Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương - Chương 18: Khách sạn Dumort




Vào ban đêm, nhà thờ trên đường Diamond nhìn thật ma quái, những cửa sổ cong cong theo phong cách Gothic phản chiếu ánh trăng như những tấm gương bạc. Hàng rào bằng sắt uốn bao quanh tòa nhà và được sơn màu đen mờ. Clary lắc lắc cổng trước, nhưng ổ khóa chắc nụi giữ cánh cổng đóng chặt. “Cổng khóa rồi,” cô nói, liếu ra sau nhìn Jace.

Anh vung thanh stele. “Để anh lo.”

Cô quan sát trong khi anh vẽ lên cái khóa, nhìn những đường cong thanh mảnh của lưng anh, nhìn những cơ bắp lộ ra dưới tay áo phông ngắn tay. Ánh trăng đã gội sách màu tóc anh, khiến nó giống màu bạc hơn là vàng.

Cái khóa rơi lanh canh trên mặt đất và bị vặn xoắn tới biến dạng. Jace có vẻ hài lòng với chính mình. “Như thường lệ,” anh nói, “anh giỏi tới đáng ngạc nhiên trong vụ này.”

Clary đột nhiên thấy bực. “Khi phần chúc mừng thành công của bản thân trong đêm nay kết thúc, chúng ta có thể trở lại phần cứu bạn thân của tôi khỏi bị hút cạn máu mà chết chứ?”

“Hút cạn máu,” Jace bị ấn tượng. “Quả là một từ rất kêu.”

“Và anh là cái đồ...”

“Chậc chậc,” anh ngắt lời. “Không chửi bậy trong nhà thờ.”

“Chúng ta chưa ở trong nhà thờ,” Clary lầm bầm, đi theo anh lên đoạn đường rải đá dẫn tới cánh cửa đôi. Mái vòm đá phía trên cánh cửa được chạm khắc đẹp mắt hình một thiên thần đang từ điểm cao nhất nhìn xuống. Những ngọn tháp ngọn hoắt đâm thẳng lên bầu trời đêm và Clary nhận ra đây là nhà thờ cô đã thoáng thấy từ công viên McCarren. Cô cắn môi. “Phá khóa nhà thờ có vẻ là một công việc tội lỗi.”

Jace nhìn nghiêng dưới ánh trăng trông mới thư thái làm sao. “Chúng ta sẽ không làm vậy,” anh nói và nhét thanh stele vào túi. Anh đặt bàn tay nâu gầy, đầy những vết sẹo trắng nhỏ giống như một màn ren, lên cánh cửa gỗ, ngay trên then cửa. “Nhân danh hội Clave,” anh nói, “con xin phép được bước vào nơi linh thiêng này. Nhân danh Cuộc Chiến Chưa Bao Giờ Kết Thúc, con cầu xin được sử dụng vũ khí của người. Và nhân danh Thiên Thần Raziel, con xin người chúc phúc cho sứ mệnh của con trước bóng tối.”

Clary nhìn anh chăm chú. Anh không di chuyển, dù gió đêm thổi tóc xòa xuống mắt anh; anh chớp mắt, và ngay khi cô định nói, cánh cửa lách cách mở ra và tiếng bản lề cọt kẹt vang lên. Cách cửa nhẹ nhàng xoay vào trong trước mặt họ, mở vào khoảng không vắng vẻ, tối tăm, lạnh lẽo, được thắp sáng nhờ những ánh nến.

Jace bước lùi lại. “Em đi trước đi.”

Khi Clary bước vào trong, một luồng không khí mát mẻ bao trùm lấy cô, cùng với mùi đá và sáp nến. Những hàng ghế lễ chìm trong bóng tối kéo dài tới tận bệ thờ, và những hàng nến tỏa sáng như cả rừng tia sáng in lên bức tường đầu kia. Cô nhận ra, trừ Học Viện, nơi này không tính, thì trước giờ cô chưa thực sự vào trong một nhà thờ nào. Cô đã nhìn thấy tranh, thấy không gian trong những nhà thờ qua phim ảnh và những bộ phim hoạt hình anime, nhà thờ xuất hiện khá thường xuyên trong mấy thứ này. Một cảnh trong bộ phim hoạt hình yêu thích của cô diễn ra trong một nhà thờ với cha xứ ma cà rồng xấu xa. Đáng ra người ta phải có cảm giác an toàn trong nhà thờ, nhưng cô thì không. Những bóng đen lạ kỳ dường như đang lom lom nhòm cô từ trong bóng tối. Cô rùng mình.

“Những bức tường đá ngăn cái nóng lại,” Jace nói khi để ý thấy.

“Không phải thế,” cô nói. “Anh biết đấy, trước nay tôi chưa từng vào trong nhà thờ.”

“Em đã ở trong Học viện.”

“Ý tôi là nhà thờ thực sự ấy. Có làm lễ ấy. Kiểu dạng như thế.”

“Vậy à. Ừ, đây là chính điện, nơi đặt những hàng ghế lễ. Là nơi người ta ngồi trong giờ lễ.” Họ tiến lên, giọng dội lại từ những bức tường đá. “Trên này là nơi tụng kinh. Đó là nơi chúng ta đang đứng. Và đây là bệ thờ, nơi cha xứ thực hiện lễ Ban Thánh Thể. Nó luôn luôn ở phía đông nhà thờ.” Anh quỳ xuống trước bệ thờ, và cô thoáng nghĩ anh đang cầu nguyện. Bệ thờ khá cao, làm từ đá cẩm thạch đen và phủ khăn đỏ. Đằng sau nó là tấm bình phong vàng trang trí công phu, khắc hình các vị thánh và những người tử vì đạo, đều có một đĩa vàng dẹt sau đầu tượng trưng cho vầng hào quang.

“Jace,” cô thì thầm. “Anh đang làm gì đấy?”

Anh đặt tay lên nền đá và di chuyển lên xuống nhanh chóng, như thể tìm gì đó, những ngón tay khuấy động lớp bụi bám. “Tìm vũ khí.”

“Ở đây á?”

“Chúng được giấu thường là dưới bệ thờ. Để bọn anh sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.”

“Và đây là gì nhỉ, một kiểu thỏa thuận mà các anh giao kèo với nhà thờ Công giáo ư?”

“Không hẳn. Ác quỷ có mặt trên trái đất ngay khi con người xuất hiện. Chúng xuất hiện ở mọi nơi, trong những hình dáng khác nhau – quỷ daemon của người Hi Lạp, quỷ daevas Ba Tư, asuras trong tính ngưỡng Hindu, oni của Nhật. Hầu hết những hệ thống tín ngưỡng đều có cách để hợp nhất giữa sự tồn tại của chúng và những cuộc đấu tranh chống lại chúng. Thợ Săn Bóng Tối không gắn liền với duy một tôn giáo nào, và vì thế các tôn giáo đều hỗ trợ bọn anh trong mọi cuộc chiến. Anh có thể dễ dàng nhờ sự giúp đỡ từ Giáo đường Do Thái hay đền thờ thần đạo Shinto, hoặc... A. Đây rồi” anh phủi đất cát trong khi cô quỳ xuống bên cạnh. Được khắc trên một trong những viên đá hình bát giác ngay trước bệ thờ là một chữ rune. Clary nhận ra nó, dễ dàng như đang đọc một từ tiếng Anh. Nó là chữ rune mang nghĩa “Nephilim.”

Jace rút thanh stele và chạm vào tảng đá. Hòn đá thụt lại với âm thanh ken két, để lộ ra một ngăn nhỏ tối om bên dưới. Bên trong ngăn đó đặt một chiếc hộp gỗ dài; Jace nhấc nắp hộp, và quan sát những vật được sắp xếp gọn ghẽ bên trong với vẻ hài lòng.

“Những thứ này là gì vậy?” Clary hỏi.

“Vài bình nước thánh, dao được ban phép, lưỡi dao găm bằng thép và bạc,” Jace nói, và chất đống vũ khí sang bên cạnh, “roi điện – không hữu dụng lắm trong trường hợp này, nhưng thừa còn hơn thiếu – đạn bạc, bùa bảo vệ, thánh giá, ngôi sao David...”

“Jesus,” Clary nói.

“Anh không nghĩ Ngài bỏ vừa vào trong này.”

“Jace.” Clary thất kinh.

“Gì?”

“Không biết nữa, hình như đùa cợt như vậy trong nhà thờ là không phải.”

Anh nhún vai. “Anh không hẳn là con chiên ngoan đạo.”

Clary ngạc nhiên nhìn anh. “Không phải ư?”

