Vợ Người Du Hành Thời Gian

Vợ Người Du Hành Thời Gian - Chương 12: Cuộc sống tốt đẹp hơn nhờ hóa chất




Chủ Nhật, 5/9/1993 (Clare 22 tuổi, Henry 30 tuổi)



CLARE: Henry đang nghiên cứu cuốn Lời khuyên của bác sĩ sờn rách của anh ấy. Không phải một dấu hiệu tốt.



“Em đã không biết anh là tên nghiện thuốc.”



“Anh không nghiện thuốc. Anh nghiện rượu.”



“Anh không có.”



“Dĩ nhiên là có.”



Tôi đang nằm trên tràng kỉ, vắt chân qua đùi Henry. Anh ấy đặt cuốn sách lên cẳng chân tôi rồi tiếp tục giở.



“Anh không uống nhiều đến thế.”



“Đã từng. Nhưng anh hạn chế bớt kể từ khi anh suýt giết chính mình. Hơn nữa bố anh là một tấm gương buồn.”



“Anh đang tìm gì thế?”



“Thứ gì đó anh có thể dùng trong đám cưới. Anh không muốn bỏ em đứng một mình giữa lễ đường trước 400 người.”



“Phải rồi. Ý kiến không tồi.” Tôi cân nhắc viễn cảnh này rồi nhún vai. “Hãy cùng nhau bỏ trốn.”



Anh ấy nhìn vào mắt tôi. “Đồng ý. Anh ủng hộ cả hai tay.”



“Bố mẹ sẽ từ em mất.”



“Dĩ nhiên là không.”



“Anh chưa để ý sao? Đây là một vở kịch Broadway quan trọng. Chúng ta chỉ là cái cớ để bố em vung tay thiết đãi và gây ấn tượng với các luật sư đồng nghiệp của ông. Nếu chúng ta bỏ trốn, bố mẹ em sẽ phải thuê diễn viên đóng giả chúng ta.”



“Vậy thì hãy đến Tòa thị chính Thành phố kết hôn trước đó. Như vậy nếu có gì xảy ra, ít nhất chúng ta cũng đã kết hôn.”



“Ồ, nhưng… em sẽ không thích thế. Như vậy là lừa dối.. em sẽ cảm thấy kì cục. Làm vậy sau lễ cưới thì sao? Nếu lễ cưới thật có trục trặc.”



“Được rồi. Kế hoạch dự phòng.” Anh ấy chìa tay ra và tôi bắt lấy, lắc.



“Vậy chính xác thì anh đang làm gì?”



“Trường hợp tuyệt nhất, anh muốn thuốc an thần có tên Risperdal, nhưng nó sẽ không được đưa ra thị trường cho đến năm 1994. Thứ tốt nhất tiếp theo đó là Clozaril, và có lẽ lựa chọn thứ ba là Haldol.”



“Nghe như thuốc ho công nghệ cao.”



“Chúng là thuốc chống rối loạn thần kinh.”



“Thật sao?”



“Phải.”



“Nhưng anh đâu bị tâm thần.”



Henry nhìn tôi và làm mặt nhăn nhó rồi cào cào vào không khí như một con ma sói. Rồi anh ấy nói, khá nghiêm nghị, “Trên EEG, anh có não bộ của một người bị tâm thần phân liệt. Đã có nhiều hơn một bác sĩ khăng khăng rằng ảo giác du hành thời gian của anh là do chứng tâm thần phân liệt. Những lọai thuốc này ngăn chặn thụ quan chất dopamine.”



“Hiệu ứng phụ?”



“Rối loại trường lực cơ, đứng ngồi không yên, giả chứng Parkinson. Có nghĩa là, co cơ không kiểm soát, bồn chồn, lắc lư, đi tới đi lui, mất ngủ, cứng đơ, thiếu biểu cảm khuôn mặt. Rồi cả rối loạn vận động muộn, mất kiểm soát cơ mặt mãn tính, và mất bạch cầu, mất khả năng sinh sản bạch cầu. Còn mất cả khả năng tình dục.”



“Anh không thực sự định uống những loại thuốc này đấy chứ?”



“Anh đã từng uống Haldol và Thorazine.”



“Và…”



“Rất khủng khiếp. Anh đã như một xác sống. Như thể não anh chứa đầy keo Elmer’s siêu dính.”



“Không có gì khác thay thế sao?”



“Valium. Librium. Xanax.”



“Mẹ em cũng uống những loại đó. Xanax và Valium.”



“Phải rồi, nghe cũng hợp lí.” Anh ấy nhăn mặt rồi đặt cuốn Lời khuyên của bác sĩ sang một bên và nói, “Nhích qua nào.” Chúng tôi ngọ nguậy trên tràng kỉ cho đến khi nằm sánh vai nhau. Rất ấm cúng.



“Đừng uống gì cả.”



“Tại sao không?”



“Anh không có bệnh.”



Henry cười to. “Đó là điểm anh yêu ở em: thiếu hụt khả năng nhìn nhận tất cả những khuyết điểm gớm ghiếc của anh.” Anh ấy gỡ cúc áo của tôi và tôi đặt tay lên tay anh ấy. Anh ấy nhìn tôi, chờ đợi. Tôi hơi giận.



“Em không hiểu sao anh nói chuyện kiểu đó. Anh luôn nói những điều tội tệ về bản thân mình. Anh không giống như vậy. Anh là người tốt.”



Henry nhìn vào tay tôi và gỡ tay anh ấy ra, kéo tôi lại gần hơn. “Anh không phải người tốt”, anh ấy khẽ nói vào tai tôi. “Nhưng có thể anh sẽ?”



“Anh liệu hồn mà làm vậy.”



“Anh tốt đối với em.” Đúng vậy. “Clare?”



“Vâng?”



“Em có bao giờ nằm thao thức và tự hỏi liệu anh có phải trò đùa mà Thượng Đế đang ném cho em?”



“Không. Em nằm thao thức lo rằng anh sẽ biến mất và không bao giờ quay lại. Em nằm thao thức suy tư về những điều em mập mờ biết về tương lại. Nhưng em hoàn toàn có niềm tin rằng chúng ta được định để thuộc về nhau.”



