Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương - Chương 19: Cao và khô




Những con sói cong mình, ép sát đất và gầm ghè, còn lũ ma cà rồng, trông sững sờ, vội lùi lại. Chỉ có Raphael là giữ nguyên vị trí. Hắn đang ôm lấy cánh tay bị thương, áo dính đầy đất và máu. “Los Niños de la Luna,” hắn rít lên. Kể cả Clary, người mà hầu như chẳng biết chút xíu nào về tiếng Tây Ban Nha, cũng hiểu hắn vừa nói gì. Những đứa trẻ của mặt trăng – người sói. “Tôi nghĩ bọn này ghét nhau,” cô thì thào với Jace. “Ma cà rồng và người sói.”

“Đúng. Chúng chưa bao giờ tới thăm thú nhà của nhau. Chưa bao giờ. Hiệp Định cấm điều đó.” Anh có vẻ bực tức. “Hẳn đã có chuyện đã xảy ra. Chuyện này tệ. Rất tệ.”

“Sao chuyện có thể tệ hôn lúc trước chứ?”

“Vì,” anh nói, “Chúng ta đang kẹt giữa một cuộc chiến.”

“SAO CÁC NGƯỜI DÁM BƯỚC VÀO NƠI Ở CỦA BỌN TA?” Raphael gào thét. Mặt hắn đỏ, ứ máu.

Con sói to nhất, một con quái vật lông xám vằn vện, với hàm răng như răng cá mập, cười khùng khục nghe như tiếng chó thở. Khi hắn tiến lên, chỉ trong hai bước chân hắn dường như đã biến đổi hình dạng như một cơn sóng dâng lên và cuộn lại. Giờ hắn đã trở thành một người đàn ông cao lớn cơ bắp với mái tóc dài buông xuống như những lọn dây thừng xám rối. Gã mặc quần bò và áo khoác da dày, và vẫn còn vẻ gì đó của sói vương lại trên sắc thái của khuôn mặt phong sương, gầy gò. “Chúng tôi không đến đây để gây chiến,” hắn nói. “Chúng tôi tới vì cô gái.”

Raphael vừa bực mình vừa ngạc nhiên. “Ai?”

“Cô gái loài người.” Người sói vung cánh tay cứng đơ, chỉ về phía Clary.

Cô quá choáng không tài nào di chuyển nổi. Simon, đang kêu chin chít trong tay cô, cũng bất động. Đằng sau cô, Jace lầm bầm gì đó nghe có vẻ cực kỳ báng bổ. “Em không nói với anh rằng em biết người sói.” Cô nghe thấy ra trọng âm trong giọng nói đều đều của anh – anh cũng ngạc nhiên hệt như cô.

“Tôi đâu có,” cô nói.

“Thế thì tệ rồi,” Jace nói.

“Anh đã nói câu đó rồi.”

“Có vẻ như cũng nên lặp lại lắm.”

“À, không đâu.” Clary dúm người vào anh. “Jace. Tất cả đều đang nhìn tôi kìa.”

Mọi gương mặt đều hướng về phía cô; đa số trông kinh ngạc. Đôi mắt Raphael nheo lại. Hắn từ từ quay về phía người sói. “Mi không thể có cô ta,” hắn nói. “Cô ta đột nhập vào đất của bọn ta; vì thế cô ta thuộc về bọn ta.”

Người sói cười. “Ta rất mừng vì mi nói vậy,” gã nói và phóng về phía trước. Lên giữa không trung cơ thể hắn lại rúng động, một lần nữa gã trở lại lốt sói, lông dựng đứng, hàm mở lớn, chỉ chực xé xác con mồi. Gã lao thẳng vào ngực Raphael, và cả hai ngã ra, lăn lộn, gầm ghè với nhau. Với những tiếng hú giận dữ đáp lễ, những ma cà rồng lao vào đàn người sói, đám này đối đầu trực diện với đám kia ngay chính giữa gian phòng khiêu vũ.

