Tuổi Thơ Dữ Dội

Chương 25: Phần thứ bảy (9)




12

Trong vòng chưa đầy một ngày một đêm mà cả chiến khu Hoà Mỹ, từ Tiền chiếnkhu đến Xê-ca Bảy và không chỉ riêng bộ đội, cán bộ, công nhân viên màcả nhân dân làng Hoà Mỹ, đều biết chuyện em Quỳnh-sơn-ca đội viên độiThiếu niên Trinh sát trung đoàn, tác giả bài hát “Sông Ô Lâu khángchiến” là con trai út độc nhất, là “hũ mắm treo đầu giàn”, của tên đạiViệt gian, Phó tổng trấn Trung kỳ. Và chính tay tên đại Việt gian đó đãviết thơ, cử hai chị người nhà, một già một trẻ, mang lên chiến khu, gửi tận tay Ban chỉ huy trung đoàn, cùng với nhiều thuốc men; nhiều đồ lềquý giá mua từ ngoại quốc xin cho em được trở về Huế với gia đình. Sauđó em sẽ được xuất dương sang nước Thuỵ Sĩ để chữa bệnh và học hành chođến lúc thành tài. Ban chỉ huy Trung đoàn đã cho phép em tự do lựa chọn, muốn ở thì ở, muốn về thì về. Hai chị người nhà của em hiện đang ở tạichỗ ìán của đội Thiếu niên Trinh sát với hai bị đồ đạc gánh một gánhnặng. Nếu em thuận về, họ sẽ đưa em về theo.

Chuyện của Quỳnh được sôi nổi bàn tán khắp nơi chiến khu. Mọi người thi nhau phỏng đoán, đánh cuộc với nhau.

Người bảo em sẽ về, người bảo em sẽ ở lại. Nhân đó, người ta nhắc lại chuyệnquản Hậu, quản khố đỏ cũ, là trung đoàn trưởng đầu tiên của trung đoànTrần Cao Vân. Mặt trận Huế vỡ quản Hậu đã bỏ trốn theo Tây. Rồi chuyệnông Tuân, trưởng ban quân nhu của trung đoàn, xách một túi bạc mấy chụcvạn đi vô chiến khu Hương Thuỷ, để gửi về Huế mua thuốc men cho bộ đội.Ông ta đã để túi bạc lại chiến khu đi về đồng bằng, mượn cớ tìm bắt liên lạc với cơ sở rồi nhảy tót luôn về Huế theo Tây…

Người lớn làm đến chức to như rứa còn trốn theo Tây, huống hồ đây là con nít. Chú ta xin về là cái chắc!

- Cái nước Thuỵ Sĩ mà chú ta sắp qua ở là nước mô rứa hè?

- Cái nước chuyên nghề làm đồng hồ đó. Đồng hồ Thuỵ Sĩ tốt nhất thế giới: Ô-mê-ga, Mô-va-đô, Vi-le, Pơ-ranh-ta-ni-a…

- Mấy chú liên lạc ở đội anh Thắng tui biết hết, không biết Quỳnh là chú mô?

- Cái thằng nước da trắng xanh, đi phải chống nạng mà bữa trước đi ngangqua quán, tui gọi vô cho ăn bát chè gạo, hắn cứ nắc nỏm khen hoài làngon ghê, ngon ghê đó.

- Chính thằng nớ à? Ngó hắn còn nhỏ thó, ốm o hơn cả thằng Bộ-xương-cách-trí nữa hè?

- Không biết cả vạn quốc, có nước mô nhiều bộ đội con nít như ở Xê-ca Hoà Mỹ mình không hè?

- Kháng chiến mình cũng thiệt lắm chuyện lạ? Bữa ni còn đang thèm cụcđường đen rệu cả nước miếng, áo quần rách thì láy dây chuối buộc túmbuộc tó, sốt rét thì uống nước mưa hoà ký ninh… Rứa mà chỉ cần gật đầumột cái là dã qua ngồi bên nước Thuỵ Sĩ, tay đeo đồng hồ vàng sáng giới, đi ô tô, ở nhà lầu, mặc lụa, mặc gấm, chơi đàn chơi địch… sướng hơn cảhoàng tử Bảo Long!(1)

- Rứa mà chắc chi chú ta đã chịu gật?

- Gật chớ chi mà không gật!

- Mấy ông cách mạng nòi gặp phải trường hợp ni e cũng chênh vênh nữa là…

- Cứ đợi coi mới biết, chuyện đời nhiều khi rất cắc cờ.

Từ các trạm gác tiền tiêu, trong các ụ súng bắn máy bay, trong các lántrại từ Xê-ca Một đến Xê-ca Bảy, công binh xưởng, trạm quân lương, xưởng bào chế… trong các quán hàng, hiệu “Coiffeur de luxe” của ông Đỡm, quán bán bánh sắn của mụ Tào… đến đâu cũng nghe bàn tán chuyện em Quỳnh. Năm đó là năm gian khổ trầm trọng nhất của cuộc kháng chiến chín năm ởchiến trường Bình Trị Thiên. Nhiều người bền gan quyết tử, nhưng cũngkhông ít người xao xuyến phân vân… Có người đã bước tới mấp mé ranh giới của sự ngã lòng, khiếp nhược; trong tâm tư sâu kín đã manh nha ý muốnđầu hàng, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến, mà danh từ hồi đó gọi là “dinhtê“.