“Niềm tin kiên định.”



“Anh không tin sao?”



Henry hôn tôi. “Không có Thời gian nào, không có Nơi chốn nào, không có Sự ngẫu nhiên hay Tử thần nào có thể khiến niềm khát khao bé nhỏ nhất của ta phải chịu lìa xa.”



“Gì cơ? Anh nhắc lại đi.”



“Anh không phiền nếu phải làm vậy.”



“Đồ khoác lác.”



“Giờ thì ai đang nói những điều xấu xa về anh nào?”



Thứ Hai, 6/9/1993 (Henry 30 tuổi)



HENRY: Tôi đang ngồi bên hiên ngôi nhà dơ dáy lợp nhôm trắng hai bên ở công viên Humboldt. Đang khoảng 10 giờ sáng thứ Hai. Tôi đang đợi Ben về. Tôi không thích khu vực này lắm; tôi cảm thấy lồ lộ khi ngồi trước cửa nhà Ben, nhưng cậu ấy là một người cực kì đúng hẹn, nên tôi yên tâm đợi tiếp. Tôi ngắm hai phụ nữ gốc Tây Ban Nha đẩy xe nôi đi dọc vỉa hè nhấp nhô và thoai thoải dốc. Trong lúc đang suy ngẫm về sự bất bình đẳng trong dịch vụ công trong thành phố, tôi nghe có người gọi lớn, “Nhóc thủ thư!” từ xa. Tôi nhìn theo tiếng hướng gọi và dĩ nhiên rồi, đó là Gomez. Tôi thầm rên rỉ. Gomez có biệt tài là luôn đụng mặt tôi, mỗi khi tôi chuẩn bị làm việc gì đó xấu xa. Tôi phải cắt đuôi cậu ấy trước khi Ben xuất hiện.



Gomez lững thững đi lại phía tôi, hớn hở. Cậu ấy đang mặc bộ cánh luật sư của mình, tay xách cặp. Tôi thở dài.



“Khỏe chứ, chiến hữu.”



“Khỏe. Cậu đang làm gì ở đây?”



Câu hỏi hay. “Đợi bạn. Mấy giờ rồi?”





“10 giờ 15. Mùng 6 tháng 9, năm 1993”, cậu ấy nói thêm.



“Tớ biết ngày tháng, Gomez. Dù sao cũng cảm ơn. Cậu đi gặp khách hàng hả?”



“Phải. Một cô bé 10 tuổi. Bạn trai của mẹ con bé bắt nó uống Drano. Tớ bắt đầu mệt với con người rồi đấy.”



“Phải. Quá nhiều kẻ khùng điên, không đủ Michelangelos.”



“Cậu ăn trưa chưa? Ăn sáng thì đúng hơn nhỉ?”



“Rồi. Tớ phải ở đây, đợi bạn.”



“Tớ không biết cậu có bạn sống trong khu vực này đấy. Tất cả những người tớ biết quanh đây đều cần sự hỗ trợ về pháp luật một cách ghê gớm.”



“Một người bạn ở trường đại học.” Và cậu ấy đây rồi. Ben đang tiến lại gần trong chiếc Mercedes ’62 màu bạc của cậu ấy. Bên trong xe đã hư hỏng nặng nhưng nhìn từ ngoài, đó là một chiếc xe bắt mắt. Gomez khẽ huýt sáo.



“Xin lỗi, tớ đến muộn”, Ben nói, bước tới vội vã. Gomez nhìn tôi tọc mạch. Tôi lờ cậu ấy đi. Ben nhìn Gomez, rồi nhìn tôi.



“Gomez, đây là Ben. Ben, đây là Gomez. Rất xin lỗi, nhưng cậu phải đi chỗ khác giùm, chiến hữu.”



“Thực ra tớ có vài tiếng rảnh rang…”



Ben giải quyết tình huống hộ tôi. “Gomez. Rất vui được gặp anh. Nhưng khi khác nói chuyện, nhé?” Ben bị cận nặng, và cậu ấy nhìn Gomez thân thiện sau cặp kính dày đang khuếch đại kích cỡ đôi mắt của cậu ấy lên gấp hai lần. Ben xóc xủng xoảng chùm chìa khóa trong tay. Nó khiến tôi lo lắng. Cả hai chúng tôi đứng im lặng, chờ cho Gomez bỏ đi. “Được rồi. Thì, tạm biệt”, Gomez nói.



“Lát nữa tớ sẽ gọi cho cậu”, tôi nói với Gomez. Cậu ấy bỏ đi mà không thèm nhìn tôi. Tôi cảm thấy áy náy, nhưng có những điều tôi không muốn cho Gomez biết, và đây là một trong số đó. Ben và tôi nhìn nhau, chia sẻ một cái nhìn thấu đáo rằng chúng tôi biết những điều khó xử của nhau. Cậu ấy mở cửa trước. Tôi luôn ngứa ngáy muốn đột nhập vào nhà Ben,vì cậu ấy có số lượng khổng lồ và phong phú các ổ khóa và thiết bị an toàn. Chúng tôi bước vào hành lang tối. Trong này có mùi cải bắp, mặc dù tôi biết Ben chẳng bao giờ nấu bất kì món ăn gì. Chúng tôi đi đến cầu thang sau nhà, đi lên và tới một hành lang khác, qua phòng ngủ và đi vào một phòng khác nữa, nơi Ben đặt phòng thí nghiệm. Cậu ấy đặt túi xuống và treo áo khoác. Tôi nửa trông đợi cậu ấy sẽ đi giày tennis vào, hệt như Ngài Rogers, nhưng thay vào đó cậu ấy chỉ lăng xăng bên chiếc máy pha cà phê của mình. Tôi ngồi xuống cái ghế gấp và đợi Ben xong việc



Ben giống một thủ thư hơn tất cả những người tôi biết. Và thực tế tôi đã gặp cậu ấy ở Rosary, nhưng cậu ấy bỏ học trước khi tốt nghiệp. Cậu ấy gầy hơn một chút so với lần trước tôi gặp, và tóc cũng rụng bớt. Ben bị AIDS, và mỗi lần gặp cậu ấy, tôi đều cẩn thận, vì tôi sẽ chẳng thể đoán được chuyện gì sẽ xảy ra, khi ở bên cậu ấy.