Tiếng ồn đó là thứ Clary chưa nghe thấy bao giờ. Nếu những bức tranh của Bosch vẽ địa ngục có cả nhạc nền, thì tiếng nhạc ấy sẽ có âm thanh tựa vậy.

Jace huýt sáo. “Quả là Raphael đang có một buổi tối đặc biệt tồi tệ.”

“Thế thì sao nào?” Clary chẳng thông cảm chút nào với gã ma cà rồng. “Chúng ta làm gì đây?”

Anh liếc nhìn quanh. Họ đang bị ghim trong góc bởi rất nhiều người; dù giờ chẳng ai chú ý tới họ, nhưng điều đó sẽ không kéo dài được lâu. Trước khi Clary kịp nói ra suy nghĩ, Simon đột nhiên giẫy mạnh đòi thoát khỏi tay cô và phóng xuống sàn. “Simon!” cô hét lên khi cậu bạn thân lao đến góc phòng và đống thảm nhung đã mục nát. “Simon, dừng lại!”

Đôi lông mày của Jace nhướn lên trong bối rối. “Cậu ta đang định...” Anh nắm lấy tay cô, kéo cô lùi lại. “Clary, đừng đuổi theo con chuột đó. Cậu ta đang trốn. Đó là điều lũ chuột làm.”

Cô phóng cho anh ánh nhìn nảy lửa. “Cậu ấy không phải chuột. Cậu ấy là Simon. Và cậu ấy đã cắn Raphael cho anh đấy, đồ ăn cháo đá bát.” Cô vùng tay ra và lao theo Simon, hiện ra co rúm dưới đống ga, kêu chít chít vui vẻ và cào đống ga. Muộn màng nhận ra điều bạn đang cố nói với mình, cô giằng đống vải sang bên. Chúng mỏng đi vì rêu mốc ăn mòn, nhưng đằng sau chúng là...

“Một cánh cửa,” cô thở ra. “Cậu quả là một con chuột thiên tài.”

Simon kêu lên một cách khiêm nhường trong khi Clary bế cậu lên. Jace đến ngay sau cô. “Một cánh cửa hả? Nó có mở được không?”

Cô nắm lấy nắm đấm rồi quay về phía anh, mặt ỉu xìu. “Bị khóa rồi. Hoặc bị kẹt.”

Jace ném mình vào cánh cửa. Cửa không nhúc nhích. Anh văng tục. “Vai anh sẽ không bao giờ được như cũ nữa. Anh mong em sẽ chăm sóc anh cho tới khi anh phục hồi.”

“Phá cánh cửa đi đã, có được không?”

Anh nhìn qua cô mà mắt mở lớn. “Clary...”

Cô quay lại. Một con sói to lớn đã rời khỏi đám hỗn chiến và lao về phía cô, tai dán sát da đầu. Con này to vật, lông đen-xám và vằn vện, với cái lưỡi thè ra đỏ lòm. Clary hét lên. Jace lao vào cánh cửa lần nữa, rồi lại chửi thề. Clary với đến thắt lưng, nắm lấy con dao, rồi phóng.

Cô chưa bao giờ phi dao, chưa bao giờ nghĩ tới việc phi dao nữa. Lần tới gần kho vũ khí nhất trước tuần này là lần vẽ tranh cho chúng, vì thế Clary ngạc nhiên hơn ai hết, cô nghĩ vậy, khi con dao bay đi, lắc lư nhưng trúng đích, cắm vào sườn người sói.

Nó kêu ẳng ẳng, giảm tốc lại, nhưng ba con sói đồng bọn đã lao tới chỗ họ. Một con dừng lại bên con sói bị thương, những con khác chạy về phía cánh cửa. Clary hét lên lần nữa khi Jace lao vào cánh cửa lần thứ ba. Cánh cửa bật mở phát ra những âm thanh buốt óc của gỉ sét siết vào nhau và gỗ nứt chẻ. “Quá tam ba bận,” anh thở dốc, ôm lấy vai. Anh thụp mình chui vào khoảng tối sau cánh cửa hỏng, rối quay lại chìa ra bàn tay hối hả. “Clary, đi nào.”