Vì một sự hết sức tình cờ mà chú bé chiến sĩ mới mười ba tuổinày đã trở thành đại diện cho cả hai bên: bên bền gan và bên ngã lòng.Người ta mượn chú để công khai bộc bạch lòng mình trước giờ phút nghiêmtrọng của kháng chiến. Mỗi bên đều muốn níu kéo chú đứng về phía mình để khẳng định niềm tin hoặc để biện hộ cho sự ngã lòng khiếp nhược.

Người ta hồi hộp chờ đợi cái phút chú gặp mặt người nhà để nói lên sự quyết định lựa chọn của chú.

Bởi vậy khi thấy anh So-moóc-chê cõng Quỳnh trên lưng, cùng với bác sĩ bệnh viện trưởng và mấy chị y tá, hộ lý, từ phía Xê-ca Một đi ra Tiền chiếnkhu, nhiều người đã bỏ dở công việc đang làm, đi theo coi, đông như mộtđám rước.

Nằm nép trên tấm lưng rộng lớn lực lưỡng của anh xạ thủmoóc-chê tám mốt, Quỳnh nom càng mỏng mảnh, bé bỏng xanh xao. Nếu anh So không vòng hai cánh tay ra sau lưng ôm chặt lấy cặp giò và cái mông con nít của em, e gió thổi bay. Đoạn đường từ Xê-ca Bảy ra đến Tiền chiếnkhu khá xa, phải trèo qua nhiều dốc núi và lội qua nhiều con suối. Nằmtrên lưng anh So, Quỳnh cũng thấy thấm mệt. Em đựa mái dầu tóc tơ bù rối vào cái cổ trần bò mộng của anh, nhắm nghiền mắt, thiu thiu ngủ. Gióthổi lộng. Đi qua kết hết lớp cây rừng che khuất, cái màu nắng chóichang rực rỡ của vùng Tiền chiến khu, và tiếng người chuyện trò bàn tán, đã đánh thức em. Em ngẩng đầu lên, mắt hấp háy vì chói nắng. Em ngoảnhlại nhìn những người đi theo sau đông như đám rước. Em tủm tỉm cười vớitất cả thay cho lời chào hỏi. Cặp mắt em vốn đã to lúc này trông càng to hơn, như choán hết gương mặt hốc hác, xanh xao, mái tóc bù rối gió thổi tung và tràn ngập nắng chiến khu.

Không hiểu sao có mấy anh, mấy chị ngó vào cặp mắt em, tự nhiên ứa nước mắt:

- Coi hắn ngó mình tề, hắn cười tề… Cái mặt hắn răng mà dễ ghét…- Một chị vừa thút thít khóc vừa nói vậy.

Những người đi theo sau, đều biết em tuy là chú bé nhưng lại là một nghệ sĩ,đã viết nổi một bài hát đẹp và quyết liệt như một lời thề của tất cảnhững người bền gan sống chết với chiến khu. Ánh nhìn và nụ cười của emvừa thơ dại, bé bỏng, vừa sâu sắc thâm trầm. Qua ánh nhìn và nụ cười đó, người ta đều cảm thấy chú bé này hiểu rất rõ họ muốn gì ở em, chờ đợigì ở em…

Anh So cõng Quỳnh bước vào lán, nhẹ nhàng đặt em ngồi xuốngsạp nứa. Phút chốc cái lán rộng thênh thang đã chật ních những người. Họ chen chúc, vòng trong vòng ngoài. Đứng vây quanh sát bên em là độitrưởng Thắng, bác sĩ Thiền, và hai phụ nữ gia nhân của viên Phó Tổngtrấn Trung kỳ. Thím Ba là vú nuôi, o Hường là chị em cô cậu ruột vớiQuỳnh, sống với gia đình em từ nhỏ và cùng đi học với chị Kiều Trang của em.

Hai người phụ nữ cùng ôm chùm lấy Quỳnh và oà lên khóc.

Quagẩn một ngày một đêm ở chiến khu, họ lần đầu tiên đã được nếm ít nhiềumùi vị gian khổ của kháng chiến. Suốt đêm qua họ không ngủ. Họ thao thức cố hình dung đứa con nuôi, đứa em của họ, mà ngày ở nhà được nâng nhưnâng trứng, hứng như hứng hoa, bây giờ sinh sống ra sao, mặt mũi hìnhdạng ra sao… Nhưng họ không thể nào tưởng tượng nổi đứa con trai út độcnhất của cụ lớn Tuần Vi, giàu sang quyền thế nức tiếng của thành phốHuế, lại đến nỗi rách rưới, ốm đau, xanh xao, hôi hám như cái chú bé màhọ đang ôm riết trong vòng tay. Một nỗi thương xót ghê gớm làm cho cảhai người muốn chảy tan thành nước mắt. Trái lại, thấy vú nuôi và ngườichị ăn mặc sang trọng, thơm tho, béo tốt, cứ ôm chặt lấy mình mà khóc,Quỳnh có vẻ xấu hổ và ngượng với những người đang đứng vây quanh. Em hơi đẩy hai người ra, nói giọng như gắt:

- Tề… Vú với chị khóc chi mà khóe hoài rứa? Làm như em chết rồi không bằng…

- Ôi chao, con mà đau ốm, ăn ở cách ni rồi con cũng chết mất thôi con ơi!… Thím Ba nước mắt giọt ngắn giọt dài, rên rỉ.

- Chị với vú mà còn khóc nữa là em bỏ em vô trong tê ngay.