“Trông cậu rất ổn”, tôi bảo cậu ấy.



“Nhờ những liều thuốc AZT mạnh. Và vitamin, yoga. Nhân tiện, tớ có thể giúp gì cho cậu đây?”



“Tớ sắp kết hôn.”



Ben ngạc nhiên, rồi vui mừng. “Chúc mừng cậu. Với ai vậy?”



“Clare. Cậu đã gặp cô ấy rồi đấy. Cô gái có mái tóc đỏ dài.”



“Ồ, phải.” Ben nghiêm túc, “cô ấy có biết?”




“Có.”



“Thế thì tốt.” Cậu ấy ném cho tôi cái nhìn tỏ ý tất cả những chuyện này rất đáng mừng, “Nhưng thì sao?”



“Bố mẹ cô ấy đã lên kế hoạch cho một đám cưới hoành tráng ở Michigan. Nhà thờ, phù dâu, gạo, suốt cả chín thước. Và bữa tiệc hậu hĩ ở Yacht Club, sau hôn lễ. Cà vạt trắng, không ngoại lệ.”



Ben rót cà phê và đưa cho tôi cái cốc Winnie the Pooh. Tôi khuấy kem. Trên này rất lạnh, và cà phê đắng nhưng khá ngon.



“Tớ cần phải có mặt ở đó. Tớ cần phải vượt qua tám tiếng căng thẳng muốn nổ óc, mà không được biến mất.”



“À.” Ben có kiểu tiếp nhận vấn đề mà tôi thấy rất dễ chịu, chỉ đơn giản chấp nhận nó.



“Tớ cần thứ gì đó sẽ knock-out mọi cơ quan thụ cảm dopamine mà tớ có.”



“Navane, Haldol, Thorazine, Serntil, Mellaril, Stelazine…” Ben lau kính vào vạt áo len. Trông cậu ấy như một con chuột trọc lóc khổng lồ khi không có chúng.



“Tớ hi vọng cậu có thể làm thứ này cho tớ.” Tôi lục túi quần jeans lấy ra một mẩu giấy. Ben nheo mắt, đọc.



“3-[2-[4-96-fluoro-1,2-benizisoxazol-3-yl)… collodidal sillicon dioxide, hydroxypropyl methylcellulose… propylene glycol-” Cậu ấy ngước lên nhìn tôi, hoang mang. “Cái gì đây?”



“Đó là một loại thuốc an thần mới có tên risperidone, được đưa ra thị trường dưới nhãn Risperdal. Nó sẽ được chính thức bán vào năm 1998, nhưng tớ muốn thử nó bây giờ.”



“Cậu lấy công thức này từ đâu?”



“PDR. Số năm 2000.”



“Ai viết nó?”



“Janssen.”



“Henry, cậu biết cậu không thích ứng tốt với thuốc an thần. Trừ phi loại này hoạt động theo một phương thức khác?”



“Họ cũng không biết làm thế nào nó có hiệu quả. ‘Các monoamine chọn lọc đối kháng với serotonon loại 2, dopamine loại 2,…’”



“Chẳng có gì mới. Điều gì khiến cậu nghĩ thứ này sẽ tốt hơn Haldol?”



Tôi cười nhẫn nại. “Chỉ đoán dựa trên thông tin có được thôi. Tớ không biết chắc. Cậu có thể làm nó chứ?”



Ben lưỡng lự. “Được.”



“Khi nào? Cần một thời gian để ngấm thuốc?”



“Tớ sẽ báo sau. Đám cưới diễn ra khi nào?”



“23 tháng Mười.”



“Liều dùng thế nào?”



“Bắt đầu với 1 milligram rồi tăng dần.”



Ben đứng dậy, duỗi tay chân. Trong ánh sáng mờ ảo của căn phòng lạnh lẽo này, trông cậu ấy có vẻ già cỗi và vàng vọt. Một phần Ben thích những thử thách (này, hãy sáng chế ra loại thuốc mà chưa ai nghĩ đến cả) và cả một phần cậu ấy không thích sự mạo hiểm. “Henry, cậu còn không biết chắc liệu dopamine có phải nguyên nhân hay không”.



“Cậu đã nhìn thấy bản scan rồi đấy.”



“Ừ, ừ. Tại sao không chấp nhận nó? Điều trị có thể còn tệ hơn bản thân vấn đề.”



“Ben. Sẽ thế nào nếu tớ búng ngón tay”, tôi đứng dậy, tiến đến gần Ben, và búng tay, “Và ngay lập tức cậu thấy mình đang đứng trong phòng ngủ của Allen, vào năm 1986…”



“… Tớ sẽ giết chết thằng khốn nạn đó.”



“Nhưng cậu không thể, vì cậu đã không làm vậy.” Ben nhắm mắt, lắc đầu. “Và cậu không thể thay đổi điều gì: hắn ta vẫn sẽ mắc bệnh, và cậu sẽ mắc bệnh. Sẽ thế nào nếu cậu phải nhìn hắn ta chết hết lần này đến lần khác?” Ben ngồi yên trên chiếc ghế gập. Cậu ấy không nhìn vào tôi. “Nó như vậy đấy Ben. Phải, đôi khi nó thú vị. Nhưng hầu hết, chỉ toàn là đi lạc, trộm cắp và chỉ cố gắng để…”



“Vượt qua.” Ben thở dài. “Chúa ạ, tớ không biết tại sao tớ vẫn dính vào cậu.”



“Sự kì thú? Vẻ ngoài đẹp trai thư sinh của tớ?”



“Mơ đi. Mà này, tớ có được mời đến đám cưới không đây?”



Tôi giật mình. Tôi chưa bao giờ nghĩ Ben sẽ muốn đến. “Dĩ nhiên rồi! Mà thật chứ? Cậu muốn đến dự?”



“Cũng đỡ hơn đi dự đám tang.”



“Tuyệt. Lượng khách của tớ đang tăng nhanh chóng. Cậu sẽ là khách thứ tám của tớ.”