Anh lắc đầu. Tóc xòa xuống mặt anh, nhưng anh đang kiểm tra cái bình đựng thứ chất lỏng trong veo mà không thèm cho tay lên vén tóc. Những ngón tay Clary ngứa ngáy với thôi thúc muốn làm thế thay anh. “Em tưởng anh là kẻ có đức tin tôn giáo à?” anh hỏi.

“À.” Cô lưỡng lự. “Nếu có ác quỷ, hẳn phải có...”

“Phải có gì nào?” Jace nhét chai nước vào túi. “À,” anh nói. “Ý em là nếu có những cái này” – anh chỉ xuống sàn nhà – “thì phải có cái này.” Anh chỉ lên trần nhà.

“Cũng có lý chứ. Đúng không?”

Jace hạ tay và cầm con dao lên, xem xét chuôi dao. “Anh sẽ nói cho em nghe,” anh nói. “Suốt một phần ba cuộc đời anh đã lao vào và giết lũ ác quỷ. Anh chắc đã phải đưa tiễn năm trăm con trở về không gian địa ngục nào đó mà chúng chui ra. Và trong suốt thời gian đó – suốt thời gian đó – anh chưa bao giờ nhìn thấy một thiên thần. Thậm chí cũng chưa từng nghe thấy ai đã gặp thiên thần hết.”

“Nhưng chính thiên thần đã tạo ra Thợ Săn Bóng Tối,” Clary nói. “Đó là điều bác Hodge nói.”

“Thế mới tạo ra một câu chuyện hấp dẫn chứ.” Jace nhìn cô qua cặp mắt đồng tử dọc như mắt mèo. “Bố anh tin vào Đức Chúa Trời,” anh nói. “Anh thì không.”

“Không một chút nào?” Cô không chắc vì sao cô lại châm chọc anh – cô chưa bao giờ nghĩ xem mình có đặt lòng tin vào Chúa Trời với thiên thần và đại loại như thế hay không, và nếu được hỏi, cô cũng trả lời là không. Nhưng có gì đó về Jace, khiến cô muốn hỏi anh tới cùng, muốn đập tan cái lớp vỏ hoài nghi, và bắt anh thừa nhận rằng anh tin vào một cái gì đó, cảm nhận một điều gì đó, quan tâm tới thứ gì đó.

“Để anh nói theo cách này nhé,” anh nói, nhét hai con dao vào thắt lưng. Ánh sáng mờ ảo chiếu qua những ô cửa sổ kính bẩn tạo thành từng ô màu sắc trên gương mặt anh. “Bố anh tin vào Đức Chúa công bằng. Deus volt, đó là phương châm của ông – ‘vì ý nguyện của Đức Chúa.’ Đó cũng chính là phương châm của những Thập Tự quân, và họ đã lên đường chiến đấu để bị chém giết, cũng như bố anh. Và khi anh thấy ông nằm chết trên vũng máu của chính mình, lúc ấy anh đã biết mình không thôi tin tưởng vào Đức Chúa. Anh chỉ thôi tin rằng Chúa trời biết quan tâm. Clary, có thể có Chúa Trời đấy, hoặc cũng có thể không, nhưng với anh không quan trọng. Dù thế nào, chúng ta vẫn chỉ có một mình.”

Họ là những hành khách duy nhất trên toa tàu hướng lên phía bắc thành phố. Clary ngồi im lặng, nghĩ về Simon. Thi thoảng Jace lại nhìn cô như định nói gì đó, trước khi tiếp tục im lặng một cách không bình thường.

Khi họ rời khỏi ga tàu điện ngầm, đường phố chẳng có lấy một bóng người, bầu không khí nặng nề và ngậm ngụa mùi sắt thép, những cửa hàng rượu vang, những tiệm giặt là và trung tâm đổi tiền đều chìm trong yên lặng sau những cánh cửa tôn múi kéo xuống vào ban đêm. Cuối cùng, sau một tiếng đồng hồ tìm kiếm, họ cũng tìm ra khách sạn, ở con phố bên hông đường số 116. Họ đã đi qua nó hai lần, vì nghĩ đó chỉ là một chung cư bỏ hoang, cho đến khi Clary nhìn thấy biển hiệu. Tấm bảng đã sút khỏi đinh, lủng lẳng khuất sau một thân cây còi cọc. KHÁCH SẠN DUMONT,từng có thời trên tấm bảng đề vậy, nhưng có ai đó đã xóa chữ N và thay bằng R.

“Khách sạn Dumort,” Jace nói khi cô chỉ cho anh xem. “Dễ thương thật.”

Clary chỉ học hai năm tiếng Pháp, nhưng thế cũng đủ để hiểu trò đùa này. “Du mort,” cô nói. “Của sự chết chóc.”

Jace gật đầu. Anh đang căng thẳng toàn thân, như con mèo đã nhìn thấy con chuột đang chạy sau ghế sô pha.

“Nhưng đây không thể là khách sạn được,” Clary nói. “Những ô cửa sổ đều bị bịt ván kín, cửa đã bị xếp gạch lấp đi – Ồ,” cô dứt lời, khi nhìn thấy vẻ mặt anh. “Đúng rồi. Ma cà rồng. Nhưng sao chúng vào trong được?”

“Bay vào,” Jace đáp, chỉ vào những tầng trên của tòa nhà. Rõ ràng từng có thời, nơi đây là một khách sạn đẹp đẽ và sang trọng. Những viên đá lát mặt tiền được khắc các vòng xoắn trang trí và hoa huệ tây, giờ đã đen xỉn và mòn vẹt vì nhiều năm hứng chịu không khí ô nhiễm và những trận mưa axit ăn mòn.

“Chúng ta không bay,” Clary thấy cần phải nói ra.

“Ừ,” Jace đồng tình. “Chúng ta không bay. Chúng ta phá cửa xông vào.” Anh bắt đầu bước sang đường, tiến về phía khách sạn.

“Bay nghe vui hơn,” Clary nói và vội vàng đuổi theo.

“Giờ thứ gì nghe cũng vui hơn hết.” Cô tự hỏi liệu anh có thật tình nghĩ thế không. Ở anh toát lên vẻ phấn khích, vẻ nôn nóng mong chờ đến cuộc săn mà cô thấy không có vẻ gì là anh không được vui như anh bảo. Anh ấy đã giết nhiều quỷ hơn những người đồng trang lứa. Bạn không thể giết nhiều quỷ đến vậy bằng cách chần chừ lưỡng lự chùn bước trước trận đánh.

Mộ cơn gió nóng thổi tới, khuấy động những chiếc lá trên cái cây còi cọc ngoài khách sạn, lùa rác rưởi rơi từ dưới cống và trên vệ đường bay tứ tung trên vỉa hè đã nứt vỡ. Nơi này vắng vẻ tới lạ lùng, Clary nghĩ – thường thường, ở Manhattan, khi nào cũng có ai đó trên đường phố, thậm chí là vào bốn giờ sáng. Vài ngọn đèn đường đã cháy, dù ngọn đèn gần khách sạn nhất đang tỏa ánh sáng vàng vọt lên lối vào rạn nứt, dẫn lên nơi từng là cửa trước.

“Tránh xa ánh sáng ra,” Jace nói và nắm cổ tay áo cô mà kéo về phía mình. “Chúng có thể đang quan sát qua cửa sổ. Và đừng nhìn lên,” anh nói thêm, nhưng đã quá muộn. Clary đã liếc mắt lên những ô cửa sổ xập xệ trên những tầng cao hơn. Cô thoáng nghĩ đã thấy một chuyển động lướt qua ô cửa sổ, một màu trắng trắng có thể là một gương mặt, hoặc là một cánh tay đang kéo tấm màn nặng trịch...

“Đi nào.” Jace kéo cô theo mình để lẩn vào quầng bóng tối gần khách sạn hơn. Cô cảm nhận sự căng thẳng dâng cao dọc nơi sống lưng, nơi nhịp đập trên cổ tay, nơi máu rần rần chảy trong màng nhĩ. Tiếng còi xe văng vẳng dường như vang tới từ rất xa, âm thanh duy nhất là tiếng giày của chính cô dẫm lên vỉa hè lổn nhổn rác. Cô ước gì cô có thể đi lại không phát ra tiếng động, như một Thợ Săn Bóng Tối. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ nhờ Jace dạy cho mình.

Họ lẻn quanh góc khách sạn, rẽ vào một con hẻm có lẽ từng là lối phụ để đưa hàng hóa vào. Con hẻm hẹp, đầy ứ rác: những thùng các tông mọc rêu mốc, những chai thủy tinh rỗng, những mảnh nhựa, vài thứ rải rác mà lúc đầu Clary nghĩ là tăm xỉa răng, nhưng nhìn gần thì có vẻ là...