Miệng há hốc, cô lao về phía anh và đóng sầm cửa, đúng lúc hai thân hình nặng nề lao vào đó. Cô lần sờ chốt cửa, nhưng nó đã biến mất, bị tung ra sau khi Jace phá chui vào.

“Cúi xuống,” anh nói, và cô làm theo, trong khi thanh stele phóng vụt qua đầu cô, xẻ những đường thẳng màu đen lên cánh cửa gỗ mủn. Cô nghếch cổ nhìn thứ anh vừa khắc: một đường cong cong giống lưỡi hái, ba đường thẳng song song và một ngôi sao có tỏa tia sáng: Chống lại kẻ đuổi theo.

“Tôi làm mất con dao của anh rồi,” cô thú nhận. “Xin lỗi.”

“Xảy ra thường ấy mà.” Anh nhét thanh stele vào túi. Cô có thể nghe tiếng thịch văng vẳng khi những con sói hết lần này tới lần khác lao vào cửa, nhưng cánh cửa vẫn vững như bàn thạch. “Chữ rune sẽ ngăn cản chúng, nhưng không lâu. Chúng ta nên đi thôi.”

Cô ngước nhìn. Họ đang đứng trong một hành lang ẩm ướt; một cầu thang hẹp dẫn lên bóng tối. Những bậc thang làm bằng gỗ, những lan can bị phủ đầy bụi. Simon thò mũi ra ngoài áo khoác của cô, đôi mắt đen nhìn như cúc áo sáng lên dưới ánh sáng lờ mờ. “Ổn rồi,” cô gật đầu với Jace. “Anh đi trước đi.”

Jace trông như muốn cười nhưng quá mệt. “Em biết anh thích đi trước thế nào mà. Nhưng chậm thôi,” anh nói thêm. “Anh không đảm bảo cầu thang chịu nổi sức nặng của chúng ta.”

Clary cũng không chắc. Những bậc thang kêu cọt kẹt và rền rĩ theo từng bước chân họ, giống như một bà lão than vãn về những cơn đau của tuổi già. Clary nắm lấy lan can để giữ thăng bằng, thế là một mảnh rời ra trong tay cô, khiến cô hét lên làm Jace mệt mỏi tặc lưỡi. Anh nắm lấy tay cô. “Đây. Đi vững nhé.”

Simon cũng kêu lên một tiếng, nghe rất giống tiếng khụt khịt của loài chuột. Jace dường như không nghe thấy. Họ vất vả leo lên cầu thang nhanh trong mức họ dám. Cầu thang chạy theo hình xoắn ốc dẫn lên cao hơn, xuyên qua tòa nhà. Họ đi hết tầng này tới tầng khác, nhưng không thấy một cánh cửa nào. Họ đã quặt lần thứ tư thì một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cầu thang, và kèm theo đó là một đám mây bụi từ bên dưới bốc lên.

“Chúng đã vượt qua cửa rồi,” Jace chán nản. “Chết tiệt... anh cứ tưởng nó sẽ cản chân chúng lâu hơn.”

“Giờ chúng ta có chạy không?” Clary hỏi.

“Giờ thì chạy,” anh nói và họ lao rầm rập trên cầu thang, khiến nó kêu rít dưới sức nặng của hai người, những cái đinh bắn ra như đạn. Giờ họ đã lên tới tầng năm – cô có thể nghe tiếng thịch – thịch nhẹ nhàng do bàn chân sói gây ra từ những bậc thang dưới xa, hoặc có lẽ chỉ do cô tưởng tượng mà thôi. Cô biết thực sự chẳng có hơi thở nóng hổi nào sau cổ mình cả, nhưng những tiếng tru và tiếng gầm ghè, càng lúc càng lớn khi chúng tới gần hơn, là thật và đáng sợ.

