Long Tuyền nghiến răng, thầm nghĩ:
“Được! Để bản tướng chờ xem đến lúc Lý Thanh Vân bị hỏi tội thì con điếm nhà mày còn giả vờ công chính nghiêm minh được hay không.”
Truyền tống môn là quân cơ trọng địa của mỗi quốc gia, được canh phòng cẩn mật. Tuy cũng có một vài môn phái có thể sử dụng truyền tống môn như một điểm định vị, sau đó cưỡng chế vượt giới, nhưng làm vậy tương đương với xúc phạm quốc uy, tuyên bố quốc chiến vậy. Đừng nói là Quan Hạ Băng và Đại Việt có ý kiến, cho dù là quốc gia nơi Ngọc Hư cung tọa lạc biết được chuyện này chỉ e cũng phải xin lỗi bồi thường, hoặc chuẩn bị chiến tranh toàn diện.
Chí ít, nếu chuyện này xảy ra ở Đại Tề, Long Tuyền dám chắc mình không dễ nói chuyện như Ngân Lang.
Hắn cũng biết mình đuối lý, không thể làm gì hơn là ngậm bồ hòn làm ngọt, trong đầu tưởng tượng sắc mặt cô nàng khi Toái Đản Cuồng Ma bị đưa ra tòa án binh xử trí.
Quan Hạ Băng chẳng thèm để ý đến hắn, chỉ nhìn về phía chiến trường.
Có câu “nhất cổ tác khí, tái nhi suy, tam nhi kiệt”, ấy là nói về sĩ khí trên chiến trường mới đầu thì hăng hái, càng đánh càng suy bại. Quan Hạ Băng cầm binh nhiều năm, phát hiện trạng thái trên chiến trường cũng có thể dùng ba giai đoạn của sĩ khí để tiên liệu.
Cũng như trận đánh ngoài truyền tống trận lúc này.
Mới đầu đạo đồng, đạo sĩ dựa vào oai thế của Chu Thiên Tinh Đấu Đại Trận, giết Hải Thú như cắt rau thái dưa, thằng nào thằng nấy sướng rủn cả người, mặt mày hớn hở, chống nạnh ngửa mặt, kêu gào la hét:
“Còn có ai? Còn có ai?”
Cái dáng vẻ ngông cuồng như thể vô địch thiên hạ kia quả thật ngu xuẩn vô cùng, Quan Hạ Băng nhìn cũng chỉ bật cười, thầm nghĩ không biết tổ tiên bọn hắn dưới suối vàng phải gồng cơ đít thít cơ mông gánh con cõng cháu đến mức nào mới giúp bọn hắn sống được đến giờ.
Thế nhưng, thời gian qua đi, Hải Thú tuy chết hết lớp này đến lớp khác, nhưng số lượng cơ hồ chỉ có tăng thêm chứ chẳng hề giảm đi. Chân khí của cánh đạo đồng, đạo sĩ lại có hạn, nhất là mấy tên đạo đồng tu vi còn chưa có mấy người đạt tới tam cảnh, há lại có thể duy trì Chu Thiên Tinh Đấu Đại Trận trong thời gian dài?
Tinh tướng, tinh soái dần suy yếu, lại đánh mãi mà không nhìn thấy được hiệu quả hữu hiệu, phòng tuyến tâm lý của đám đạo đồng, đạo sĩ Ngọc Hư cung nháy mắt đã sụp đổ như đê vỡ. Lắm kẻ đã ôm đầu, gào khóc, kêu la:
“Không! Ta không muốn chết!”
“Ta còn mối thù giết cha chưa báo, ta không thể chết được!”
“Cứu! Cứu mạng!”
...
Đám đạo sĩ tuổi đời lớn hơn, tuy không đến mức mất mặt như đám đạo đồng, song cũng chẳng dễ nhìn gì cho cam. Mặt tên nào tên nấy đen như đít nồi, vừa quát tháo bọn đạo đồng cố gắng giữ vững trận cước, vừa điên cuồng lấy đan dược ra khôi phục bổ sung chân khí truyền vào đại trận. Bọn hắn cũng sợ, nhưng bọn hắn càng hiểu rõ hơn một khi Chu Thiên Tinh Đấu Đại Trận thất thủ, chờ đợi cả đám sẽ là số phận thê thảm đến thế nào.
Ban nãy ngông cuồng hống hách bao nhiêu, thì hiện giờ cái vẻ đớn hèn sợ hãi kia của bọn chúng lại càng khiến người ta chướng tai gai mắt bấy nhiêu. Quan Hạ Băng xì một tiếng, nói:
“Long tướng quân, đây rốt cuộc là đến chi viện hay đến làm gánh nặng thế?”
Long Tuyền nghiến răng một cái, thầm chửi bản thân quá ngây thơ, khi không lại đi tin vào viện binh mà Nghiêm Quảng gọi đến.
Phàm là tướng sĩ sáu nước, đã từng tham gia vào chiến tranh với Hải Thú thì đều biết sự đáng sợ của đám quái vật này chẳng phải chiến lực cá nhân. Hải Thú tuy có tu vi, lại không có thần thông thuật pháp, chỉ có thể cận chiến. Song nhục thể của chúng lại không mạnh hơn con người bao nhiêu, thua kém hơn các tộc yêu thú rất nhiều. Thành thử, trên thực tế, chiến lực của Hải Thú có thể nói là kém hơn các chủng tộc khác.