Ben cười. “Mời tất cả các cô bạn gái cũ của cậu ấy. Như vậy sẽ tăng vùn vụt cho coi.”



“Tớ sẽ không sống sót nổi mất. Hầu hết bọn họ đều muốn chặt đầu tớ đem đi diễu hành.”



“Phải rồi.” Ben đứng dậy và lục lọi một trong những ngăn bàn của cậu ấy. Cậu ấy lôi ra một hộp thuốc trống và mở ngăn kéo khác lấy ra một hộp lớn đầy thuốc, đổ ra ba viên và cho vào hộp nhỏ. Cậu ấy ném nó cho tôi.




“Cái gì đây?” Tôi hỏi, mở hộp ra và đổ một viên vào lòng bàn tay.



“Thuốc cân bằng hoóc-môn kết hợp với thuốc chống suy nhược. Nó… này, đừng…” Tôi đã nhét một viên vào miệng và nuốt chửng. “Nó chủ yếu chứa moóc-phin.” Ben thở dài. “Cậu sẽ trở nên cực kì kiêu căng ngạo mạn do tác dụng của thuốc.”



“Tớ thích thuốc phiện.”



“Còn lạ gì. Đừng nghĩ tớ sẽ đưa cho cậu một mớ thuốc loại đó. Báo cho tớ biết nếu cậu nghĩ nó có thể dùng được trong đám cưới. Phòng khi lọai thuốc mới này không khả dĩ. Chúng có tác dụng trong bốn giờ đồng hồ, nên cậu sẽ cần hai viên.” Ben hất đầu về phía hai viên thuốc còn lại. “Đừng tọng chúng chỉ vì muốn phê, rõ chưa?”



“Tuân lệnh.”



Ben cười khụt khịt. Tôi trả tiền thuốc cho cậu ấy rồi ra về. Trong lúc bước xuống cầu thang tôi cảm thấy cơn mê lâng lâng chồm lấy tôi và dừng lại dưới chân cầu thang để tận hưởng nó. Đã khá lâu rồi. Bất kể thứ gì Ben pha trong viên thuốc, nó thật tuyệt vời. Nó tuyệt gấp mười lần sự cực khoái cộng cả cô-ca-in, và có vẻ như nó đang tăng mạnh hơn nữa. Lúc bước ra khỏi cửa chính, tôi gần như đổ ầm lên người Gomez. Cậu ấy đã đứng đợi tôi nãy giờ.



“Cần đi nhờ không?”



“Được thôi.” Tôi cực kì cảm động vì sự quan tâm của cậu ấy. Hoặc sự tò mò. Hoặc gì cũng được. Chúng tôi bước về phía xe của Gomez, chiếc Chevy Nova với hai cái đèn pha nát bét. Tôi trèo lên ghế khách. Gomez ngồi vào và đóng mạnh cửa. Cậu ấy dỗ dành chiếc xe bé nhỏ khởi động rồi chúng tôi lên đường.



Thành phố xám xịt và dơ dáy, trời đang bắt đầu mưa. Những giọt mưa nặng nề đập vào cửa kính chắn gió, những căn nhà nứt nẻ và những lô đất trống trôi qua mặt chúng tôi, Gomez bật đài lên và họ đang chơi Charles Mingus, âm thanh nghe có vẻ chậm rãi đối với tôi, nhưng có sao chứ? Đây là một đất nước tự do. Đại lộ Ashland đầy những ổ gà, đến long cả óc, còn những chuyện khác thì ồn, rất ồn là đằng khác, đầu tôi lâng lâng đầy nước, như thủy ngân lỏng tràn ra từ chiếc nhiệt kế vỡ, và đó là tất cả những gì tôi có thể làm để giữ cho mình khỏi rên lên vì sung sướng trong lúc viên thuốc đang tủa ra trên mọi tế bào thần kinh trong tôi bằng những cái miệng hóa chất bé nhỏ của chúng. Chúng tôi đi qua khu bói bài, Burger King, Pizza Hut, và những ca từ của I am a Passenger đang chạy trong đầu tôi, thế chỗ cho Mingus. Gomez nói gì đó mà tôi không thể nghe, rồi cậu ấy nhắc lại.



“Henry!”



“Hả?”



“Cậu đang phê gì đấy?”



“Tớ không chắc nữa. Đại loại là một thí nghiệm khoa học.”



“Tại sao?”



“Một câu hỏi xuất sắc. Tớ sẽ trả lời cậu sau”



Chúng tôi không nói thêm gì cho đến khi chiếc xe dừng lại trước cửa căn hộ của Clare và Charisse. Tôi nhìn Gomez, thắc mắc.



“Cậu cần người để mắt tới”, Gomez nhẹ nhàng nói với tôi. Tôi không phản đối. Gomez dẫn đường cho cả hai chúng tôi tiến vào cửa trước, rồi đi lên tầng. Clare mở cửa và khi cô ấy nhìn thấy tôi, cô ấy có vẻ tức giận, nhẹ nhõm, và thích thú, cùng một lúc.



CLARE: Tôi đã thuyết phục được Henry lên giường tôi ngủ; Gomez và tôi đang ngồi trong phòng khách uống trà, ăn bơ lạc và sandwich mứt kiwi.



“Học nấu ăn đi, bà cô”, Gomez ậm ừ. Anh ấy nói như Charleton Heston đang ban ra Mười Điều Răn.



“Sẽ có ngày.” Tôi khuấy đường trong cốc trà, “Cảm ơn anh đã đưa anh ấy về.”



“Bất cứ điều gì vì em, mèo con ạ.” Anh ấy bắt đầu quấn thuốc. Gomez là người duy nhất tôi biết hút thuốc trong bữa ăn. Tôi kiềm chế không nhận xét gì. Anh ấy châm thuốc. Anh ấy nhìn tôi, và tôi dựng thẳng người dậy. “Rốt cuộc chuyện này là sao hả? Hầu hết những người đến gặp Dược sĩ Tình thương đều là nạn nhân AIDS hoặc bị ung thư.”



“Anh biết Ben?” Tôi không hiểu tại sao tôi ngạc nhiên. Gomez biết tất cả mọi người trên đời.