Tầng sáu hiện ra trước mặt họ và họ gần như lao vào nó. Clary thở dốc, phổi đau nhức, nhưng cô vẫn khẽ phát ra tiếng kêu mừng rỡ yếu ớt khi thấy cánh cửa. Cánh cửa bằng thép nặng, có tán đinh, và có một viên gạch chặn giữ cửa luôn mở. Cô không có thời gian để tự hỏi vì sao thì Jace đã đá mở cửa, đẩy cô qua, và đi theo sau, đóng chặt cửa lại. Cô nghe thấy tiếng lách cách rõ ràng khi cửa khóa lại sau lưng họ. Tạ ơn Chúa, cô nghĩ.

Rồi cô quay nhìn quanh.

Bầu trời đêm xoay tròn trên đầu cô, lác đác những sao như những viên kim cương rải rác. Màu trời không đen mà là sắc xanh da trời sậm trong veo, màu của bình minh đang tới. Họ đang đứng trên mái nhà lát đá phiến lố nhố mấy ống khói bằng gạch. Một tháp nước cổ, đen ố bị lãng quên, vươn lên từ mặt phẳng được nâng lên tại một đầu nóc; một miếng vải nhựa dày giấu đống gỗ ngổn ngang bên dưới ở đầu nóc kia. “Hẳn đây là cách chúng chui vào và chui ra,” Jace nói, liếc nhìn cánh cửa. Giờ Clary có thể nhìn rõ Jace trong ánh sáng yếu ớt, thấy được sự căng thẳng hằn quanh mắt anh hệt như những vết cắt không sâu. Máu dính trên áo anh, chủ yếu là máu Raphael, đen lại. “Lũ ma cà rồng bay lên đây. Biết thì biết vậy chứ cũng chẳng giúp gì cho chúng ta được.”

“Hẳn phải có lối thoát hiểm chứ,” Clary đoán. Cả hai rón rén đi ra đến rìa mái nhà. Clary chưa bao giờ thích độ cao, và việc rơi từ tầng mười xuống đất khiến dạ dày cô điên đảo. Cảnh tượng về lối thoát hiểm cũng thế, một khúc kim loại vặn vẹo, không được sử dụng vẫn bám hờ hững vào một bên mặt tiền đá của khách sạn. “Hoặc không,” cô nói. Cô liếc nhìn cánh cửa mà họ vừa chui qua. Nó được lắp vào khối giống kiểu ca bin ở giữa mái nhà. Cửa đang rung lên, nắm đấm cửa dao động điên cuồng. Cánh cửa chỉ còn chịu được chừng thêm vài phút nữa thôi, hoặc thậm chí là ít hơn.

Jace ấn chặt mu bàn tay lên mắt. Bầu không khí nặng như chì đè xuống họ, khiến Clary dựng tóc gáy. Cô có thể thấy mồ hôi chảy thành dòng xuống cổ áo anh. Cô ước, dù chẳng liên quan gì, rằng trời sẽ đổ mưa. Mưa có thể làm nổ tung cái móng bập bùng này như vết rộp bị chích vào ấy.

Jace đang lẩm bẩm nói với chính mình. “Nghĩ đi, Wayland, nghĩ đi...”

Có gì đó thành hình trong đầu Clary. Một chữ rune nhảy múa dưới mí mắt cô; hai hình tam giác ngược, nối bằng một đường kẻ duy nhất – một chữ rune giống đôi cánh...