Quỳnh chỉ tay về phía núi.

Câu doạ của Quỳnh thế mà hiệu quả. Hai người chặm nước mắt và vội nín khóc. Từ ngày còn ở nhà hai người đã được biết cái thằng Quỳnh của họ mặt mũi hiền lành như con gái nhưng bướng bỉnh, gan liều cả nhà phải khiếp. Nóđã định làm cái gì, thích cái gì là tìm cách làm cho bằng được. Một lẩn, chị Kiều Trang ngồi thêu, bị cái kim chích vô ngón tay, đau quá, chịkhóc thút thít. Nó đang ngồi tập đàn, bỏ đàn chạy lại, nói với chị. “Cái kim chích như kiến cắn mà chị cũng khóc! ôốc dôột?“. Chị bực cãi lại:“Em có bị chích mô mà em biết. Em mà bị, em còn khóc bằng mấy chị?“. Nócầm lấy cái kim, nói: “Đã rứa, em chích cho chị coi?“. Tưởng nó nói doạ, ai ngờ nó chích thiệt. Nó đâm gần lút nửa cái kim vô bắp chân rồi rútra. Bỏ cái kim còn đỏ lòm cả máu vô hộp khâu, rồi bước cà nhắc đến bêncây đàn, thản nhiên ngồi xuống tập tiếp. Rồi cái hôm cụ Tuần xé mất cuốn vở nhạc của nó, nó lầm lì nói: “Ba làm rứa, con bỏ nhà con đi Vệ QuốcĐoàn!“. Cũng tưởng nó nói dọạ, ai ngờ nó trốn nhà nó đi thiệt, đi từngày đó cho đến nay…

Vú Ba và chị Hường kể chuyện ba mạ, chuyện nhàcho Quỳnh nghe. Hai người mở bị soạn hết đồ lề của ba mạ gửi lên cho em, để đầy trên sạp nứa. Mấy bộ áo quần ka-ki, ga-bạc- đin, phơ-la-nen, mấy cái áo len dài tay, cộc tay, cái nào ở cổ cũng có đính nhãn hiệu nướcngoài, cái mền len mỏng, thuốc uống, thuốc tiêm toàn loại thật hiếm,thật đắt tiền, rồi sữa hộp, cá hộp, thịt hộp, nét-cà-phê, chanh bột hộp, sô-cô-la, bích quy, cả thuốc lá thơm Cờ-ra-ven-na… với vỏ bọc choánglộn, màu sắc sặc sỡ, những hình vẽ và chữ đề tiếng nước ngoài…

Tất cả cái đống đồ lề đó bốc lên mùi xa lạ, mùi cuộc sống của những gia đìnhgiàu sang, quyền thế ở các thành phố giặc tạm chiếm. Nhiều người đứngvây chung quanh, mắt như bị hút chặt vào cái đống đồ lề quý giá, ngonlành đó, và gần như choáng váng vì thèm muốn. Nó hiện ra giữa cảnh sốngvô cùng gian khổ của chiến khu với tất cả sức hấp dẫn ghê gớm của chủnghĩa vật chất. Nó như một lời mời mọc, dụ dỗ về cảnh sống của một miền“địa đàng” có thật và đang ở cách họ không xa. Bên kia con sông Ô Lâu,dọc theo con đường quốc lộ rải nhựa khoảng bốn chục cây số là đến nơi…

Họ hết nhìn đống đồ lề lại nhìn Quỳnh - chủ nhân của đống đồ lề: CònQuỳnh, em đưa mắt dửng dưng lướt nhìn đống đồ lề, rồi cúi xuống đất,nhìn cái lối đi gồ ghề, cháy đen nhiều chỗ vì lửa đốt sưởi suốt mùa lạnh và những ngày chiến khu mưa.

Gương mặt thơ ngây của em vụt tối vàđanh lại, nom em càng vàng rõ, xanh xao đến phát sợ. Em nói, mắt vẫnnhìn xuống đất, giọng nghẹn lại vì đau đớn:

- Vú và chị về nói lạivới ba mạ em… Em nghe chuyện ba, em rất xấu hổ. Tội của ba với khángchiến to lắm. Mà em còn nhỏ quá, em không đủ sức để chuộc được tội choba… Nói với mạ em, ở đây em chẳng cần chi hết. Em chỉ cần tiếng tốt củaba, của mạ của gia đình thôi… Nước Thuỵ Sĩ làm chi có sông Ô Lâu, làmchi có Xê-ca Một, Xê-ca Hai, Xê-ca Ba… Xê-ca Bảy?… Qua bên đó em làm chi có đứa bạn trèo hết lên các ngọn cây cao thành phố để tìm lá thuốc vềchữa bệnh cho mạ… Mà em thì thích sông Ô Lâu, thích Xê-ca, thích bạn emhơn. Còn ba thứ đồ ni - em ngẩng lên, khoát tay chỉ đống đồ lề bày ngổnngang trên sạp nứa - vú với chị dẹp hết vô bị mang về, một viên thuốc em cũng không uống, một cái bánh em cũng không ăn mô!

Thân hình em bỗng rung lên từng đợt như ngọn lá trước cơn gió bất thần nổi lên. Em đangcố hết sức chống chọi với cơn sốt rét đang dâng lên từ bụng, từ ngực.Hai bàn tay em bóp chặt cái thành sạp nứa, rồi cố nói với giọng thậtbình thản:

- Vú với chị về đi. Khi mô Huế giải phóng em sẽ xin phép cấp chỉ huy về thăm cả nhà…

Em chợt nhìn lên chỗ đầu nằm của Mừng, thấy trên cái bao tải rách, đặt một hộp sữa guy-gô sáng trắng. Em cau mặt, chỉ hộp sữa, hỏi Mừng đứng sátngay bên cạnh:

- Ở mô mà cậu có rứa?