“Anh biết về Ben. Mẹ anh thường đến chỗ Ben khi bà phải trải qua hóa chất điều trị.”



“Ồ.” Tôi cân nhắc tình huống, tìm lời giải thích an toàn nhất.



“Bất kể thứ gì Ben đưa cho Henry, nó đã khiến cậu ấy đờ đẫn.”



“Bọn em đang tìm thứ gì đó có thể giúp Henry trụ lại với hiện tại.”



“Cậu ấy đã chứng tỏ mình quá lơ ngơ để có thể sử dụng chúng mỗi ngày.”



“Đúng vậy.” Có lẽ dùng liều nhẹ hơn?



“Tại sao em muốn làm chuyện này?”



“Làm gì?”



“Xúi giục và tiếp tay cho Quý Ông Lộn Xộn làm điều xằng bậy. Kết hôn cùng cậu ấy.”



Henry gọi tên tôi. Tôi đứng dậy. Gomez nhoài người chụp lấy tay tôi.



“Clare. Làm ơn…”



“Gomez, bỏ em ra.” Tôi lườm anh ấy. Sau một hồi dài khủng khiếp anh ấy cụp mắt xuống và để tôi đi. Tôi bước vội qua hành lang, đi vào phòng và đóng cửa.



Henry đang duỗi dài như một con mèo, nằm vắt ngang qua giường, mặt úp xuống. Tôi cởi giầy rồi nằm xuống cùng anh ấy.



“Anh cảm thấy thế nào?” Tôi hỏi anh ấy.



Henry lăn người lại rồi mỉm cười. “Như thiên đàng.” Anh ấy vuốt má tôi. “Muốn tham gia với anh không?” Không.



Henry thở dài. “Em thật ngoan ngoãn quá đi. Đáng lẽ anh không nên thử dụ dỗ em.”



“Em không ngoan ngoãn. Chỉ sợ thôi.” Chúng tôi nằm cùng nhau trong yên lặng. Mặt trời đã ló ra khỏi những đám mây đen, và nó soi cho tôi thấy căn phòng của mình trong buổi sáng muộn: đường cong của khung giường gỗ óc chó, tấm thảm Phương Đông vàng và tím, lược, son môi, và kem dưỡng tay trên bàn. Cuốn Nền nghệ thuật Mỹ với Leon Golub ở bìa sách nằm trên mặt chiếc ghế bành cũ. Henry đang đi tất đen. Đôi bàn chân dài xương xẩu của anh ấy thò ra khỏi giường. Anh ấy có vẻ gầy đi. Mắt Henry nhắm nghiền; có lẽ anh ấy có thể cảm nhận được tôi đang nhìn anh ấy chằm chằm, vì anh ấy vừa mở mắt ra và mỉm cười. Tóc anh ấy xõa xuống mặt và tôi vuốt nó ngược trở lại. Henry túm lấy tay tôi và hôn vào lòng bàn tay. Tôi cởi khóa quần jeans của anh ấy, thò tay vào thằng nhỏ, nhưng Henry lắc đầu và túm lấy tay tôi giữ lại.



“Xin lỗi, Clare”, anh ấy nói khẽ. “Có thứ gì đó trong thuốc khiến nó ngủ rồi. Để sau nhé?”




“Đêm tân hôn của chúng ta sẽ vui lắm đây.”



Henry lắc đầu. “Anh không thể uống thứ này trong lễ cưới. Nó quá phê. Ben là thiên tài, nhưng cậu ấy quen làm việc với người mắc bệnh nan y rồi. Bất kể thứ cậu ấy cho vào thuốc là gì, nó có công dụng như một trải nghiệm gần cái chết.” Anh ấy thở dài và đặt lọ thuốc lên chiếc bàn ở đầu giường. “Có lẽ anh nên gửi thứ này cho Ingrid. Đây là loại thuốc hoàn hảo cho cô ấy.” Tôi nghe cửa trước mở ra rồi đóng lại; “Gomez đã về.”



“Anh muốn ăn gì không?” tôi hỏi.



“Không, cảm ơn em.”



“Ben sẽ chế tạo loại thuốc kia cho anh chứ?”



“Cậu ấy sẽ thử”, Henry nói.



“Sẽ ra sao nếu không được?”



“Ý em là nếu Ben không thành công?”



“Vâng.”



Henry nói, “Bất kể điều gì xảy ra, cả hai chúng ta đều biết rằng anh sẽ sống ít nhất đến khi 43 tuổi. Nên em đừng lo lắng.”



Bốn mươi ba? “Chuyện gì xảy ra sau khi anh bốn mươi ba?”



“Anh không biết, Clare. Có thể anh sẽ tìm được cách để ở lại với thực tại.” Anh ấy kéo tôi lại và chúng tôi im lặng. Khi tôi tỉnh giấc, trời đã tối và Henry đang ngủ bên cạnh tôi. Lọ thuốc nhỏ sáng đỏ dưới ánh đèn LED của chiếc đồng hồ báo thức. Bốn mươi ba?



Thứ Hai, 27/9/1993 (Clare 22 tuổi, Henry 30 tuổi)



CLARE: Tôi bước vào căn hộ của Henry và bật điện. Chúng tôi sẽ đi xem opera tối nay; vở Bóng ma Versailles. Nhà hát Lyric sẽ không cho người đến muộn vào, nên tôi đang hối hả và lúc đầu tôi không nhận ra không có điện nghĩa là Henry không có ở đây. Rồi tôi nhận ra điều đó và khó chịu vì Henry sẽ khiến chúng tôi đến muộn. Tôi tự hỏi có phải anh ấy đã biến mất. Rồi tôi nghe có tiếng thở.



Tôi đứng yên bất động. Tiếng thở phát ra từ nhà bếp, tôi chạy vào bếp bật điện, Henry đang nằm trên sàn nhà, quần áo đầy đủ, trong tư thế cứng đơ kì quái, nhìn chằm chằm về phía trước. Anh ấy kêu lên một tiếng ồm ồm. không như tiếng của con người, một tiếng rên rỉ trong cổ họng, luồn ra ngoài qua hai hàm răng nghiến chặt.