“Xương đấy,” Jace nói tỉnh lụi. “Xương chó, xương mèo. Đừng nhìn gần quá; lục lọi qua đống rác thải của ma cà rồng hiếm khi nào là một bức tranh đẹp.”

Cô dằn cơn buồn nôn xuống. “Ừm,” cô nói, “ít nhất chúng ta cũng biết mình tới đúng nơi,” và được khen tặng bằng một thoáng nhìn thể hiện sự đánh giá cao lộ ra, tích tắc thôi, trong mắt Jace.

“Ồ, chúng ta tới đúng nơi rồi,” anh nói. “Giờ chúng ta chỉ phải nghĩ ra vào bằng cách nào thôi.”

Rõ ràng ở đây từng có cửa sổ, nhưng giờ đã bị xây kín lại. Không có cửa cũng như dấu hiệu nào của lối thoát hiểm. “Khi nơi này còn là khách sạn,” Jace chậm rãi nói, “hẳn họ đưa hàng hóa qua lối này. Ý anh là, họ không thể mang đồ vào qua cửa trước được, và ở đây không có chỗ nào khác để đỗ xe tải cả. Vậy thì phải có lối vào.”

Clary nghĩ tới những cửa hàng nhỏ và cửa hiệu rượu vang gần nhà cô tại Brooklyn. Vào sáng sớm khi cô đi bộ tới trường, cô đã thấy khi nhập hàng, những chủ tiệm thức ăn người Hàn Quốc mở cánh cửa sắt gắn trên lề đường ngay ngoài cửa trước, để họ có thể mang những hộp khăn giấy và thức ăn mèo vào tầng hầm trữ hàng. “Em cá là cửa nằm dưới đất. Có lẽ bị chôn vùi dưới lớp rác rưởi này.”

Jace, đứng sát sau cô, gật đầu. “Anh cũng đang nghĩ vậy.” Anh thở dài. “Anh nghĩ chúng ta nên dời đống rác đi chỗ khác. Chúng ta có thể bắt đầu với cái thùng rác kia.” Anh chỉ vào đấy, rõ ràng là không hứng thú gì.

“Anh thà đối diện với một lô một lốc quỷ dữ còn hơn, đúng không?” Clary nói.

“Ít nhất chúng không có dòi. À,” anh ngẫm ngợi rồi nói thêm, “đa số bọn chúng thôi. Lần trước có một con quỷ, anh đã lần theo dấu nó xuống các đường cống bên dưới nhà ga Trung Tâm...”

“Đừng.” Clary giơ tay cảnh cáo. “Giờ tôi không có hứng.”

“Đây là lần đầu tiên có một cô gái từng nói lời đó với anh,” Jace vui vẻ.

“Cứ ở cạnh tôi là anh còn nghe dài dài.”

Khóe miệng Jace giật giật. “Giờ không phải lúc để đùa cợt. Chúng ta còn phải dọn rác đây này.” Anh sải bước về phía thùng rác và cầm lấy một quai. “Em cầm quai kia. Chúng ta sẽ lật nó.”

“Lật sẽ gây ra nhiều tiếng động lắm,” Clary cãi lại, nhưng vẫn đứng vào tư thế bên kia thùng rác khổng lồ. Đây là loại thùng rác thông thường trong thành phố, sơn màu xanh lá cây đậm, lốm đốm những vết ố kỳ lạ. Nó thối um, thậm chí còn thối hơn đa số những thùng rác khác, thối mùi rác và và thứ gì đó khác, thứ gì đó sền sệt và ngọt lịm lan xuống tận cổ họng cô và khiến cô phát ói. “Chúng ta phải đẩy nó thôi.”

“Nào, nghe này...” Jace mở miệng, thì một giọng nói đột ngột vang lên từ bóng tối phía sau.

“Mấy người thật sự nghĩ nên làm vậy sao?” giọng nói này hỏi.

Clary đứng khựng lại, nhìn vào khoảng tối ngay lối vào con hẻm. Trong giây phút hoảng hốt, cô tự hỏi có phải mình vừa tưởng tượng ra giọng nói không, nhưng Jace cũng đang đứng thần người, vẻ kinh ngạc lộ rõ trên gương mặt. Hiếm có cái gì làm anh ngạc nhiên, lại càng hiếm hơn khi có kẻ đến sát hù anh. Anh lùi xa thùng rác, tay dịch về thắt lưng, giọng vẫn bình tĩnh. “Có ai ngoài đó sao?”

“Dios mío.” Một giọng nam, khá vui vẻ, nói tiếng Tân Ban Nha trôi chảy. “Các người không thuộc khu này, đúng không?”

Hắn bước ra khỏi vùng bóng tối dày đặc. Hình dáng cơ thể hắn chầm chậm hiện ra: một gã trai, không lớn hơn Jace là bao, và có lẽ thấp hơn khoảng 6 inch. Hắn gầy gò, mắt to đen và da mật ong như những nhân vật trong tranh của họa sĩ Diego Rivera. Hắn mặc chiếc quần rộng thùng thình màu đen và áo sơ mi trắng mở cúc ngực, và sợi dây chuyền vàng quanh cổ hắn lấp lánh sáng khi hắn tiến gần ra ánh sáng hơn.

“Có thể nói là thế,” Jace cẩn trọng cất tiếng, không rời tay khỏi thắt lưng.

“Các cậu không nên ở đây.” Gã trai lùa tay qua những lọn tóc xoăn đen dày xõa xuống trán. “Nơi này nguy hiểm lắm.”

Ý hắn là đây là khu dân cư kém an toàn. Clary suýt bật cười dù chuyện chẳng lấy gì làm buồn cười. “Chúng tôi biết,” cô nói. “Chúng tôi đi lạc ấy mà.”

Hắn chỉ tay về phía thùng rác. “Thế các cậu đang làm gì với thứ kia?”

Mình không giỏi nói dối ngay tại chỗ, Clary nghĩ và nhìn Jace, người mà cô hy vọng biết nói dối cực giỏi.

Anh ngay lập tức khiến cô thất vọng. “Chúng tôi đang cố chui vào khách sạn. Chúng tôi nghĩ chắc có cửa tầng hầm bên dưới cái thùng rác.”

Đôi mắt gã trai mở lớn vì kinh ngạc. “Puta madre – vì sao các cậu lại muốn làm chuyện như vậy chứ?”

Jace nhún vai. “Nghịch tí ấy mà. Vui vẻ chút thôi.”

“Cậu không hiểu rồi. Nơi đây bị ám, bị nguyền rủa. Không may đâu.” Hắn lắc đầu lia lịa và nói vài câu tiếng Tây Ban Nha mà Clary nghĩ có liên quan tới sự ngu ngốc của đám trẻ da trắng ăn no rửng mỡ nói chung và sự ngu ngốc của hai người họ nói riêng. “Đi cùng tớ, tôi sẽ dẫn các cậu ra ga tàu.”

“Chúng tôi biết ga tàu ở đâu,” Jace nói.

Gã trai bật lên tiếng cười nhẹ nhàng, vang vọng. “Claro. Tất nhiên rồi, nhưng nếu các cậu đi với tôi, không ai dám làm phiền các cậu cả. Các cậu không muốn gặp rắc rối, đúng không?”

“Còn tùy,” Jace nói và di chuyển khiến áo khoác hơi mở ra, cho thấy những thứ vũ khí lóe sáng nơi thắt lưng. “Chúng trả cho anh bao nhiêu để anh khiến mọi người tránh xa cái khách sạn này?”

Gã trai nhìn ra sau anh, và thần kinh của Clary căng lên khi cô tưởng tượng ra cảnh miệng con hẻm hẹp này đầy ắp những bóng hình mặt trắng ởn, miệng đỏ lòm, răng nanh lóe sáng đột nhiên như kim loại đánh lên tia lửa điện ở trên vỉa hè. Khi quay lại nhìn Jace, miệng hắn đã mím thành đường kẻ mảnh. “Ai trả cho tôi bao nhiêu, chico?”

“Ma cà rồng. Chúng trả cho anh bao nhiêu? Hay là thứ gì khác nào – chúng có nói với anh rằng sẽ biến anh thành một trong số chúng, hứa hẹn cho anh cuộc sống vĩnh hằng, không còn chịu đau đớn, không bệnh tật và anh sẽ sống trường sinh bất tử? Vì nó không đáng đâu. Cuộc sống sẽ rất dài khi anh không được nhìn thấy ánh mặt trời đấy, chico ạ,” Jace nói.