Điểm đáng sợ của chúng là số lượng tưởng như vô cùng vô tận và đấu pháp liều mạng không sợ đau, không sợ chết. Thành thử, trên chiến trường với Hải Thú, trừ phi tiến vào biển Phong Bạo tìm ra nơi khởi nguyên của bọn chúng, bằng không thì chỉ có thể đánh theo kiểu tiêu hao chiến, mỗi ngày tàn sát Hải Thú để khống chế số lượng của chúng, sau đó chờ đến lúc bọn chúng thu binh về biển.
Thế nhưng, cái đám đạo đồng đạo sĩ kia vừa giết được một ít Hải Thú đã hú hét ầm ĩ, ra vẻ ta đây vô địch thiên hạ, vừa nhìn đã thấy là hoàn toàn chẳng hề có chút kinh nghiệm đối địch với đám quái vật từ biển Phong Bạo này chút nào. Hiện giờ nhận ra sự thật, lập tức suy sụp mất hết can đảm, gào khóc thảm thiết như cha mẹ chết, có thể nói là kém cỏi mười phần, không bằng cả dân binh có kinh nghiệm đối kháng Hải Thú.
Đến ngay cả Long Tuyền, vốn chỉ muốn chuyển một ít dê thế mạng từ nơi khác đến, bảo toàn lực lượng Tả Dực quân của mình, nhìn thấy cái bộ dạng đó của nhân mã Ngọc Hư cung cũng cảm thấy mất mặt.
Hai người còn đang nghị luận biểu hiện của cánh đạo đồng, đạo sĩ Ngọc hư cung cử đến thì chợt phía bờ biển, một luồng uy thế vượt xa bất cứ một ai trong thành Hải Nha chợt bộc phát dữ dội. Theo đó, trên trời bỗng nghe thiên lôi gầm thét, dưới đất ánh lửa bốc lên, bốn bề mùi tanh tưởi hôi thối cuốn trong gió khiến người ta lợm mửa.
Đạo đồng, đạo sĩ đứng lố nhố trên thềm đá của truyền tống môn bấy giờ nhao nhao cúi đầu, khom lưng, hô:
“Cung thỉnh lão tổ hiển thánh!”
Trần Phan Nam bấy giờ lơ lửng giữa không trung, hai tay để quá đầu, lòng bàn tay nâng chuôi một thanh kiếm gỗ dài ba thước, rộng hai phân. Kiếm gỗ đón gió, xoay tròn giữa không trung, trên thân kiếm hiển hiện bóng dáng một con mãnh hổ bé bằng ngón cái, bấy giờ chính đang không ngừng uốn mình, nhảy chạy giữa chuôi kiếm và mũi kiếm.
Quan Hạ Băng thấy kiếm gỗ được tế ra, chặc lưỡi một cái, cảm thán.
Cô nàng có thể nhận ra thanh kiếm gỗ được Trần Phan Nam tế ra chính là bảo vật trấn tông của Ngọc Hư cung, xưng là Hổ Hình Xích Tùng kiếm. Cùng với Long Ảnh Đào Mộc kiếm, hai vật này hợp lại vừa đúng một âm – một dương, một thư – một hùng, là thần kiếm tượng trưng cho địa vị lãnh tụ đạo môn của Ngọc Hư cung, Long Hổ sơn.
Thứ khiến Quan Hạ Băng bất ngờ là cao tầng của Ngọc Hư cung lại nỡ đưa vật này cho Trần Phan Nam phòng thân. Lão mà chẳng may táng thân trong miệng Hải Thú, Hổ Hình Xích Tùng kiếm há chẳng phải thất lạc luôn hay sao?
“Cung thỉnh lão tổ hiển thánh!”
Trần Phan Nam quát lên một tiếng, đoạn cắn đầu lưỡi, phun một búng máu về phía con hổ. Máu tươi của lão nhỏ xuống, lập tức ngấm thẳng vào trong thân kiếm, hoàn toàn không để lại một chút dấu vết nào cả. Nếu không phải lúc này uy áp buông xuống chiến trường tăng vọt, cường độ của tam tai cũng dày đặc thêm vài phần, có lẽ không một ai có thể cho rằng hành động vừa rồi của Trần Phan Nam có chút tác dụng nào cả.
Đám Hải Thú vô luận là lớn hay nhỏ đều không quan tâm đến uy áp, cũng mặc xác tam tai của Đạo môn đang hoành hành khắp chiến trường. Tuy thiên lôi, địa hỏa, âm phong tiêu diệt một số lớn Hải Thú, song vẫn có trên ngàn con lọt lưới, xông đến tấn công Chu Thiên Tinh Đấu Đại Trận. Đám đạo đồng, đạo sĩ thấy tinh tướng, tinh soái dần dần bại lui, không cách nào ngăn được thế tiến công của thú triều nữa thì ngoạc mồm lên mà khóc.
Con Ma Kình cầm đầu rống lên một tiếng, đứng thẳng dậy, há hốc cái miệng máu. Đầu nó cao đến bảy tám trượng, bấy giờ hàm dưới võng xuống chạm đất, để lộ ra khoang miệng đỏ lòm. Miệng nó há lớn đến nỗi không khó để có thể mường tượng ra cảnh toàn bộ một trăm lẻ chín người Ngọc Hư cung bị nó nuốt chửng chỉ với một cú táp.
Giữa những hàng răng người lởm chởm, mấy ngàn cánh tay người vươn ra, chới với quờ lấy không khí, giống như muốn tóm lấy kẻ xấu số nào đó mà kéo vào cuống họng của con Ma Kình. Từng giọt, từng giọt nước dãi cao bằng người trưởng thành rơi xuống, làm ướt đẫm bãi cát đỏ lòm.
“Nghiệt súc! Còn không buông tay chịu trói?”