“Ôi Chúa ơi, Chúa ơi.” Tôi gọi 911. Nhân viên trực nói với tôi rằng họ sẽ có mặt chỉ sau vài phút. Trong lúc ngồi trên sàn nhà bếp mắt không rời khỏi Henry, tôi cảm thấy một làn sóng giận dữ trào lên và tôi tìm cuốn sổ địa chỉ của Henry trong ngăn bàn rồi bấm số.



“Xin chào?” Giọng nói nhỏ và xa xôi cất lên.



“Có phải Ben Matteson đấy không?”



“Phải rồi. Ai đấy?”



“Clare Abshire. Nghe này, Henry đang nằm cứng đơ trên sàn nhà và không thể thốt lên nửa lời. Có chuyện quái quỷ gì đấy?”




“Sao cơ? Chết tiệt! Gọi 911 đi!”



“Tôi đã gọi rồi…”



“Thuốc được mô phỏng thuốc đặc trị Parkinson, cậu ấy cần dopamine. Nói với nhân viên cứu thương như vậy… chết tiệt, hãy gọi cho tôi khi đến bệnh viện…”



“Họ đến đây rồi…”



“Được rồi! Hãy gọi cho tôi…” Tôi cúp máy và đối mặt với nhân viên cứu thương.



Sau khi xe cứu thương đưa chúng tôi đến bệnh viện Mercy, sau khi Henry đã được nhập viện, tiêm, lắp ống thở và đang nằm trên giường bệnh, nối với một chiếc máy, thư thái và đang ngủ, tôi nhìn lên và thấy một người đàn ông cao, gầy hốc hác đứng trước cửa phòng của Henry, tôi sực nhớ mình đã quên không gọi cho Ben. Anh ấy bước vào, đứng đối diện với tôi, phía bên kia giường bệnh. Căn phòng tối om và ánh sáng từ hành lang đổ bóng lên Ben trong lúc anh ấy cúi đầu, nói, “Tôi rất xin lỗi. Rất xin lỗi.”



Tôi với tay qua giường, cầm lấy tay anh ấy. “Không sao đâu. Anh ấy sẽ ổn thôi. Thật đấy.”



Ben lắc đầu. “Đây hoàn toàn là lỗi của tôi. Tôi không nên pha chế nó cho cậu ấy.”



“Chuyện gì đã xảy ra?”



Ben thở dài và ngồi xuống ghế. Tôi ngồi lên giường. “Có thể do một vài nguyên nhân khác nhau”, anh ấy nói. “Có thể chỉ là hiệu ứng phụ, có thể xảy ra với bất kì ai. Nhưng cũng có thể Henry đã không uống theo đúng chỉ cẫn. Khá nhiều thứ cần phải nhớ. Và tôi đã không thể kiểm tra.”



Chúng tôi im lặng. Chiếc máy nhỏ nước truyền vào tay Henry. Hộ lí đẩy xe đi ngang qua. Cuối cùng tôi nói, “Ben?”



“Sao, Clare?”



“Giúp em một việc nhé.”



“Bất cứ điều gì.”



“Đừng giúp Henry nữa. Không đưa thuốc cho anh ấy nữa. Thuốc sẽ chẳng có tác dụng gì đâu.”



Ben cười với tôi, vẻ nhẹ nhõm. “Nói không với cậu ấy.”



“Chính xác.” Chúng tôi cùng cười. Ben ngồi với tôi thêm một lúc. Khi đứng dậy ra về, anh ấy cầm tay tôi và nói, “Cảm ơn em đã rất tử tế trong tai nạn không may này. Henry đã có thể chết.”



“Nhưng anh ấy đã không chết.”



“Phải, cậu ấy đã không chết.”



“Hẹn gặp anh ở lễ cưới.”



“Hẹn gặp lại.” Chúng tôi đang đứng trong hành lang. Trong ánh đèn huỳnh quang sáng lóa, trông Ben có vẻ mệt mỏi và ốm yếu. Anh ấy cúi đầu và quay người bước đi, còn tôi quay trở lại căn phòng mờ tối nơi Henry đang nằm ngủ.



Ngã rẽ



Thứ Sáu, 22/10/1993 (Henry 30 tuổi)



HENRY: Tôi đang đi trên phố Linden, Nam Haven, tôi được tự do khoảng một giờ đồng hồ trong lúc Clare và mẹ cô ấy lo việc ở cửa hàng hoa. Ngày mai là đám cưới, nhưng trong vai trò chú rể, tôi không có nhiều trách nhiệm phải làm. Có mặt; đó là nhiệm vụ chính trong danh sách công việc của tôi. Clare không ngừng bị kéo đi thử đồ, trao đổi, và việc dành cho cô dâu. Mỗi lần gặp, tôi đều thấy cô ấy có vẻ đăm chiêu.



Hôm nay là một ngày lạnh và trong trẻo; tôi nhởn nhơ đi lang thang. Ước gì Nam Haven có được một cửa hàng sách tử tế. Ngay cả thư viện cũng chủ yếu chỉ có Barbara Cartland và John Grisham. Tôi có mang theo bản Penguin của Kleist theo người, nhưng tôi không hứng thú để đọc nó. Tôi đi qua một cửa hàng đồ cổ, một tiệm bánh, một ngân hàng, rồi lại một tiệm đồ cổ khác. Lúc đi qua hiệu cắt tóc, tôi ngó vào trong; một ông già đang được cạo râu bởi thợ cắt tóc nhỏ nhắn linh hoạt đầu sắp hói, và ngay lập tức tôi biết mình sẽ phải làm gì.