- Chị Hường cho mình sáng ni… - Mừng bối rối nhìn bạn trả lời.

- Răng cậu lấy làm chi? - Mặt em sa sầm, nghiêm lại hỏi. - Thứ bột đó ăn vô là dễ mắc nghẹn làm cậu chẳng biết chi cả!

- Mình lấy định mang vô cho Quỳnh mà…

- Mình thích ăn quả ươi bay hơn! Cậu tệ quá, cả tuần ni chẳng thấy cậuđem vô cho mình quả ươi bay mô? Mình thèm ươi bay của cậu rệu cả nướcmiếng… Cậu định đem hộp đó vô cho mình thì chừ cậu đưa đây.

Mừng phóc lên sạp, cầm hộp sữa đưa cho Quỳnh. Em đặt hộp sữa bột vào giữa đống đồ lề, nói:

- Vú với chị mang luôn cả hộp ni về. Bạn em nó không biết, nó tưởng ăn được!

Những người vây quanh nhìn Quỳnh với cảm giác gần như hoảng sợ. Trong lúc nói những câu đó, gương mặt trẻ thơ của em hiện lên vẻ sắt đá đến lạnhngười.

Chị Hường nắm chặt hai cổ tay gầy guộc của em, khóc không thành tiếng, nước mắt ròng ròng, làm tóc dính bết vào má, vào cằm.

- Chao ôi, răng mà em sắt đá dữ rứa? Em không viết được cho ba, cho mạ, cho chị, một cái thư hay răng?

- Em chẳng biết viết chi… - Quỳnh lắc đầu buồn bã. - Mà em không có sẵn giấy bút ở đây…

Mừng quệt nước mắt vào ống tay áo, nói với Quỳnh:

Hay cậu gửi cái tờ chữ nhạc “Sông Ô Lâu kháng chiến” về cho ba mạ, cho chị, để ba mạ với chị được ngó thấy mặt chữ của cậu?

- Tưởng anh Hinh lấy tờ đó rồi?

- Mình mới lên đòi lại anh bữa trước.

Mừng lôi tờ báo Giết giặc để dưới cái bao tải, mở ra. Bên trong tờ báo gấplàm tư em để bản nhạc của Quỳnh được vuốt thẳng hết nếp nhăn. Quỳnh cầmlấy bản nhạc viết sau tờ đơn thuốc, đọc lại một lần, rồi rút mẩu bút chì trong túi áo, sửa lại một vài chỗ. Em ký tên dưới bản nhạc, trao cho oHường.

- Chị nói với ba mạ là thơ của thằng Quỳnh gửi cho ba mạ đó!

Gương mặt em vụt trở nên xanh lét, cả hai vành tai cũng xanh. Em gần như cúigập người để chống chọi với cơn sốt lúc này đang tràn ngập cơ thể em.Như có một sức mạnh ghê gớm từ bên trong thúc đẩy, em vụt ngồi thẳngdậy, rướn người lên hết sức như sợi dây đàn lên đến cung bậc cao nhất mà nó có thể lên. Trông dáng điệu em lúc này sao mà giống hệt con sơn casắp vỗ cánh bay thẳng vút lên bầu trời! Và hết sức bất ngờ em bỗng cấttiếng hát. Em hát chính bài hát của em “Sông Ô Lâu kháng chiến“.

Sông Ô Lâu ngân nga soi núi biếc chập chùng

Soi đoàn quân quyết tử hiên ngang…

Mọi người đứng lặng sững sờ, kinh ngạc nhìn em. Cặp mắt em mở to, sáng long lanh như có lửa cháy bên trong. Mọi người đều có cảm giác là không phải chỉ miệng em hát mà cả con người em, từ mái tóc tơ bù rối, vầng trántrắng xanh như cẩm thạch, cái cổ gầy ngẵng như cổ gà con, những mạch máu xanh xanh sau làn da con nít trong bủng, những ngón tay ngón chân bébỏng, mỏng manh và dễ vỡ như đồ chơi, đến cả cái áo quân trang rộngthùng thình mà em xin được của tnột anh nào đó với những miếng vá totướng đủ màu, đều lung linh, ngân nga và rực sáng âm nhạc… Vừa hát hếtcâu thứ nhất, cả gương mặt em đã chan hoà nước mắt. Cả những dòng nướcmắt sáng loà, đầm đìa trên hai má em cũng đang hát!

Càng hát, gươngmặt em càng tái xanh như người đang mất máu. Tưởng chừng như máu trongnhững mạch xanh xao của em đang chảy tràn ra khỏi thân thể em theo cùngvới những câu hát. Đang ngồi, em vụt đứng thẳng dậy chênh vênh bên mépsạp nứa. Khi hát đến hai câu cuối cùng:

Sông Ô Lâu đôi bờ trắng tóc lau

Hát lời thề kháng chiến đến bạc đầu…“.