Cậu trai kia chẳng thể hiện chút cảm xúcnào. “Tên tôi là Raphael. Không phải là chico.”

“Nhưng anh biết chúng ta đang nói về cái gì mà. Anh biết ma cà rồng chứ?” Clary nói.

Raphael quay mặt về một phía và nhổ nước bọt. Khi gã quay nhìn họ, ánh mắt gã tràn ngập sự thù địch đang sáng lên. “Los vampiros, sí, những bọn súc sinh uống máu. Kể cả trước khi khách sạn này bị niêm phong, đã có một vài câu chuyện, họ nghe thấy tiếng cười vào những đêm tối muộn, vài con vật nhỏ biến mất, những âm thanh...” Gã ngừng nói, lắc đầu. “Mọi người trong khu vực đều biết tránh xa nơi này, biết làm sao được? Ta không thể gọi cảnh sát để báo cáo rắc rối là ma cà rồng.”

“Anh đã bao giờ gặp chúng chưa?” Jace hỏi. “Hay biết ai đã từng gặp?”

Raphael nói chậm rãi. “Từng có vài cậu con trai, một nhóm bạn. Họ nghĩ họ đã có một ý tưởng hay khi đi vào khách sạn và giết lũ quái vật sống trong đó. Họ mang theo súng, cả dao nữa, tất cả những món vũ khí đó đều được một cha xứ ban phép thánh. Họ không bao giờ trở ra được nữa. Dì của tôi, sau đó dì đã tìm thấy quần áo của họ, ở trước ngôi nhà.”

“Nhà dì anh?” Jace nói.

“Sí. Một trong những cậu con trai đó là anh trai tôi,” Raphael đều đều nói. “Và giờ cậu đã hiểu vì sao thi thoảng tôi đi qua đây giữa đêm khuya, trên đường trở về từ nhà dì tôi, và vì sao tôi muốn cảnh cáo cho các cậu. Nếu các cậu bước vào trong đó, các cậu sẽ không bao giờ trở ra được nữa.”

“Bạn tôi ở trong đó,” Clary nói. “Chúng tôi đến cứu cậu ấy.”

“À,” Raphael nói, “vậy có lẽ tôi không thể bảo các cậu đi được rồi.”

“Không.” Jace nói. “Nhưng đừng lo. Chuyện xảy ra với các bạn anh sẽ không xảy ra với chúng tôi.” Anh rút một trong mấy thanh thiên đao khỏi thắt lưng và giơ lên, ánh sáng mờ nhạt tỏa ra từ nó phản chiếu vào những hõm má, làm mắt anh đen lại. “Tôi đã từng giết rất nhiều ma cà rồng. Trái tim chúng không đạp, nhưng chúng vẫn có thể chết.”

Raphael thở mạnh và nói gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha, quá nhỏ và nhanh nên Clary không hiểu. Gã tiến tới chỗ họ, suýt vấp phải những bao nhựa nhăn nhúm khi rảo chân. “Tôi biết các cậu là gì – tôi đã nghe về loại người các cậu, từ một linh mục già ở nhà thờ St. Cecilia. Tôi cứ tưởng đó chỉ là một câu chuyện.”

“Tất cả những câu chuyện đều là thật,” Clary nói, nhưng quá khẽ khiến gã dường như không nghe thấy. Gã ta đang nhìn Jace, tay nắm chặt.

“Tôi muốn đi cùng cậu,” gã nói.

Jace lắc đầu. “Không. Nhất định không.”

“Tôi có thể chỉ cho cậu cách vào,” Raphael nói.

Jace xao động, rõ ràng là bị quyến rũ. “Chúng tôi không thể mang anh theo.”

“Được thôi.” Raphael hiên ngang bước qua mặt Jace và đá một đống rác vào tường. Nơi đấy có tấm lưới kim loại, những đoạn song sắt mỏng bị phủ lớp gỉ màu đỏ nâu. Gã quỳ xuống, nắm lấy những song sắt, và nâng tấm lưới sắt lên. “Đó là cách em tôi và bạn bè chui vào. Tôi nghĩ nó dẫn xuống tầng hầm.” Gã ngước nhìn trong khi Jace và Clary đến đứng cạnh. Clary nửa như nín thở; mùi rác rưởi quá nồng, và kể cả trong bóng tối cô vẫn thấy những bóng lũ gián lao nhanh qua những chồng rác.

Một nụ cười hờ xuất hiện, chỉ nơi khóe miệng Jace. Anh vẫn nắm thanh thiên đao trên tay. Ngọn đèn phù thủy tỏa ánh sáng ma mị lên khuôn mặt anh, khiến cô nhớ lại lúc Simon chĩa đèn pin từ dưới cằm chiếu lên khi kể cho cô nghe những câu chuyện kinh dị khi họ mới mười một tuổi. “Cám ơn,” anh nói với Raphael. “Thế này là ổn rồi.”

Khuôn mặt gã trai kia trắng bệch. “Cậu đi vào đó và hãy làm cho bạn cậu những điều tôi không thể làm cho anh tôi.”

Jace nhét thanh thiên đao vào thắt lưng và liếc nhìn Clary. “Đi theo anh,” anh nói và chui qua lưới sắt chỉ bằng một chuyển động duyên dáng, chân cho vào trước. Cô nín thở, đợi một tiếng hét đau đớn hay ngạc nhiên, nhưng chỉ có tiếng chân rơi thịch nhẹ xuống nền đất cứng. “Ổn rồi,” anh hét vọng lên, giọng nghe nghèn nghẹt. “Nhảy xuống và anh sẽ đón em.”

Cô nhìn Raphael. “Cám ơn anh đã giúp bọn tôi.”

Gã không nói gì, chỉ giơ tay ra. Cô nắm lấy tay gã để giữ thăng bằng trong khi xoay người vào vị trí. Những ngón tay gã lạnh băng. Gã buông tay cô ra khi cô thả mình qua tấm lưới. Cú rơi chỉ kéo dài một giây rồi Jace đón cô, chiếc váy túm tụm quanh đùi cô và tay anh lướt qua đôi chân trần của cô khi cô trượt vào vòng tay anh. Anh gần như thả cô ngay lập tức. “Em ổn không?”

Cô kéo váy xuống, mừng vì anh không nhìn thấy cô trông bóng tối. “Ổn.”

Jace lôi thanh thiên đao tỏa ánh sáng mờ mờ ra khỏi thắt lưng rồi giơ lên cao, để cho ánh sáng mỗi lúc một mạnh hơn tỏa lên mọi thứ xung quanh. Họ đang đứng trong một không gian tù túng, trần thấp, nền nhà bằng bê tông đã rạn nứt. Những đống đất cho thấy nơi sàn nhà bị vỡ, và Clary có thể lấy những thân cây leo đen đúa đã bắt đầu xoắn tít lên những bức tường. Một lối vào cửa, thiếu hẳn cánh cửa, dẫn vào một căn phòng khác.

Một tiếng thịch lớn khiến Clary nhảy dựng, cô quay lại nhìn thấy Raphael rơi xuống, đầu gối gập lại, chỉ cách cô vài bước chân. Gã đã đi theo họ qua lối lưới sắt. Gã đứng thẳng dậy và cười có phần quá kích động.

Jace có vẻ bừng bừng tức giận. “Tôi đã bảo anh...”

“Và tôi cũng nghe rồi.” Raphael phẩy tay ra chiều chẳng quan tâm. “Vậy cậu định làm gì nào? Tôi không thể quay ra bằng đường chúng ta chui vào, và cậu không thể bỏ tôi lại đây để lũ người chết tới tìm... đúng không?”

“Tôi đang nghĩ tới chuyện đó đây,” Jace nói. Anh trông mệt mỏi, Clary thấy mà hơi ngạc nhiên, những quầng thâm trên mắt anh trông rõ rệt hơn.

Raphael chỉ trỏ. “Chúng ta phải đi lối đó, tới cầu thang. Bọn chúng ở trên những tầng cao hơn của khách sạn. Cậu sẽ thấy thôi.” Gã chen qua Jace mà đi qua lối cửa hẹp. Jace nhìn gã ta, lắc đầu.

“Anh bắt đầu thực sự ghét người thường rồi đấy,” anh nói.