“Chính nó,” Jace thở, hạ tay, và trong khoảnh khắc giật mình Clary tự hỏi liệu anh có đọc được trí óc cô không. Anh trông sôi sục, đôi mắt vàng sáng rực lên. “Anh không thể tin là mình không nghĩ tới nó từ trước.” Anh lao về phía bên kia mái nhà, rồi dừng lại và nhìn cô. Cô vẫn đứng im ngơ ngáo, suy nghĩ vẫn còn đầy những hình ảnh mông lung. “Đi nào, Clary.”

Cô đi theo anh, cố đẩy những suy nghĩ về chữ rune ra khỏi tâm trí. Anh đã chạy tới chỗ tấm bạt và kéo mép bạt đi. Nó tuột ra, để lộ bên dưới không phải một đống rác mà là crom sáng bóng, da thuộc, và lớp sơn bóng loáng. “Mô tô ư?”

Jace sờ chiếc xe gần nhất, một chiếc Harley màu đỏ sậm khổng lồ có vẽ hình ngọn lửa vàng trên bình xăng và chắn bùn. Anh nhảy lên xe và ngoái nhìn cô. “Lên đi.”

Clary nhìn trân trối. “Anh đùa hả? Anh có biết lái nó không? Anh có chìa khóa không?”

“Anh không cần chìa khóa,” anh giải thích với sự kiên nhẫn vô biên. “Nó chạy nhờ năng lượng ác quỷ. Nào, em sẽ lên, hay em muốn tự lái một chiếc nào?”

Clary lúng túng trèo lên sau anh. Ở đâu đó, sâu trong não cô, một giọng nói nhỏ xíu đang hét lên về chuyện ý tưởng này tệ lậu tới mức nào.

“Tốt,” Jace nói. “Giờ vòng tay quanh người anh.” Cô nghe theo, cảm nhận cơ bụng rắn chắc của anh thắt lại khi anh nhoài lên trước và chọc đầu thanh stele vào ổ khóa. Cô ngạc nhiên khi nhận thấy chiếc xe rùng rùng sống dậy dưới chân mình. Trong túi cô, Simon đang lớn tiếng kêu gào.

“Mọi chuyện đều ổn mà,” cô nói, cố an ủi bạn trong khả năng của mình. “Jace!” cô hét, qua tiếng động cơ xe máy. “Anh đang làm gì đấy?”

Anh hét trả lời gì đó giống như, “Khởi động xe!”

Clary chớp mắt. “Vậy nhanh lên! Cánh cửa...”

Như đáp lời cô, cánh cửa gác mái bật tung với một tiếng rầm, bị xé toạc khỏi bản lề. Những con sói túa qua lỗ hổng, lao băng qua mái nhà thẳng về phía họ. Phía trên họ những ma cà rồng bay tới, rú rít, lấp đầy màn đêm với những tiếng gào thét của thú săn mồi.

Cô cảm nhận tay Jace giật về sau và chiếc xe lao về phía trước, khiến dạ dày cô va vào xương sống. Cô vô thức nắm chặt lấy thắt lưng Jace khi họ lao lên, bánh xe rít lên trên nền đá phiến, buộc những con sói phải tránh đường, kêu lên ăng ẳng khi nhảy sang bên. Cô nghe Jace hét gì đó, nhưng tiếng guồng xe, tiếng gió và tiếng động cơ đã át đi mất. Rìa mái nhà tiến tới rất nhanh, quá nhanh làm Clary muốn nhắm tịt mắt lại, nhưng có gì đó buộc đôi mắt cô phải mở lớn trong khi chiếc xe máy phóng qua bức tường chắn và chiếc xe, như một viên đá rơi thẳng xuống mặt đất, từ độ cao tầng mười.

Nếu Clary có hét, thì sau đó cô cũng chẳng nhớ. Giống như lần đầu tiên tàu lượn hạ xuống, khi đường tàu rơi đi mất và bạn có cảm giác như đang lao vào không trung, hai tay vô dụng vùng vẫy trong không khí và dạ dày nhảy lên tận tai. Khi xe chỉnh thẳng lại kêu xình xịch và nảy lên, cô gần như chẳng ngạc nhiên. Thay vì rơi xuống, giờ họ đang bay lên bầu trời rải rác kim cương.