Toàn thân em run bắn. Cặp mắt mở to bỗng dạỉ đi. Ánh lửa cảm hứng rực sángtrong đáy mắt em vụt tắt ngấm như một ánh chớp. Và em ngã nhào từ trênsạp nằm xuống đất, bất ngờ đến nỗi không ai kịp đưa tay ra đỡ. Một dòngmáu đỏ gắt từ trong miệng trào ra, giàn giụa trên vành môi mở he hé củaem. Anh So-súng-cối nhào tới, bế xốc em lên ôm chặt vào lòng.

Cặp mắt ành mở trừng trừng nhìn như chết lặng, gương mặt xanh lét với cặp môitrẻ thơ he hé giàn giụa máu hồng của thằng em chiến sĩ, mà nửa giờ trước đây, anh còn cõng nó trên lưng. Anh bỗng kêu thét rung chuyển cả gianlán.

- Quỳnh! Quỳnh!

Bác sĩ Thiền tay run run vạch mi mắt em ra.Ông khoát tay ra hiệu cho chị y tá nước mắt đầm đìa đang run rẩy lấythuốc ở ống tiêm vào xi-ranh:

- Thôi o ạ, muộn mât rồi! Mắt em đã giãn đồng tử…

Lúc đó vây quanh em có đến hàng trăm người. Phần lớn là các chiến sĩ đãquần nhau suốt năm mươi lăm ngày đêm với giặc ở mặt trận Huế. Họ đã được chứng kiến không ít những cái chết của đồng đội trong các đợt xungphong. Nhưng chưa một ai nhìn thấy một cái chết lạ lùng, đột ngột, dữdội, như cái chết của người chiến sĩ mới mười ba tuổi ấy.

Lễ mai táng Quỳnh-sơn-ca cừ hành vào sáu giờ chiều ngày hôm sau (để đề phòng máybay giặc). Huyệt đào trên đỉnh đồi thấp tím ngắt hoa sim dại, nhìn thẳng xuống một khúc lượn của dòng sông Ô Lâu. Dưới chân đồi trải dài ra đếnmép sông, xạc xào lau sậy.

Không có gỗ ván để đóng áo quan, và cũngkhông muốn bọc thi thể em trong vải bạt áo súng, các anh ở công binhxưởng đã hạ một cây xoan rừng thân to bằng hai người ôm. Các anh cắt một khúc dài chừng hai thước, khoét thủng ở giữa, đo vừa bằng người em. Các chị y tá nấu nước lá vằng, lá bội, lá ngái rừng, tắm rửa cho em. Cácchị gội đầu cho em bằng lá sả. Cái bao tải rách quân trang đông xuân của em được gấp nhỏ, kê dưới đầu em làm gối. Bộ đàn chai tự tạo, cái đũa gõ đàn, được xếp dọc hai bên mình em. Các chị xếp cả vở nhạc kịch “Đi tìmthuốc cho mẹ” em đang viết dở dang với nhừng tờ đơn thuốc bỏ đi và những ngọn lá vả rừng, lên ngực em: Các chị cúi hôn vầng trán trong như sáp,bất động của em, nước mắt lã chã.

Một chị rủ rỉ nói với em, với giọng âu yếm dỗ dành như vẫn thường dỗ em gắng ăn hết chén cháo: “Chị để đờn, để giấy bút cho em đó, để về dưới nớ em viết tiếp những bản nhạc…“.

Trung đoàn trưởng đến viếng em, đắp lên mình em lá cờ đỏ sao vàng.

Gần như cả chiến khu đến dự lễ mai táng em, đứng đen đặc cả ngọn đồi. Trước khi lấp đất, đội đồng ca nhà Văn hoá đại chúng xếp hàng bên thànhhuyệt, hát bài hát “Sông Ô Lâu kháng chiến“. Hát đến câu thứ hai nhữngngười dự lễ cùng bật lên cất tiếng hát theo.

Pun-xắc, anh chiến sĩhàng binh người Đức, chĩa khẩu ga- răng lên trời - khẩu súng chiếm đượctrong trận Cầu Nhi - bắn liền một kẹp đạn. Mọi người xúm lại lấp đất,vừa lấp, vừa khóc, vừa hát. Bài hát về dòng sông gan góc, chảy bất tậntrong cuộc kháng chiến trường kỳ.

Chú thích:

(1) Con trai của Vua Bảo Đại.

13

Ba ngày sau, các đội viên Thiếu niên Trinh sát công tác ở đồng bằng đượctriệu tập về chiến khu làm lễ truy điệu Quỳnh và nghe phổ biến nhiệm vụmới của Đội.

Trước ngực áo rách vá của các em đều đính một miếng băng vải đen. Có được mảnh băng tạng này là do công lao của Tư-dát. Nó rachơi quán cắt tóc của ông Đỡm, ngồi kể lại cái chết của bạn, mụ Tào đang bán quán đằng trước cũng bỏ quán chạy qua nghe. Nó kể thế nào khôngbiết mà mụ Tào bưng mặt khóc như chính con mụ chết. Tư-dát nói: “Mệ ơi,tụi cháu muốn để tang cho hắn mà không tìm mô ra vải đen. Mệ có miếngvải mô còn mới và sạch, cho tụi cháu một miếng làm băng tang“. Mụ lộtluôn cái khăn vải đen đang chít trên đầu chặm chặm nước mắt, rồi đưa cho nó, mếu máo nói: “Cháu cầm về cắt ra mà chia nhau“.

Tư-dát lấy kéocắt mười tám mảnh đều nhau, phát cho từng bạn trong đội, và một mảnh togấp đôi dành cho đội trưởng. Còn lại chừng một phần ba cái khăn em đưacho Mừng giữ.

