khí đều ngang ngược thế sao?”.
“Không hẳn”, nàng từ tốn đáp: “Tính tình của tôi rất dễ chịu”.
Mộ Dung Vô Phong cẩn thận kiểm tra toàn thân Phương Li Châuba lần, dám chắc không bỏ qua một cây châm độc nào rồi mới để Hà Y mặc y phụcvào cho cô ta.
Chàng vịn vào tay ghế ngồi thẳng trở lại rồi ngả người tựavào lưng ghế, trên trán đã ướt đẫm mồ hôi. Vừa rồi phải khom lưng rất lâu màchân chàng thì hoàn toàn vô lực cho nên phải vô cùng vất vả để giữ tư thế ấy. Đếnkhi được ngồi thẳng trở lại, chỉ cảm thấy đầu váng mắt hoa, hít thở cũng bắt đầugấp gáp. Chàng chỉ đành nhắm mắt, đợi cho hô hấp của mình từ từ ổn định trở lại.