Clary liếc ra sau và thấy nhóm ma cà rồng đang đứng trên mái khách sạn, bị bao vây bởi đàn sói. Cô nhìn đi chỗ khác – nếu cô không bao giờ nhìn lại khách sạn, thì giờ còn quá sớm.

Jace đang hò hét, những tiếng hú hí ồn ào vì vui mừng và nhẹ nhõm. Clary nhoài người, vòng tay ôm tay chặt lấy anh. “Mẹ luôn bảo nếu tôi ngồi trên xe máy với một cậu con trai, mẹ sẽ giết tôi,” cô hét qua tiếng gió thổi vù vù qua tai và tiếng động cơ rầm rập đến thủng màng nhĩ.

Cô không thể nghe thấy tiếng anh cười, nhưng cô cảm nhận cơ thể anh đang rung lên. “Mẹ em sẽ không nói vậy nếu biết anh đâu,” anh tự tin đáp lời cô. “Anh là tay lái lụa mà.”

Chặp sau Clary nhớ ra gì đó. “Tôi tưởng anh nói chỉ có vài chiếc xe ma cà rồng có thể bay thôi mà.”

Thật khéo léo, Jace lái xe quành qua đèn giao thông trong khi nó chuyển từ đỏ sang xanh. Bên dưới kia, Clary nghe tiếng còi ô tô, tiếng còi báo động của xe cứu thương và tiếng xe buýt nhả phanh tại trạm đỗ, nhưng cô không dám nhìn xuống. “Chỉ một số là có thể thôi.”

“Sao anh biết chiếc xe này bay được?”

“Anh có biết đâu!” anh hân hoan hét lên, và làm gì đó khiến chiếc xe gần như bay thẳng đứng lên bầu trời. Clary ré lên và nắm chặt lấy thắt lưng anh thêm lần nữa.

“Em nên nhìn xuống đi!” Jace hét. “Tuyệt lắm!”

Sự tò mò tột bực đã vượt qua được nỗi sợ và cơn chóng mặt. Clary nuốt khan và mở mắt.

Họ đang ở cao hơn mức cô tưởng, và trong một thoáng, trời đất như đảo lộn bên dưới cô, cảnh tranh tối tranh sáng nhập nhèm. Họ đang bay về phía đông, tránh xa công viên, hướng về đường cao tốc chạy vòng vèo quanh bờ phải của thành phố.

Tay Clary tê dại, và áp lực đè nặng lên ngực cô. Cảnh tượng thật đẹp: thành phố vươn tới bên cạnh cô như một khu rừng tháp bằng bạc và kính, dòng sông Đông lấp lánh ánh xám, như một vết sẹo chia cách Manhattan và những quận khác. Gió thổi man mát bên tóc, lên đôi chân trần, thật tuyệt vời sau bao nhiêu ngày phải chịu cảnh nóng nực và nhớp nháp. Dầu vậy, cô chưa bao giờ bay, kể cả bằng máy bay, và khoảng không bao la giữa họ và mặt đất khiến cô sợ. Cô không thể không khép hờ mắt khi họ phóng vút qua dòng sông. Dưới chân cầu Queensboro, Jace quặt về hướng nam và hướng về phía đảo. Bầu trời bắt đầu bừng sáng và từ xa Clary có thể thấy nhịp cầu Brooklyn cong cong phản chiếu ánh mặt trời, ở xa hơn về phía chân trời nhòe nhoẹt là tượng Nữ Thần Tự Do.

“Em ổn không?” jace hét toáng.