- Mi nhớ cất cho kỹ, để khi mô đến lượt mi tao khỏi mất công đi xin.

Tư-dát nói chơi mà Mừng cứ tưởng thật, em ngó tấm vải đen nói:

- Nhưng nhỏ ri e sợ không đủ…

Tư-dát cười, miệng méo xệch:

- Không đủ thì bốc thăm. May nhờ rủi chịu…

Cái chết của Quỳnh-sơn-ca đã gây một chấn động thật sâu sắc thật dữ dội,trong lòng các đội viên Thiếu niên Trinh sát - có lẽ còn sâu sắc và dữdội hơn cả cái chết của Vịnh-sưa.

Các em hỏi các chị y tá tại saoQuỳnh lại có thể chết đột ngột như thế. Các chị nói: “Em Quỳnh đangtrong tình trạng sức khỏe hết sức mỏng manh, vì sốt rét và vết thương cũ ở bàn chân tái phát, tàn phá cơ thể vốn đã suy nhược của em. Gần đâybác sĩ còn phát hiện em có nhiều triệu chứng suy tim - em lại có một tâm hồn hết sức nhạy cảm. Một cơn sốc tình cảm quá căng thẳng, quá mănhliệt, làm em vỡ tim. Máu ứa ra miệng em là máu tràn ra từ trái tim bịrạn vỡ, như nước sôi tràn ra cái cốc thuỷ tinh bị nứt“.

Tư-dát quệtnước mắt nói với các bạn: “Hắn chết làm tao nhớ đến con chim chiền chiện bị tao ném chết ở dốc đồi gần đồn Sơn Quả dạo nọ… Bữa đó đang đi trinhsát, tao thấy con chiền chiện nhảy nhảy trên đất. Tao ngứa tay, lượm hòn đá ném chơi không ngờ lại trúng? Rứa là con chim bay vọt từ đất thẳnglên giữa trời như cái pháo thăng thiên. Từ giữa trời nó hót lên mộttràng dài hay đến nỗi tao nghe phải nổi da gà. Rồi nó rớt thẳng đứng từtrên trời xuống đất, nằm chết ngay trước mặt tao. Tao lượm lên coi, thấy hai mép nó rỉ máu tươi. Lúc đó tao cứ nghĩ là tao ném trúng đầu nên mép nó mới chảy máu. Chừ thì tao tin là nó bị vỡ tim như thằng Quỳnh“.

Mừng mắt đỏ hoe, hỏi:

- Nhưng con chim chết là tại anh ném đá, Quỳnh có ai ném chi mô và vỡ tim?

- Cả đời mi không khi mô cho hết hỏi những câu ngơ ngơ. Thì cha hắn némchứ còn ai nữa? Cha đại Việt gian ném con Vệ Quốc Đoàn, cú ấy mới nặng?Mà có phải ném gạch ném đá mô? Cha hắn ném ô tô, ném nhà lầu, ném đàndương cầm, ném cả nước Thuỵ Sĩ vô hắn, làm chi hắn chẳng vỡ tim mà chết! “

Trong đội chỉ có đội trưởng và Mừng là được chứng kiến cảnh Quỳnh chết. Các bạn bắt Mừng phải kể lại đầu đuôì.

Nhưng em kể chuyện dở hết chỗ nói, cứ lặp đi lặp lại: “Quỳnh ngồi ri, nói ri, rồi ngẩng mặt ri, rồi hát ri, rồi bổ ri, rồi chảy máu ri, rồi anh Sobồng lên ri…“. Em vừa kể vừa cố gắng bắt chước điệu bộ cùa Quỳnh. Nhưngem bắt chước lại càng dở hơn. Các bạn phải kêu lên: “Mi kể chán quá!Toàn ri, ri, ri… y như cái thằng nói ngọng!“.

Mừng chỉ cho các bạn cái chỗ đất mà Quỳnh ngã xuống.

Mỗi lần đi qua chỗ đó, đứa nào cũng đi vòng tránh xa, như sợ giẫm lên người bạn.

Mừng kể chuyện không ra chi nhưng tình bạn của em với Quỳnh làm cho cả độicảm động. Mỗi lần đi liên lạc vào núi, Mừng đều lượn đầy hai túi quả ươi bay. Các bạn xúm lại xin, em không cho, nhưng cũng không thấy em ngâmnước ăn. Các bạn tò mò theo dõi. Té ra, cứ chiều chiều Mừng lại chạy một mạch lên chỗ mộ Quỳnh, đặt những quả ươi bay lên nấm mộ đất còn mới,rồi ngồi đó mà khóc. Có bữa em còn cẩn thận mang theo cái ống bương,xuống sông Ô Lâu múc nước đặt trước mộ rồi bỏ quả ươi bay vô nước, ngâmsẵn cho bạn. Một lần em còn bỏ vô nước một cục đường đen, thút thít nóivới bạn: “Quỳnh ơi, dậy mà ăn trái ươi bay đi Quỳnh!“.

Rồi em đứng sững trước mộ bạn khóc hu hu.

Tư-dát biết chuyện, ngậm ngùi nói: “Chưa chắc cha mạ hắn đã thương hắn như thằng Mừng“.