Tầng dưới của khách sạn là một khu vực ngóc ngách những hành lang như mê cung mở ra những kho hàng trống hoác, khu giặt giũ bị bỏ không – từng chồng khăn tắm vải lanh giờ đã mọc rêu mốc chất cao trong những cái rổ gỗ liễu gai đã mủn – thậm chí nhà bếp cũng vắng lặng đến lạnh người, từng hàng quầy bếp bằng thép không gỉ trải dài khuất vào bóng tối. Hầu hết các cầu thang dẫn lên tầng trên đã biến mất, không phải bị mục mà cố tình bị chặt đi, chất thành những đống củi đun dựng bên tường, những mảnh thảm Ba Tư từng một thời xa xỉ vắt ngang qua như những đóa hoa rêu mốc.

Clary lấy làm khó hiểu về vụ cầu thang bị chặt đứt. Ma cà rồng có thành kiến gì với cầu thang sao? Cuối cùng cả ba cũng tìm thấy một cầu thang chưa bị hỏng hóc gì, khuất sau phòng giặt là. Chắc hẳn trước đây những người giúp việc thường đi lại trên đó để đưa khăn lên xuống vào hồi chưa có cầu thang máy. Giờ thì bụi phủ dày trên các bậc thang, giống như một lớp tuyết xám mịn khiến Clary ho hắng.

“Suỵt,” Raphael rít lên. “chúng có thể nghe thấy tiếng em đấy. Chúng ta đang ở gần với chỗ chúng ngủ.”

“Sao anh biết?” cô thì thầm hỏi lại. Gã này thậm chí đáng ra không nên ở đây. Điều gì cho gã cái quyền răn dạy cô về vụ ồn ào gây tiếng động chứ?

“Tôi cảm nhận được.” Khóe mắt gã giần giật, và cô biết Raphael đang sợ y như mình. “Em thì không ư?”

Cô lắc đầu. Cô chẳng cảm thấy gì, trừ cảm giác lạnh buốt bất thường; sai cái nóng oi ả khó chịu của ngoài trời đêm, thì cái lạnh bên trong khách sạn thật buốt cóng.

Ở đầu cầu thang là một cánh cửa có sơn chữ “Sảnh” hầu như chẳng nhận ra nổi sau nhiều năm tích tụ bụi. Cách cửa rơi ra đầy gỉ sét khi Jace đẩy mở ra. Clary chuẩn bị tinh thần...

Nhưng căn phòng sau cánh cửa trống toang. Họ đang ở trong một sảnh ngoài rộng lớn, lớp thảm mục bị lột ngược lên để lộ ra lớp ván sàn gỗ vụn bên dưới. Giữa căn phòng này từng ngự trị chiếc cầu thang lớn sang trọng, cong cong một cách duyên dáng, hàng lan can mạ vàng và trên đó trải loại thảm đắt tiền màu vàng và đỏ sậm. Giờ tất cả những gì còn lại là những bậc cầu thang cao hơn, dẫn vào bóng tối. Phần cầu thang còn lại kết thúc ngay trên đầu họ, lửng lơ giữa không trung. Khung cảnh trông như hư ảo như một trong những bức tranh trừu tượng của họa sĩ Magritte mà mẹ Jocelyn yêu thích. Clary nghĩ, bức họa này nên mang tên Cầu thang dẫn tới hư vô.

Giọng cô nghe khô khốc như lớp bụi đã phủ lên mọi thứ. “Ma cà rồng có thành kiến gì với cầu thang vậy?”

“Không,” Jace nói. “Chỉ là chúng không cần dùng tới nó.”

“Đây là cách để tỏ ra rằng nơi này thuộc về chúng.” Đôi mắt Raphael bừng sáng. Gã dường như đang phấn khích. Jace liếc nhìn gã ta.

“Raphael, anh đã thực sự gặp một ma cà rồng nào chưa?” anh hỏi.

Raphael hờ hững nhìn anh. “Tôi biết trông chúng thế nào. Chúng xanh xao, gầy gò hơn con người, nhưng rất khỏe. Chúng di chuyển như mèo và nhảy lên uyển chuyển như rắn. Chúng đẹp và dễ sợ. Giống như khách sạn này.”

“Anh nghĩ nơi đây đẹp sao?” Clary ngạc nhiên hỏi.

“Em nên thấy nơi này nhiều năm trước. Khách sạn này giống như một bà lão từng một thời mang sắc đẹp khuynh nước khuynh thành, nhưng thời gian đã cướp đi nhan sắc của bà ta. Em phải tưởng tượng ra cầu thang này như nó từng thế, với những ngọn đèn khí đốt thắp sáng suốt các bậc thang, giống như những con đom đóm cháy sáng trong đêm, còn trên ban công đầy ắp người. Không phải như bây giờ, thật...” Gã dừng lại, tìm một từ phù hợp.

“Cụt hả?” Jace cộc lốc gợi ý.

Raphael hơi giật mình, như thể Jace vừ lôi gã khỏi giấc mộng. Gã hơi run rẩy cười rồi quay mặt đi.

Clary quay sang Jace. “Vậy chúng ở đâu? Lũ ma cà rồng ấy?”

“Có lẽ là tầng trên. Chúng thích ngủ trên cao, giống lũ dơi vậy. Mà giờ cũng gần bình minh rồi.”

Giống như những con rối đầu gắn vào dây, cả Clary lẫn Raphael đều đồng loạt ngước lên. Chẳng có gì trên đó ngoài trần nhà được trang trí bức bích họa, giờ đã rạn nứt và đen lại đôi chỗ như từng trải qua hỏa hoạn. Khung cửa vòm bên tay trái dẫn vào xa hơn trong bóng tối; những cột trụ ở hai bên được trang trí hoa văn hình hoa lá. Khi Raphael liếc xuống, một vết sẹo nơi cổ chân gã, rất trắng đối lập với làn da nâu, sáng lên như một con mắt đang hấp háy. Cô tò mò sao gã lại mang vết sẹo này.

“Tôi nghĩ chúng ta nên trở lại cầu thang của người hầu,” cô thì thào. “Ở đây tôi thấy dễ bị tấn công quá.”

Jace gật đầu. “Em tưởng, một khi chúng ta lên tới đó, em sẽ gọi tên Simon và mong cậu ấy nghe thấy em à?”

Cô tự hỏi không biết nỗi sợ hãi mình cảm nhận có hiện rõ trên gương mặt không. “Tôi...”

Lời nói của cô bị cắt ngang bởi một tiếng hét thảm thiết. Clary quay phắt lại.

Raphael. Gã đã biến mất, không chút dấu chân nào trên lớp bụi cho thấy gã đã đi – hay bị kéo đi – theo hướng nào. Theo phản xạ, cô đưa tay tìm Jace, nhưng anh đã di chuyển, xông qua khung cửa hình vòm ở bức tường xa xa và bước vào bóng tối. Cô không nhìn ra anh nhưng vẫn đi theo ánh sáng ngọn đèn phù thủy đang phóng vùn vụt do anh mang theo, như người lữ khách được dẫn đường qua đầm lầy bởi những ngọn lửa ma trơi xảo quyệt.

Bên kia cánh cửa vòm là nơi từng là phòng khiêu vũ hoành tráng. Sàn nhà lát cẩm thạch trắng giờ đã vỡ vụn, nom giống một biển băng trôi. Những ban công uốn lượn chạy dọc tường, lan can phủ đầy gỉ sét. Những tấm gương viền vàng treo cách quãng, phía trên mỗi tấm đều có gắn đầu tượng thần tình yêu được mạ vàng. Mạng nhện giăng đầy trong không gian lạnh lẽo và ẩm ướt, nom như mạng che mặt mà những cô dâu thời xa xưa thường mang trong lễ cưới.

Rachael đang đứng giữa phòng, tay buông xuôi. Clary chạy tới chỗ gã, Jace đi chậm hơn ở phía sau. “Anh ổn không?” cô hụt hơi hỏi.

Gã từ từ gật đầu. “Tôi nghĩ tôi thấy chút dịch chuyển trong bóng tối. Nhưng chẳng có gì cả.”

“Chúng tôi quyết định trở về cầu thang của người hầu,” Jace nói. “Ở tầng này chẳng có gì hết.”

Raphael gật đầu. “Ý kiến hay.”

Gã hướng ra cửa, không thèm nhìn xem họ có theo sau không. Gã mới chỉ đi được vài bước thì Jace gọi, “Raphael này?”

Raphael quay lại, đôi mắt mở to dò hỏi, và Jace phi dao.

Phản xạ của Raphael rất nhanh, nhưng chưa đủ. Con dao trúng đích, lực tác động làm gã ngã ngửa ra. Hai chân gã hất tung lên khi gã ngã rầm xuống sàn nhà cẩm thạch nứt nẻ. Dưới ánh sáng ngọn đèn yếu ớt của ngọn đèn phù thủy, máu của gã trông đen đen.