Clary không nói gì, chỉ ôm anh chặt hơn. Anh nghiêng xe, và thế là họ sang phóng thẳng về phía cầu, giúp Clary thấy rõ những vì sao qua những dây cáp giữ tàu. Một chuyến tàu sáng đang lao vun vút qua cầu – tàu tuyến Q, mang theo những hành khách buổi sớm còn đang ngái ngủ. Cô nghĩ tới việc mình đã từng trên chuyến tàu đó thường xuyên đến mức nào. Một đợt sóng hoa mắt tràn qua cô, cô nhắm chặt mắt lại, há hốc vì buồn nôn.

“Clary?” Jace gọi. “Clary, em ổn không?”

Cô lắc đầu, mắt vẫn nhắm chặt, cảm giác cô đang một mình giữa bóng tối và những cơn gió thổi bạt qua với chỉ tiếng tim nện thình thịch. Có gì đó sắc cào lên ngực cô. Cô lờ tịt nó đi tới khi cảm giác đó lại xuất hiện, giục giã hơn. Hơi hé mở một mắt, cô thấy đó là Simon, thò đầu ra khỏi túi áo, dùng móng vuốt cào áo cô vẻ gấp gáp. “Ổn rồi mà, Simon,” cô nỗ lực nói, cố không nhìn xuống. “Chỉ là một cây cầu...”

Cậu bạn lại cào cô, rồi chỉ bàn chân về phía bờ sông Brooklyn, đang dần hiện lên phía bên trái. Chóng mặt và buồn nôn, cô nhìn và thấy, đằng sau những đường nét của nhà kho nhà xưởng, một mảnh bình minh vàng ươm chớm xuất hiện, giống như mép góc đồng xu mạ màu vàng nhạt. “Đúng, rất đẹp,” Clary nói, nhắm tịt mắt lại. “Bình minh rất đẹp.”

Jace cứng hết cả người, như thể vừa bị bắn. “Bình minh ư?” anh hét, rồi vội vàng quành sang phải. Đôi mắt Clary mở choàng khi họ phóng về phía mặt nước, đã bắt đầu lấp lánh sắc xanh của buổi bình minh đang tới rất gần.

Clary ôm chặt với Jace hết sức có thể mà không khiến Simon bẹp dí ở giữa. “Bình minh thì sao nào?”

“Anh bảo em rồi! Chiếc xe chạy nhờ năng lượng ác quỷ!” Anh phanh lại khi họ ngang tầm mặt nước, chỉ lướt trên mặt nước với bánh xe khiến nước bắn lên. Những tia nước bắn lên mặt Clary. “Ngay khi mặt trời lên...”

Chiếc xe bắt đầu khựng lại. Jace chửi thề đủ loại câu, đấm vào tay ga. Chiếc xe lao lên lần nữa, rồi lục khục, giật nảy lên bên dưới họ như một con ngựa bất kham. Jace vẫn chửi thề trong khi mặt trời ló ra trên mấy cầu tàu Brooklyn đổ nát, rọi chiếu xuống toàn bộ thế giới với vẻ sáng sủa đau lòng. Clary có thể nhìn thấy từng viên đá gộc, đá cuội bên dưới họ trong khi phóng qua khỏi dòng sông mà lao lên bờ đê hẹp. Bên dưới họ là đường cao tốc, đã ngược xuôi dòng giao thông buổi sáng. Họ chỉ vừa qua khỏi đường cao tốc, bánh xe nghiến lên nóc chiếc xe tải đi ngang. Bên dưới họ là chỗ đậu xe đầy những rác của một siêu thị lớn. “Bám chắc vào!, Clary, và đừng thả...”

Chiếc xe nghiêng đi và chạm vào lớp nhựa đường của bãi đậu xe, bánh trước chạm đất trước. Nó phóng lên, lảo đảo dữ dội, rồi trượt dài, nảy lên va đập trên mặt đất lồi lõm, quật đầu Clary hết lao về trước lại giật ngược về sau với lực đủ làm cô gẫy cổ. Không khí bốc mùi cao su cháy. Nhưng chiếc xe đang chậm dần, trượt dài để dừng lại – và rồi nó chạm vào rào chắn bằng xi măng với lực mạnh đến nỗi nhấc bổng cô lên không trung rồi quẳng sang một bên, tay bị giằng khỏi thắt lưng Jace. Cô chỉ kịp cuộn mình lại để bảo vệ, ôm chặt tay hết mức có thể và cầu nguyện cho Simon không bị nát bét khi họ chạm đất.