Bồng ở đồng bằng lên, vác trên vai một tấm ván dài chừng một mét, một đầutấm ván bị cháy đen. Em nói: “Tao đi qua cái xóm vừa bị Tây càn, nhà cửa cháy gần hết. Tao thấy một mệ lôi tấm ván ni trong đống tro ra. Taohỏi: “Cháy còn một khúc ri thì mệ để làm chi?“. Mệ nói: “Chẻ ra mà làmcủi thôi chớ còn làm chi được nữa?“. Tao nói: “Rứa thì mệ cho cháu václên Xê-ca làm cái bia cho thằng bạn cháu. Hắn chết chôn giữa núi giữanon, không có bia, sợ đến ngày độc lập e tìm không ra mộ“. Mệ nói: “Chocháu vác đi mà làm bia. Gỗ kiền kiền đó, chôn xuống đất hai chục nămkhông suy chuyển mô?“.

- Tư-dát ni! - Bồng nói - Mi chữ nghĩa hay ho, khắc tên họ hắn lên đây cho tao với.

Tư-dát đáng lẽ phải khắc tên, họ, ngày sinh, ngày mất của Quỳnh như thường lệ, nhưng nó bỗng nổi hứng làm thơ. Hì hục cả tuần liền, Tư-dát khắc lênbia bốn câu thơ:

”Sống, viết nhạc lên lá cây

Chết, bạn cùng quả ươi bay lên rừng

Sống anh dũng, chết thuỷ chung,

Nơi đây yên nghỉ bạn Thân Trọng Quỳnh”

14

Chiều chiến khu. Các đội viên Thiếu niên trinh sát đang ăn cơm trước sân lán. Mâm cơm chiến sĩ năm đầu kháng chiến: một rá cơm gạo mục bốc mùi thumthủm vì gạo phải chôn dưới đất, và một tô nước ruốc đỏ lòm những ớt -mỗi đội viên được hai chén cơm lưng lửng. “Ăn rồi mà chưa ăn“. Bồng-da-rắn đứng dậy, gãi bụng sồn sột và nói vậy.

- Anh Kim về! Anh Kimtrốn tù dưới Huế về! - Mừng từ ngoài đường xồng xộc chạy vào, vừa thởhổn hển vừa kêu, báo tin với cả đội. - Anh ấy cướp được cả khẩu tiểuliên “mát” của Tây!

Cả đội bỏ hết chén đũa xuống đất, xúm lại quanh Mừng rối rít hỏi:

- Hắn mô rồi? Hắn trốn về với thằng Lượm à?

- Không có anh Lượm! Anh ấy trốn tù với một anh du kích xã Phong Diêu. Hai người đang ngồi ngoài trạm gác a?…

- Ta ra coi đi! - Một em nào đó xướng lên. - Ta ra coi đi! Ta ra coi đi! - Cả đội hoà theo và rầm rập chạy như một đàn ngựa non, về phía trạm gácchiến khu cuối làng Hoà Mỹ.

Cả đội oà vô trạm gác tiền tiêu, một cái lán tranh nép mình dưới rặng lồ ô, sát bên lối mòn đi về làng Đất Đỏ.

Tất cả cùng nhảy lên, reo gọi:

- Kim! Kim-điệu!

- Hoan hô Kim-điệu!

Kim-điệu đang ngồi trước cái bàn tre cùng với một thanh niên lạ mặt - anh du kích cùng tham gia vượt tù với Kim-điệu.

Trên mặt bàn đặt dọc khẩu tiểu liên “mát” nước thép xanh biếc mà Kim đã đoạt được lúc vượt tù. Ngồi đối diện với hai người là anh tổ trưởng trạmgác. Kim-điệu đang sôi nổi kể chuyện gì đó với anh tổ trưởng. Bộ dạng,nét mặt, cử chỉ, giọng nói của Kim đúng là một tay tù vượt ngục chínhhiệu. đầu tóc bù xù rối phủ kín gáy, mặt mũi có mấy vết gai xước rớmmáu, bộ áo quần ka-ki rách toạc nhiều chỗ lấm lem bùn đất.

Kim điệunhảy ra khỏi cái ghế ngồi làm bằng một khúc thân cây còn nguyên cả vỏ,chạy ra sân đón các bạn. Tư-dát ôm chầm lấy Kim trước tiên, hổn hển hỏidồn dập:

- Thằng Lượm chừ mô rồi! Mi có được tin tức chi của hắn không? Mi bị bắt vô lúc mô?

- Tớ đang ngồi báo cáo công tác với anh Đồng-râu thì tụi hắn bốn phía ậpvô. Anh Đồng-râu đạp phên cùng với tớ vọt ra vườn. Anh núp sau cây sầuđâu, bắn chặn tụi hắn cho tớ chạy. Nhưng chạy ra đến bờ sông, chưa kịpnhảy xuống thì tụi hắn đã phục sẵn ở đó rồi…

- Rứa thằng Lượm?…

Nghe nói hắn bị giam ở lao Thừa Phủ, rồi sau đó chở vô Tua-ran. Còn tớ, tụi hắn đưa về giam ở lao Toà Khâm.

- Làm răng cậu trốn được?

- Chuyện dài mà ly kỳ lắm. Bữa mô về đội tới kể cho nghe.

Mừng xắm nắm cạnh Kim. Em chỉ khẩu súng để trên bàn, hãnh diện khoe như chính em cướp được:

- Các cậu coi tề! Khẩu súng đẹp chưa tề!

- Chừ cậu về đội luôn chứ? - Nhiều em hỏi Kim.