“Jace,” Clary rít lên không tin vào mắt mình, choáng váng rần rật khắp người. Jace có nói anh ghét người thường, nhưng anh chưa bao giờ...

Khi cô định tiến tới bên Raphael, Jace thô bạo đẩy cô sang bên. Anh lao vào gã trai kia vồ lấy con dao nhô lên từ ngực Raphael.

Nhưng Raphael còn nhanh hơn. Hắn nắm lấy con dao, rồi hét lên khi chạm tay vào cán dao hình thập tự. Con dao văng lanh canh trên sàn, lưỡi vấy máu đen. Một tay Jace nắm lấy áo Raphael, tay kia cầm chắc lưỡi dao Sanvi. Con dao đang sáng rực rỡ lan tỏa, cho phép Clary thấy rõ màu sắc: sắc xanh hoàng gia của giấy dán tường đã tróc ra từng mảng, những đốm vàng trên nền cẩm thạch, sắc đỏ của vết máu đang loang dần trên ngực Raphael.

Nhưng Raphael đang cười. “Mày hụt rồi,” hắn nói, lần đầu tiên nhoẻn cười, nhe những chiếc răng cửa trắng ởn sắc nhọn. “Mày đâm hụt tim tao.”

Jace nắm chặt hơn. “Mày di chuyển vào phút cuối,” anh nói. “Khinh suất quá.”

Raphael nhíu mày rồi nhổ toẹt, đỏ lòm. Clary lùi lại, kinh hoàng quan sát.

“Mày đoán ra từ khi nào?” hắn hỏi. Âm thanh của hắn không còn rõ nữa, từ ngữ hắn dùng rành mạch chính xác hơn.

“Chắc lúc ở trong con hẻm,” Jace nói. “Nhưng tao tưởng là mày muốn lừa chúng tao vào khách sạn, rồi bán đứng bọn tao. Một khi bọn tao đã thâm nhập bất hợp pháp, thì bọn tao đã vượt khỏi tầm bảo vệ của Giao Ước. Công bằng thôi. Khi mày không làm vậy, tao lại tưởng mình lầm. Sau đó tao thấy vết sẹo trên cổ họng mày.” Anh hơi nhích ra xa một chút, tay vẫn kề dao vào cổ Raphael. “Khi lần đầu tiên nhìn thấy sợi dây chuyền đó tao cứ nghĩ nó là dạng dây chuyền treo thánh giá. Mà mày đã đeo, đúng không, khi mày ra ngoài gặp gia đình mày ấy? Vết sẹo bỏng nho nhỏ ấy là gì chứ khi giống loài chúng mày lành rất nhanh cơ mà?”

Raphael cười lớn. “Chỉ vậy thôi? Vì một vết sẹo?”

“Khi mày rời khỏi sảnh ngoài, chân mày không để lại lấy một dấu chân trên lớp bụi. Thế là tao biết.”

“Không phải là em trai anh bước vào đây để tìm quỷ và không bao giờ trở ra, đúng không?” Clary nhận ra. “Đó là anh.”

“Cả hai đều rất thông minh,” Raphael nói. “Dù chưa thông minh lắm. Nhìn lên đi,” hắn nói chỉ tay lên trần nhà.

Jace gạt cánh tay xuống mà không hề rời mắt khỏi Raphael. “Clary. Em thấy gì?”

Cô từ từ ngẩng đầu, nỗi sợ hãi cuộn lại trong dạ dày.

Em có thể thấy nơi này nhiều năm trước. Giống như một bà lão từng có một thời là mỹ nhân, nhưng thời gian đã cướp đi son sắc của bà ta. Em phải tưởng tượng ra cầu thang này như nó từng thế, với những ngọn đèn khí đốt thắp sáng khắp cầu thang, giống như những con đom đóm trong đêm, và ban công đầy ắp người. Và giờ trên những ban công đầy ắp người thật, từng hàng từng hàng ma cà rồng mặt trắng nhợt chết chóc, cái miệng đỏ lòm mở lớn, hoang mang nhìn chằm chằm xuống dưới.

Jace vẫn đang nhìn Raphael. “Mày đã cho gọi chúng. Đúng không?”

Raphael vẫn cười nhăn nhở. Máu đã ngừng loang ra từ vết thương trên ngực. “Quan trọng gì đâu? Có quá nhiều ma cà rồng, kể cả đối với mày đấy, Wayland ạ.”

Jace không nói gì. Dù anh không nhúc nhích, nhưng anh thở từng hơi nhanh và ngắn, và Clary gần như có thể cảm nhận được cường độ ham muốn của anh được giết chết gã ma cà rồng này, được cắm phập dao vào ngực hắn mà xóa sạch nụ cười nham nhở kia khỏi mặt hắn vĩnh viễn. “Jace,” cô cảnh báo. “Đừng giết hắn.”

“Sao lại không?”

“Chúng ta có thể dùng hắn làm con tin.”

Mắt Jace mở lớn. “Con tin ư?”

Cô thấy chúng, càng lúc càng nhiều hơn, tràn ra lối cửa hình vòm, di chuyển im lặng như những Tu Huynh của Thành phố Xương Trắng. Nhưng những Tu Huynh không mang nước da trắng bệch không hề có chút màu sắc, hay hàm răng sắc nhọn như đầu kim...

Clary liếm đôi môi khô. “Tôi biết tôi đang làm gì. Kéo hắn đứng dậy đi, Jace.”

Jace nhìn cô, đoạn nhún vai. “Được rồi.”

Raphael gắt, “Trò này chẳng vui đâu.”

“Thế nên chẳng ai cười cả.” Jace đứng dậy, kéo theo Raphael, trong khi vẫn dứ dứ mũi dao lên xương vai Raphael. “Tao thừa sức đâm trúng tim mày từ đằng sau,” anh nói. “Nếu là mày thì tao sẽ không nhúc nhích.”

Clary quay lưng lại hai người họ để đối diện với những bóng đen đang tiến đến. Cô vung một tay ra. “Đứng ngay tại đó,” cô nói. “Nếu không anh ấy sẽ thọc dao xuyên tim Raphael.”

Những tiếng rì rào lan khắp đám đông nghe có thể là tiếng thì thào hay cười cợt. “Dừng ngay,” Clary nói, và lần này Jace làm gì đó, cô không thấy là gì, khiến Raphael rống lên vì cơn đau đột ngột.

Một trong những ma cà rồng giơ tay để cản đám đồng loại. Clary nhận ra hắn chính là gã thiếu niên gầy gò tóc vàng, đeo khuyên tai mà cô từng gặp trong bữa tiệc của Magnus. “Cô gái nói thật đấy,” thằng nhãi nói. “Họ là Thợ Săn Bóng Tối.”

Một ma cà rồng khác chen qua đám đông, đến đứng bên cạnh gã thiếu niên – một cô gái châu Á tóc xanh da trời xinh đẹp mặc bộ đầm bằng giấy kẽm. Clary tự hỏi liệu có ma cà rồng nào xấu xí không nhỉ, hoặc có lẽ nào beo béo í. Có lẽ chúng không biến người xấu xí thành ma cà rồng. Hoặc có lẽ người xấu xí không muốn sống mãi. “Thợ Săn Bóng Tối đã thâm nhập vào lãnh thổ của chúng ta,” ả nói. “Chúng không được Hiệp Định bảo vệ nữa. Tôi nói chúng ta sẽ giết chúng – chúng đã giết quá nhiều ma cà rồng chúng ta rồi.”

“Ai là thủ lãnh nơi này?” Jace nói, giọng vẫn cực kỳ bình tĩnh. “Bảo hắn bước tới.”

Cô gái nhe hàm răng nhọn. “Đừng sử dụng ngôn ngữ Clave với chúng tao, Thợ Săn Bóng Tối kia. Mi đã phá vỡ cái Giao Ước quý báu của mình khi chui vào đây rồi. Luật không còn bảo vệ mi nữa.”

“Đủ rồi, Lily,” cậu nhóc tóc vàng quát. “Thủ lãnh của chúng tôi không ở đây. Cô ấy đang ở Idris.”

“Phải có ai đó thay thế nắm quyền chỉ huy,” Jace nhận định.

Im lặng. Những ma cà rồng ở trên ban công đang treo mình qua lan can, nhoài người để nghe cho rõ. Cuối cùng thì, “Raphael là thủ lĩnh,” cậu ma cà rồng tóc vàng nói.

Cô gái tóc xanh, Lily rít lên không đồng tình. “Jacob...”