Những cái chuông nhỏ kêu lên leng keng khi tôi bước vào tiệm. Tiệm có mùi xà bông, mùi hơi nước, mùi kem dưỡng tóc và mùi cơ thể của người già. Mọi thứ đều có màu lục nhạt. Chiếc ghế cũ, được chạm trổ bằng crôm, những cái chai bóng bẩy đặt thành hàng trên giá gỗ, và nhiều khay đựng kéo, lược cùng dao cạo. Trông như những dụng cụ phẫu thuật; rất Norman Rockwell. Anh thợ liếc nhìn tôi. “Cắt tóc?” tôi hỏi. Anh ta hất hàm về phía dãy ghế thẳng lưng đang trống, những cuốn tạp chí xếp ngăn nắp trên giá ở cuối dãy. Sinatra đang hát trên radio. Tôi ngồi xuống và lôi ra cuốn tạp chí Reader’s Digest. Anh thợ chùi bọt còn sót lại trên cằm ông lão, và phết nước hoa sau cạo lên. Ông lão thận trọng trèo ra khỏi ghế và trả tiền. “Tạm biệt, Ed”, anh thợ trả lời. Anh ta chuyển sự chú ý sang tôi. “Cắt thế nào đây?” Tôi trèo lên ghế và anh ta chỉnh cho tôi ngồi đối diện với gương. Tôi nhìn một hồi lâu vào mái tóc của mình. Tôi giữ ngón cái và ngón trỏ cách nhau chừng một inch. “Cắt hết đi.” Anh ta gật đầu và quấn một chiếc áo choàng không tay bằng nhựa quanh cổ tôi. Không lâu sau cây kéo của anh ta đã lóe lên những ánh kim loại và phát ra những tiếng leng keng quanh đầu tôi, tóc tôi rơi lã chã xuống sàn nhà. Sau khi xong việc anh ta phủi tóc bám trên cổ tôi và dỡ chiếc áo choàng, rồi voila, tôi đã trở thành tôi của tương lai.



Hãy đưa tôi đ ến nhà thờ đúng giờ



Thứ Bảy, 23/10/1993 (Henry 30 tuổi, Clare 22 tuổi)



6 giờ sáng



HENRY: Tôi thức dậy lúc 6 giờ sáng và trời đang mưa. Tôi đang nằm trong căn phòng ấm cúng nhỏ màu xanh, bên dưới những mái hiên trong khách sạn nhỏ tên Black’s ở ngay trên bãi biển phía Nam Haven. Bố mẹ Clare đã chọn nơi này; bố tôi đang ngủ trong căn phòng màu hồng cũng ấm cúng tương tự dưới nhà, bên cạnh bà Kim trong căn phòng màu vàng đáng yêu; còn ông bà tôi đang trong căn phòng lớn màu xanh. Tôi nằm trên cái giường cực kì êm ái bên dưới tấm ga giường Laura Ashley, và tôi có thể nghe thấy tiếng những cơn gió đang tự ném mình vào bốn bề khách sạn. Mưa đang ầm ầm trút xuống. Tôi tự hỏi liệu có thể chạy trong gió mù thế này không. Tôi nghe tiếng nước mưa đánh trống trên mái nhà, cách mặt tôi chỉ chưa đến một mét, rồi chảy qua máng. Căn phòng này tựa như môt căn gác xép. Nó có một chiếc bàn nhỏ trang nhã, phòng khi tôi cần viết đôi dòng ủy mị trong ngày cười của mình. Có một chiếc bình sứ và cái thau đặt trên bàn: tôi thực sự muốn dùng chúng, chắc hẳn tôi sẽ phải đập lớp băng trong nước, vì trời rất lạnh ngoài kia. Tôi cảm thấy như con sâu hồng hào bên trong căn phòng xanh ngắt này, như thể tôi đã đục khoét nó suốt quãng đường để đến được đây và tôi nên chuẩn bị để nó thành bướm. Tôi chưa thực sự tỉnh giấc, ở đây, vào lúc này. Tôi nghe có tiếng ho. Tôi nghe tiếng trái tim tôi đập từng nhịp và tiếng re ré phát ra từ thần kinh. Ôi chúa ơi, hãy để ngày hôm nay là một ngày bình thường. Hãy để tôi mụ mị bình thường, lo lắng bình thường; hãy đưa tôi đến nhà thờ đúng giờ, đúng lúc. Hãy đừng để tôi làm ai phát hoảng, đặc biệt là chính tôi. Hãy để tôi trải qua ngày cưới một cách tốt nhất có thể, mà không có tác động riêng biệt nào. Hãy tránh cho Clare khỏi những tình cảnh khó xử. Amen.



(7 giờ sáng)



CLARE: Tôi thức dậy trên giường của mình, chiếc giường của thời thơ ấu. Trong khi đang bồng bềnh chưa kịp tỉnh táo, tôi không thể nhớ nổi giờ đang là thời khắc nào; có phải Giáng sinh, hay Lễ Tạ Ơn? Có phải tôi đang trở lại thời lớp ba? Có phải tôi bị bệnh? Tại sao trời lại mưa? Bên ngoài chiếc rèm màu vàng, bầu trời đã chết và cây du to lớn đang bị gió bứt đi từng chiếc lá. Suốt đêm qua tôi đã nằm mơ. Giờ những giấc mơ đã hòa vào nhau. Trong một phần của giấc mơ tôi đang bơi giữa đại dương, tôi là một nàng tiên cá. Tôi là nàng tiên cá mới và một trong những nàng tiên cá khác đang dạy tôi, cô ấy giảng cho tôi nghe những bài học tiên cá. Tôi sợ phải thở dưới nước. Nước tràn vào phổi và tôi không thể tìm được cách thở, tôi cảm thấy vô cùng tệ hại và cứ không ngừng trồi lên khỏi mặt nước để thở, còn cô tiên cá kia cứ không ngừng nói, Không, Clare, như thế này này... cho đến khi cuối cùng tôi cũng nhận ra cô ấy có mang ở cổ, và tôi cũng có, rồi chuyện trở nên suôn sẻ hơn. Bơi cũng giống như bay lượn, mà mỗi con cá là một con chim. Có một chiếc thuyền trên mặt nước, và chúng tôi bơi lại gần để xem. Chỉ là một chiếc thuyền buồm nhỏ và mẹ tôi đang trên đó, một mình. Tôi bơi lại phía bà và bà ngạc nhiên khi thấy tôi, bà nói, Tại sao, Clare, ta tưởng hôm nay con sẽ kết hôn, và tôi đột nhiên nhận ra, theo cách mà bạn nhận ra trong những giấc mơ, rằng tôi sẽ không thể cưới Henry nếu tôi là một tiên cá, và tôi bắt đầu khóc, rồi tôi thức dậy và đang là nửa đêm. Tôi đã nằm một lát trong bóng tối và đi đến kết luận rằng tôi đã trở thành một người phụ nữ bình thường, giống như Nàng Tiên Cá, có điều tôi không phải trải qua những cơn đau ghê gớm dưới chân hay bị cắt lưỡi. Hans Christian Andersen chắc hẳn là một người kì lạ và u buồn. Rồi tôi lại chìm vào giấc ngủ và giờ tôi đang nằm trên giường, ngày hôm nay Henry và tôi sẽ kết hôn.