- Các anh bảo còn phải chờ báo cáo lại Ban tham mưu trung đoàn đầu đuôi mọi chuyện…

Sáng hôm sau, Kim được đưa vào Xê-ca Một gặp các anh ở ban Quân báo trungđoàn về cơ quan bảo vệ chiến khu. Kim báo cáo miệng, sau đó viết ragiấy, trường hợp chú bị bắt, anh Đồng-râu bị bắn chết, những lời cungkhai của chú với cơ quan mật thám giặc, những hành động tra tấn của giặc đối với chú.

Thời gian qua chú bị giam ở đâu, bọn giặc bắt chú phảilàm những công việc gì, và trong trường hợp nào chú đã vượt tù và cướpđược súng của giặc v.v…

Kim ở lại Xê-ca Một, năm ngày, vừa viết báo cáo vừa bồi dưỡng, nghỉ ngơi.

Chú đã viết một bản báo cáo kín bốn trang giấy, với lời văn khá lưu loát và nét chữ khá đẹp. Chú kể:

”Bọn giặc đã đánh đập, tra tấn chú vô hồi kỳ trận để lấy khẩu cung. Chúngđưa chú hết sở này đến ở khác: ty An ninh, sở Mật thám phòng Nhì, rồi sở Mật thám Liên bang, nhưng chú một mực chỉ khai những điều mà chúng đãbiết rõ và không thể chối được.

Sau đó, chúng đưa chú về giam tại lao Toà Khâm, trại gian tù binh… Ngay những ngày đầu tiên vào tù, chú đãnghĩ đến chuyện vượt ngục, trở về chiến khu. Nhưng bọn giặc canh gác hết sức nghiêm ngặt, nên mấy tháng đầu chú không có thời cơ.

Nửa thánggần đây, bọn giặc chọn một toán ba chục tù binh khỏe mạnh đi làm cỏ-vê ở một kho đạn gần đồn Hiền Sĩ. Biết chú trước đây là học sinh“đơ-dem-an-nê” ở “lít-xê” Khải Định, bọn giặc bắt chú đi làm thông ngônvì tụi giặc bảo vệ kho đạn toàn lính Âu-Phi. Chú thông ngôn khá giỏi vàtỏ ra chăm chỉ, nên dần dần bọn giặc tin cậy chú. Chú nhận định đây làthời cơ tốt nhất để trốn tù. Chú bí mật bàn với anh Lẫm - một tù binhtrước kia là tiểu đội trưởng du kích xã. Anh Lẫm rất thông thạo đường sá vùng này, tính tình lại kín đáo, gan dạ. Hai người đã thống nhất kếhoạch và ngày vượt tù.

Buổi chiều hôm đó, hết giờ làm cỏ-vê, bọn giặc chở tù binh từ kho đạn về nhà lao, trên hai chiếc ô tô G.M.C. Lúc lêndốc, xe chạy hơi chậm lại, chú ra ám hiệu cho anh Lẫm. Cả hai lập tứcvọt xuống ô tô. Riêng chú đã nhanh tay giựt luôn khẩu tiểu liên “mát”của thằng lính Tây đen ngồi cạnh chú đang còn mải châm thuốc hút. Haingười chạy băng qua dãy đồi thấp cạnh đường số Một. Bọn giặc dừng xelại, bắn đuổi theo như tưới đạn. Nhưng cả hai đã may mắn trốn thoát,chạy về đến xã của anh Lẫm. Nửa đêm hôm đó anh Lẫm đưa đường cho chú lên chiến khu“.

Lời kể của Kim hoàn. toàn khớp với lời khai của anh Lẫm(cũng được giữ lại chiến khu để thẩm tra). Phòng Quân báo Trung đoàn vàcơ quan bảo vệ chiến khu trong tuần đó cũng nhận được báo cáo của cơ sởvùng hai người trốn tù, tường thuật lại sự việc đúng như vậy.

Ban chỉ huy trung đoàn thông báo với các đơn vị sự việc một đội viên Thiếu niên Trinh sát là Lê Kim, trong tổ quân báo được cử về hoạt động tại thànhphố, phối hợp với trận đánh đồn Hộ Thành, đã bị giặc bắt. Mặc dầu bị bọn mật thám giặc trá tấn rất dã man, nhưng em đã giữ đúng lời thề thứ nămtrong mười lời thề danh dự của Vệ Quốc Đoàn: “Dù bị cực hình tàn khốcđến thế nào quyết không bao giờ phản bội xưng khai“. Sau đó em đã dũngcảm, mưu trí, cùng với một chiến sĩ du kích trong đội tù giặc bắt đi làm cỏ-vê, mạo hiểm vượt tù trở về chiến khu. Đồng thời em Lê Kim còn cướpđược một khâu tiểu liên “mát” của tên giặc canh gác tù. Ban chỉ huytrung đoàn đã cấp bằng khen thưởng em Lê Kim và đề nghị cấp trên tặngthưởng huân chương chiến sĩ hạng Ba.

Kim-điệu chốc lát đã trở thành một nhân vật được nhiều người trong chiến khu biết tiếng.

Tuần sau, Lê Kim được Ban Tham mưu trung đoàn cho trở về công tác tại độiThiếu niên Trinh sát. Để khen thưởng tinh thần và công lao của Kim,trung đoàn quyết định thời gian chú bị tù được coi là thời gian tại ngũ. Một đồng chí ở phòng chính trị trung đoàn đã viết một bài tường thuậtrất sinh động, hấp dẫn về thành tích của em Lê Kim, đăng trên báo “Giếtgiặc“.