Cô đập mạnh xuống đất, cơn giận dữ chạy dọc tay cô. Có gì đó té lên mặt cô, và cô ho khi lật ngửa ra, đặt lưng xuống đất. Cô chộp lấy túi. Nó trống không. Cô cố gọi tên Simon, nhưng trong người cô không còn chút hơi thở. Cô há miệng thở khò khè. Mặt cô ướt nhẹp và nước chảy xuống cổ áo.

Máu phải không? Cô mơ hồ mở mắt. Mặt cô có cảm giác như bầm một đống, tay cô, đau đớn nhức nhối, như một miếng thịt sống. Cô lăn sang bên và nửa người đang nằm trên vũng nước bẩn. Bình minh đã thực sự tới – cô có thể thấy những gì còn lại của chiếc xe, giờ đã biến thành đống tro tàn không thể nhận dạng, khhi ánh mặt trời chạm tới nó.

Và kia là Jace, đang đau đớn đứng lên. Anh bắt đầu vội vã chạy tới cô, rồi chậm lại khi tới gần. Tay áo khoác bị rách toạc và bên tay trái của anh có vết trầy dài đang chảy máu. Mặt anh, khuất sau những lọn tóc vàng sậm đang bết bát mồ hôi, đất cát và máu, đang trắng bệch như giấy. Cô tự hỏi vì sao anh lại như thế. Có phải chân cô có bị đứt lìa và nằm đâu đó trong vũng máu không?

Cô cố ngồi dậy và cảm nhận bàn tay đặt lên vai cô. “Clary?”

“Simon!”

Cậu bạn đang quỳ bên cạnh cô, chớp chớp mắt như thể chính cậu cũng không tin nổi. Quần áo cậu nhàu nhĩ cáu bẩn, kính đã biến đâu mất, nhưng ngoài ra dường như cậu chẳng bị tổn hại gì. Không có kính, trông Simon trẻ hơn, yếu đuối, và có chút gì đó thẫn thờ. Simon vươn tay chặm vào mặt cô, nhưng cô né ra. “Đau!”

“Cậu ổn không? Cậu trông tuyệt lắm,” cậu nói, giọng nghe là biết có vấn đề. “Điều tuyệt nhất mình từng thấy...”

“Là vì cậu không có kính thôi,” cô yếu ớt lên tiếng, nhưng nếu cô đợi một lời trả lời tự cho là thông minh của cậu bạn, thì cô đã không nghe được. Thay vào đó, cậu vòng tay quanh cô, ôm chặt lấy cô. Quần áo cậu có mùi máu, mồ hôi và bụi bẩn, tim đập một phút một dặm và cậu đang đè vào những vết bầm trên người cô, nhưng dù sao được bạn ôm và được biết, thực sự biết bạn mình vẩn ổn, quả là niềm an ủi lớn.

“Clary,” cậu khàn giọng nói. “Mình tưởng... mình tưởng cậu...”

“không quay lại tìm cậu? Tất nhiên mình có chứ,” cô nói. “Tất nhiên là có rồi.”

Cô vòng tay ôm bạn. Mọi thứ về Simon đều quen thuộc, từ chiếc áo phông đã sờn vải tới phần xương quai xanh góc cạnh nằm gọn ngay dưới cằm cô. Cậu gọi tên cô, và cô vỗ lưng cậu an ủi. Khi liếc ra sau chỉ trong một thoáng chốc, cô thấy Jace quay mặt đi như thể ánh mặt trời làm anh đau mắt.