“Tôi đề nghị trao đổi,” Clary vội nói, ngắt ngang tràng đả kích của Lily và lời bắt bẻ của Jacob. “Giờ hẳn các người phải biết các người đã mang theo rất nhiều người lạ lùng về cùng trong bữa tiệc tối nay. Một trong số đó là Simon bạn tôi.”

Jacob nhướn mày. “Cô đánh bạn với ma cà rồng à?”

“Cậu ấy không phải ma cà rồng. Và cũng chẳng phải Thợ Săn Bóng Tối,” cô nói thêm, khi nhìn thấy đôi mắt tái nhách của Lily nheo lại. “Chỉ là một cậu con trai bình thường thôi.”

“Chúng tôi không mang theo bất cứ một cậu con trai nào trở về cùng từ bữa tiệc của Magnus cả. Làm thế sẽ vi phạm Giao ước.”

“Cậu ấy đã bị biến thành chuột. Một con chuột nâu bé,” Clary nói. “Chắc có người đã nghĩ cậu ấy là thú nuôi, hoặc...”

Giọng cô lạc đi. Họ đang nhìn cô như thể cô bị điên. Nỗi tuyệt vọng lạnh lẽo len lỏi vào tận xương tủy cô.

“Để tao nói thẳng nhé,” Lily nói. “Mi đang yêu cầu trao đổi mạng sống của Raphael lấy một con chuột?”

Clary đưa ánh mắt cầu cứu nhìn Jace. Anh nhìn cô ý nói, Đây là ý tưởng của em mà. Em tự xử đi.

“Đúng,” cô nói, quay về phía những ma cà rồng. “Chúng tôi đang yêu cầu như vậy đấy.”

Chúng nhìn cô, những khuôn mặt trắng bệch gần như không có chút cảm xúc. Trong một hoàn cảnh khác có lẽ Clary sẽ nghĩ là họ đang bối rối.

Cô có thể cảm thấy Jace đang đứng đằng sau, nghe được tiếng thở sột soạt của anh. Cô tự hỏi liệu anh có đang vắt óc cố nghĩ cho ra vì sao anh lại để cô lôi cả hai tới đây không. Cô tự hỏi liệu anh có bắt đầu ghét cô không.

“Ý cô là con chuột này?”

Clary chớp mắt. Một ma cà rồng khác, dáng người gầy gò, da đen, tóc cuốn lọn dài đang rẽ đường đi lên trước. Hắn ta cầm gì đó trong tay, cái gì đó màu nâu đang kêu chít chít yếu ớt. “Simon?” cô thì thào.

Con chuột ré lên và bắt đầu điên cuồng quẫy đạp trong lòng bàn tay cậu con trai kia. Hắn nhìn xuống con chuột bị bắt với vẻ chán ghét. “Ôi trời, tôi cứ nghĩ đó là Zeke. Tôi cứ suy nghĩ mãi vì sao tên này lại mang thái độ như thế chứ.” Hắn lắc đầu, những lọn tóc cuốn nảy lên. “Mọi người này, tôi thấy cô ta có thể lấy nó đi. Nó đã cắn tôi những năm lần rồi đấy.”

Clary chìa tay về phía Simon, hai tay đau đáu chỉ muốn ôm lấy bạn. Nhưng Lily đã bước lên ngáng đường trước khi cô kịp bước thêm bước nào về phía gã ma cà rồng kia. “Khoan,” Lily nói. “Làm sao chúng tôi biết cô không cướp con chuột và giết Raphael chứ?”

“Chúng tôi đã hứa là giữ lời,” Clary nói ngay lập tức, rồi căng thẳng, đợi bọn họ phá lên cười.

Không ai cười. Raphael khẽ chửi thề bằng tiếng Tây Ban Nha. Lily tò mò nhìn Jace.

“Clary,” anh nói. Trong giọng anh ngấm ngầm chứa đựng một nỗi tuyệt vọng bực bõ. “Có thực sự là...”

“Không thề thốt thì cũng chẳng trao đổi gì hết,” Lily nói ngay, thừa cơ hội chộp ngay giọng điệu thiếu dứt khoát của anh. “Elliott, giữ lấy con chuột đó.”

Elliott nắm chặt chuột Simon, con chuột đang điên cuồng cắm ngập răng vào tay cậu con trai tóc xoắn lọn đó. “Trời ơi,” cậu ta than. “Đau lắm đấy.”

Clary nắm lấy cơ hội để thì thầm với Jace. “Thề thôi mà! Thì có làm sao đâu chứ?”

“Đối với bọn anh, lời thề không giống như của người thường,” anh bực bội quát lại. “Anh sẽ bị ràng buộc vĩnh viễn với bất cứ lời thề nào anh nói ra.”

“Ồ, vậy sao? Chuyện gì xảy ra nếu anh phá bỏ lời thề nào?”

“Anh sẽ không phá, đấy mới là vấn đề...”

“Lily nói đúng,” Jacob lên tiếng. “Chúng tôi cần một lời thề. Thề rằng các người không làm hại Raphael đi. Kể cả khi chúng tôi trả con chuột lại.”

“Tôi sẽ không làm hại Raphael,” Clary nói ngay lập tức. “Dù có bất cứ chuyện gì.”

Lily cười nhân ái với cô. “Chúng tôi không lo về cô.” Cô ta nhìn thẳng về phía Jace, người đang giữ chặt Raphael tới mức những mấu tay trắng bệch. Một mảng mồ hôi làm vải áo anh sẫm màu lại, ngay giữa hai xương bả vai.

Anh nói, “Thôi được. Tôi thề vậy đấy.”

“Nói lên Lời Thề kia,” Lily khôn khéo. “Thề dưới Thiên Thần. Nói đầy đủ.”

Jace lắc đầu. “Các người thề trước đi.”

Lời nói của anh rơi vào vòng thinh lặng như những viên đá, tạo ra đợt sóng thì thầm lan tỏa khắp đám đông. Jacob trông lo lắng; Lily thì tức giận. “Mơ đi, Thợ Săn Bóng Tối.”

“Chúng tôi có thủ lãnh của các người trong tay.” Mũi dao của Jace đâm sâu hơn vào cổ họng Raphael. “Còn các người có gì nào? Một con chuột.”

Simon, đang bị Elliott giữ chắc, rít lên một cách giận dữ. Clary muốn giật lấy bạn, nhưng cố kiềm chế. “Jace...”

Lily nhìn về phía Raphael. “Chủ nhân?”

Raphael cúi đầu, những lọn tóc xoăn đen rơi xuống, che khuất khuôn mặt. Máu thấm ướt cổ áo gã, nhỏ giọt xuống làn da nâu trần bên dưới. “Một con chuột khá quan trọng,” gã nói, “để cho hai tên bọn bây phải tới tận nơi này để tìm nó. Vì thế tao nghĩ, mày đấy, Thợ Săn Bóng Tối, mày phải thề trước.”

Nắm tay Jace dữ dội tóm chặt hơn lấy hắn ta. Clary nhìn thấy cơ bắp bên dưới da anh gồng cứng, những ngón tay anh và khóe miệng anh trắng bệch khi anh phải cố kìm cơn nóng giận. “Con chuột đó là một người thường,” anh đanh giọng. “Nếu mày giết nó, mày sẽ bị Luật trừng trị...”

“Nó đang ở trong lãnh địa của bọn tao. Mày thừa biết, những kẻ đột nhập trái phép sẽ không được Giao Ước bảo vệ...”

“Các người mang cậu ấy tới đây cơ mà,” Clary ngắt lời. “Cậu ấy không đột ngập.”

“Về lý thuyết là thế,” Raphael bảo, cười nham nhở với cô dù con dao vẫn đang kề cổ. “Hơn nữa. Chúng mày nghĩ bọn tao không nghe thấy những tin đồn, những tin tức đang lan trong Thế Giới Ngầm, giống như máu chảy trong huyết quản ư? Valentine đã trở lại. Sẽ chóng thôi rồi sẽ chẳng còn Hòa Ước hay Hiệp Định gì hết.”

Jace ngẩng phắt đầu. “Mày nghe tin đó ở đâu?”

Raphael nhíu mày khinh bỉ. “Tất cả Thế Giới Ngầm đều biết. Hắn trả tiền cho một pháp sư để triệu hồi một nhóm Ravener vào tuần trước. Hắn phái đội quân Kẻ Lầm Đường đi tìm Cốc Thánh. Khi hắn tìm ra nó, thì sẽ chẳng còn chút hòa bình giả tạo nào giữa chúng ta nữa đâu, chỉ còn chiến tranh mà thôi. Không Luật nào có thể ngăn được tao xé xác tim mày ra ngay trên đường, Thợ Săn Bóng Tối ạ...”