(7 giờ 16 phút sáng)



HENRY: Hôn lễ bắt đầu lúc 2 giờ chiều và sẽ mất chừng nửa tiếng để tôi mặc quần áo, khoảng 20 phút để chúng tôi đi đến nhà thờ Thánh Basil’s. Bây giờ là 7 giờ 16 phút sáng, có nghĩa chúng tôi có 5 tiếng 44 phút để giết thời gian. Tôi mặc quần jean và chiếc áo vải dệt cũ xấu xí vào, đi giày cao cổ và rón rén hết mức có thể xuống nhà tìm cà phê. Bố đã đến trước nhà tôi; ông đang ngồi trong phòng ăn sáng, tay ôm chiếc cốc thanh nhã nghi ngút thứ chất màu đen. Tôi rót cho mình một cốc rồi ngồi xuống đối diện ông. Dưới ánh sáng yếu ớt chiếu từ khung cửa sổ che rèm bằng ren, trông bố tôi có vẻ ma mị; ông là phiên bản màu của bộ phim trắng đen về chính ông trong buổi sáng nay. Tóc ông tủa ra bốn phía, tôi tự đông đưa tay lên vuốt tóc mình, như thể bố tôi là một cái gương. Ông cũng làm điều tương tự rồi chúng tôi mỉm cười.



CLARE: Alicia đang ngồi trên giường, thọc tôi. “Dậy đi, Clare”, con bé nói.”Mặt trời đã ra đồng. Gà đã gáy, (điêu toa) “những con ếch đang nhảy khắp nơi, và đã đến giờ thức giấc!” Alice cù lét tôi. Con bé tung chăn lên và chúng tôi vật lộn trên giường, ngay lúc tôi vừa ghìm chặt lấy nó, Etta đã thò đầu vào cửa và rít lên, “Làm gì mà ồn ào thế? Bố các cô những tưởng có cái cây nào đổ vào nhà, nhưng không, chỉ là đồ ngốc các cô tìm cách ăn tươi nuốt sống nhau. Bữa sáng đã sẵn sàng rồi đấy.” Chỉ như vậy Etta thình lình thụt đầu lại và nện từng bước nặng trịch xuống cầu thang và chúng tôi phá lên cười.



(8 giờ 32 sáng)



HERRY: Gió vẫn giật ầm ầm ngoài trời nhưng tôi vẫn chạy ra. Tôi nghiên cứu tấm bản đồ Nam Haven (“viên ngọc sáng trên bờ biển Sunset của hồ Michigan!”) mà Clare đưa cho tôi. Hôm qua tôi đã chạy dọc bãi biển, rất dễ chịu, nhưng không phải việc có thể làm trong buổi sáng hôm nay. Tôi có thể thấy những con sóng cao sáu Feet đang chồm vào bờ. Tôi ước lượng độ dài của những con phố và quyết định sẽ chạy theo vòng; nếu thời tiết quá tệ, tôi có thể giảm số vòng xuống. Tôi co duỗi chân. Mọi khớp xương kêu lên răng rắc. Tôi gần như có thể nghe thấy sự căng thẳng đang nổ lốp bốp trong các dây thần kinh của tôi như tĩnh điện trên đường dây điện thoại. Tôi mặc quần áo và tiến vào thế giới ngoài kia.



(8 giờ 54 sáng)



CLARE: Chúng tôi đang tập trung quanh bàn ăn sáng. Cái lạnh len lỏi vào trong qua từng ô cửa sổ, và tôi gần như chẳng thể thấy gì bên ngoài, trời đang mưa như trút nước. Làm sao Henry có thể chạy dưới thời tiết này?



“Một ngày hoàn hảo để tổ chức hôn lễ”, Mark giỡn.



Tôi nhún vai. “Em đâu có chọn nó.”



“Không?”



“Bố chọn.”



“Thì, ta là người phải trả tiền”, bố tôi nói hờn dỗi.



“Đúng vậy.” Tôi trệu trạo nhai bánh mì nướng.



Mẹ nhìn đĩa đồ ăn của tôi chỉ trích. “Con yêu, sao con không ăn chút thịt lợn muối xông khói? Và trứng?”



Chỉ nghĩ đến tôi đã muốn nôn. “Con không thể. Thật đấy. Kệ con đi.”



“Ít nhất cũng phết chút bơ lạc lên bánh mì nướng. Con cần protein.” Tôi trao đổi ánh mắt với Etta, bà sải bước vào trong bếp và trở lại sau vài phút với đĩa thủy tinh nhỏ đầy bơ lạc. Tôi cảm ơn bà và phết một ít lên bánh.



Tôi hỏi mẹ, “Con có chút thời gian rảnh nào trước khi Janice đến không?” Janice là người sẽ trang điểm cho mặt và tóc của tôi trông thật lố bịch.



“Cô ấy sẽ đến lúc 11 giờ. Để làm gì?”



“Con phải chạy vào thị trấn mua vài thứ.”



“Mẹ sẽ mua hộ con.” Trông bà có vẻ nhẹ nhõm trước ý nghĩ được ra khỏi nhà.



“Con muốn tự đi.”



“Chúng ta có thể đi cùng nhau.”



“Tự con đi được.” Tôi nài nỉ. Mẹ tôi thắc mắc nhưng cũng nhún nhường.



“Tùy con.”



“Tuyệt. Con sẽ quay lại ngay.” Tôi đứng dậy. Bố tôi đằng hằng.



“Con đi được chưa?”



“Dĩ nhiên rồi.”



“Cám ơn bố.” Và tôi lần đi.