Thế là quá đủ cho Clary. Cô lao tới chỗ Simon, huých vai đẩy Lily sang bên, giật lấy con chuột khỏi tay Elliott. Simon vội vàng nhảy lên tay cô, bám lấy tay áo Clary bằng những móng vuốt cuống cuồng.

“Ổn rồi,” cô thì thào, “ổn rồi.” Dù cô biết chuyện không hề ổn. Cô quay người bỏ chạy, và cảm nhận những bàn tay đang nắm lấy áo khoác cô, giữ cô lại. Cô vùng vẫy, nhưng nỗ lực để thoát khỏi những bàn tay đang giữ cô – tay của Lily, xương xẩu gầy gò với những cái móng tay sơn đen – bị ngăn cản phần nào vì sợ mất Simon, lúc này đang bám chặt lấy chiếc váy cô đang mặc bằng móng và răng. “Thả ra!” cô hét, đá ả ma cà rồng. Mũi bốt của cô đá trúng, thật mạnh, khiến Lily hét lên trong đau đớn và giận dữ. Ả ta phóng tay tới, đánh vào má Clary bằng lực đủ khiến cô gẫy cổ.

Clary loạng choạng suýt ngã. Cô nghe Jace hét gọi tên, quay ra thấy anh đã thả Raphael và đang chạy tới bên cô. Clary cố tới bên anh, nhưng hai vai đang bị Jacob giữ rịt, những móng tay hắn cắm vào da thịt cô.

Clary hét lên – nhưng âm thanh đó lạc mất giữa tiếng hét lớn hơn, khi Jace rút một trong những bình thủy tinh trong áo khoác, vung thứ nước trong đấy về phía cô. Cô cảm thấy nước mát chảy trên mặt cô, nghe tiếng Jacob thét lên khi mướn chạm phải da hắn. Khói bốc lên từ những ngón tay và hắn thả Clary, rú lên tiếng rú xé tai như động vật. Lily lao tới, hét gọi tên hắn, và giữa lúc hỗn loạn ấy, Clary cảm nhận có ai đang nắm cổ tay cô. Cô vật vã cố giằng tay lại.

“Dừng ngay – đồ ngốc này – anh đây,” Jace thở hổn hển vào tai cô.

“Ối!” Cô nhẹ người được một chút, rồi lại căng thẳng, khi nhìn cái bóng quen thuộc đứng sừng sững đằng sau Jace. Cô hét lên và Jace cúi xuống quay lại khi Raphael nhảy lên người anh, răng nhe ra, nhanh như mèo. Răng nanh hắn cắn phải áo của Jace vùng gần vai xé dọc áo anh trong khi anh loạng choạng suýt ngã. Raphael tiếp tục đeo bám như một con nhện lì lợm, răng táp tới cổ họng Jace. Clary quơ cào lục túi tìm con dao Jace đã đưa cho cô...

Cái bóng màu nâu nhỏ thó phóng qua sàn nhà, lao đến giữa hai chân Clary, phóng về phía Raphael.

Raphael hét lên. Simon treo mình thắt leo trên cánh tay hắn, những chiếc răng chuột sắc nhọn cắm ngập vào da thịt. Raphael thả Jace ra, ngã lùi lại, máu phun thành dòng khi một tràng tiếng Tây Ban Nha tục tĩu ào ra từ miệng hắn.

Jace thở dốc, miệng mở lớn. “Thằng chó đ...”

Lấy lại thăng bằng, Raphael giật con chuột khỏi tay và ném nó xuống nền đá cẩm thạch. Simon rít lên một tiếng trong đau đớn, rồi hớt hải chạy về phía Clary. Cô cúi xuống chộp cậu lên, ôm chặt hết sức trước ngực mà không làm bạn đau. Cô có thể cảm nhận được nhịp tim đập dồn dập từ trái tim nhỏ xíu qua đầu ngón tay mình. “Simon,” cô thì thào. “Simon...”

“Không còn thì giờ cho trò ấy đâu. Giữ chặt lấy cậu ta.” Jace đã nắm lấy tay phải cô, chặt tới phát đau. Tay kia anh đang cầm thanh thiên đao tỏa sáng. “Đi.”

Anh nửa kéo nửa đẩy cô đi ra ngoài rìa đám đông. Đám ma cà rồng nhăn mặt tránh xa ánh sáng từ thanh thiên đao khi ánh sáng quét qua bọn chúng, tất cả đều rít lên như những con mèo bị bỏng.

“Đứng đực ra vậy là đủ rồi!” Là Raphael. Tay hắn đang chảy máu, môi cong lên lộ ra những chiếc răng cửa nhọn hoắt. Hắn trừng mắt nhìn đám đông ma cà rồng lúc nhúc đang bối rối. “Giữ bọn đột nhập lại,” hắn hét lên. “Giết cả hai – cả con chuột nữa!”

Đám ma cà rồng bắt đầu lao về phía Jace và Clary, vài kẻ bước đi, một vài kẻ đang lướt trên sàn, những kẻ khác nhảy xuống từ ban công bên trên như những con dơi đen đúa đang vỗ cánh. Jace tăng tốc độ khi họ tránh xa được đám đông, nhắm về bức tường phía xa. Clary lúng túng, muốn quay lại để nhìn anh. “Chẳng phải chúng ta nên đấu lưng vào nhau hay gì đó sao?”

“Hả? Tại sao chứ?”

“Đâu biết đâu. Trong phim, đó là điều họ sẽ làm trong kiểu... hoàn cảnh này.”

Cô thấy anh đang run lên. Anh đang sợ ư? Không, anh đang cười. “Em,” anh thở hổn hển. “Em là cái người...”

“Người làm sao?” cô phẫn nộ. Họ vẫn đang lùi dần, cẩn thận bước tránh những mảnh vỡ của đồ nội thất hay đá cẩm thạch vụn rải rác trên nền nhà. Jace giơ thanh thiên đao lên cao quá đầu. Cô có thể thấy cách những ma cà rồng đang lượn vòng quanh rìa vòng ánh sáng tỏa ra từ thiên đao. Cô tự hỏi ánh sáng đó giúp họ đẩy lùi lũ ma cà rồng trong bao lâu nữa.

“Chẳng sao cả,” anh nói. “Đây không phải một hoàn cảnh, được chứ? Anh để giành từ đó khi sự việc thực sự tệ kia.”

“Thực sự tệ? Đây chưa thực sự tệ sao? Anh muốn gì nào, một quả bom nguyên tử...”

Cô ngừng nói mà hét lên khi Lily, chẳng sợ gì ánh sáng, lao mình vào Jace, răng nhe ra trong tiếng gầm gừ. Jace nắm lấy con dao thứ hai từ thắt lưng và phóng xuyên qua không trung; Lily ngã ngược lại hét toáng, một vết thương dài kêu xì xì trên tay. Khi ả ta lảo đảo, những ma cà rồng khác ùa đến quanh ả. Nhiều ma cà rồng, Clary nghĩ bụng, quá nhiều...

Cô lần sờ thắt lưng, những ngón tay nắm lấy chuôi dao. Con dao có cảm giác lạnh lẽo lạ lẫm trên tay cô. Cô không biết cách dùng dao. Cô chưa bao giờ đánh ai, chứ đừng nói là đâm. Cô thậm chí còn trốn học thể dục vào cái ngày lớp học cách tự vệ trước bọn trấn lột và hiếp dâm bằng những vật dụng thông thường như chìa khóa xe hay bút chì. Cô rút con dao ra, tay run rẩy giơ lên...

Những ô cửa sổ bùng nổ vào trong tạo thành một cơn mưa miểng kính. Cô nghe tiếng mình hét lên, nhìn thấy những con ma cà rồng – chỉ còn cách cô và Jace độ một cánh tay – kinh ngạc quay phắt lại, vẻ choáng váng lẫn kinh hoàng hiện lên trên mặt. Qua những cửa sổ vỡ nát kia là hàng tá những thân hình thon dài, đi trên bốn chân và ép mình thấp xuống đất, những bộ lông của chúng tỏa ra ánh sáng trăng cùng những mảnh kính vỡ. Đôi mắt chúng mang màu lửa xanh, và từ cổ họng chúng đồng thanh phát ra tiếng gầm gừ trầm khàn nghe giống tiếng thác đổ ùng ục.

Những con sói.

“Giờ cái này,” Jace nói, “mới là hoàn cảnh này.”