Sủng Thê Của Nịnh Thần

Chương 3: Bình sinh ý




Vào tháng ba, mùa xuân gần kề, thời tiết quả nhiên đã khô ráo hơn.

Khi trăm hoa úa tàn, những bông hoa yên lăng trong viện cuối cùng cũng lặng lẽ nở rộ vào đêm.

Từng khóm hoa chuông đua nhau nở bung ra để che lấp những cành già nhăn nhúm. Dưới sự chiếu rọi của ánh sớm ban mai nhỏ vụn cuối xuân, chúng trông như những chiếc bát Phật vàng rực rỡ.

Mạnh Nguyên nằm ngửa trên giường, dù không nhìn thấy được cảnh sắc phồn thịnh và vàng ngọc nhưng nàng không cần phải ngồi dậy mà vẫn có từng làn hương hoa ngào ngạt theo gió thoảng qua, thấm vào trong tim phổi, thậm chí cơn ngứa nơi cổ họng cũng được giảm bớt ít nhiều.

Nàng nhớ đến những loại cây kỳ lạ có thể dùng làm thuốc, năm ấy còn chưa được đưa vào phủ nhưng phu quân Mộ Hoài của nàng, lúc chưa qua đời, đã từng tìm kiếm khắp đại giang nam bắc và bỏ ra số tiền lớn để vận chuyển về từ nước khác… Chỉ bởi thỉnh thoảng nàng cảm phong hàn dẫn đến ho khan suốt nên chàng không tiếc hao người tốn của như thế. Hiện giờ, nàng không khỏi tức cảnh sinh tình.

Vào Mộ gia hơn mười năm, hằng năm hoa đều nở nhưng người trồng hoa đã về với cát bụi từ lâu. Đến cả cuộc sống đầm ấm và vui vẻ, được người nâng niu trong lòng bàn tay ngày xưa của nàng cũng đã bị xoá nhoà hết kể từ khi chàng qua đời… Mạnh Nguyên không nén nổi chạnh lòng.

Lúc gả đi, nàng không dám hi vọng xa vời. Bình thường, chàng luôn là một người ngang tàn và thẳng thắn, nhưng cũng có lúc ấm áp và ân cần đến vậy, như hổ dữ ngửi thấy tường vi, sao không làm người ta ngưỡng mộ cho được?

Ban đầu nàng luôn cẩn thận giữ lễ của phụ nhân, sau này càng không mảy may kiềm giữ được sự ngưỡng mộ và dựa dẫm, chỉ vỏn vẹn chưa đầy một tháng mà thôi. Sau này, khi hai người vành tai chạm tóc mai, như keo như sơn thì khắp phố phường và núi non hoang dã đều có dấu chân của phu thê họ từng tay nắm tay đi qua. Khi đó, không biết có bao nhiêu phu nhân nương tử và khuê trung kiều khách trong kinh thành phải ao ước.

Đến giờ phút này, Mạnh Nguyên vẫn không thể nghĩ ra, vốn chỉ là cuộc hôn nhân làm cân bằng hai nhà, ngay cả các nữ quyến trong nhà đều không xem trọng, thế nhưng sao Mộ Hoài lại đối đãi với nàng như châu ngọc trong tim. Thậm chí trước khi chết, chàng còn để lại di mệnh nhằm bảo vệ nàng tại nơi kín cổng cao tường bị vây quanh bởi bầy lang sói này nhiều năm qua...

Không nên nghĩ, nhưng không khỏi nghĩ càng nhiều. Có lẽ hai người thật sự là duyên phận định sẵn, nhưng chỉ vì quá nồng nàn và sâu sắc nên mới khó được lâu dài.

Đêm xuân ngắn ngủi bên trong tấm màn ngũ sắc, uống cạn nửa đời mộng mị, giờ đây chỉ còn lại chăn lạnh và đêm mưa.

Lúc Tử Đường bưng chiếc hũ trầm mộc hương vào phòng, Mạnh Nguyên đang mải thẫn thờ nhìn lên tấm màn màu chàm.

Nếu nhìn thật kỹ, có thể thấp thoáng thấy được vệt nước mắt trên đôi gò má.

Tử Đường biết phu nhân lại nhớ đến Mộ hầu đã sớm qua đời, đành tìm cách khuyên bảo: “Phu nhân, Tước Nhi đã hái nhụy non của hoa yên lăng rồi trộn với nhành đào mới được chiết ra, bảo có thể thanh lọc và bớt ho. Người xem, nên đặt ở cửa sổ hay trên hương án ạ?”

Mạnh Nguyên chợt ngẩn ngơ phút chốc, sau đó quay qua khẽ gật đầu: “Xem ra cô bé đó có lòng rồi, ngươi cứ đặt ở cửa sổ hướng nam đi, tiện thể cho hương thơm tản ra… Lát nữa đợi Kỳ đại nương tử tới đón người, ngươi lại thay ta đích thân đi tiễn nhé.”

“Phu nhân yên tâm, lúc trước tỷ tỷ Thanh Bình của Tước Nhi thân thiết với nô tì nhất. Người không nói thì nô tì cũng chuẩn bị sẵn sẽ căn dặn Kỳ đại nương tử một phen… Nhưng ngẫm lại cũng hơi dư thừa, Kỳ gia đã nhận đại ân của người, họ biết đây là việc thiện tích đức, dù sao cũng tốt hơn người cha không bằng chó lợn kia của Thanh Bình nhiều.”

Thanh Bình là một trong bốn nữ sử hồi môn của Mạnh Nguyên. Chẳng qua năm đó vào Hầu phủ, nàng ấy qua đời vì một cơn bạo bệnh. Mạnh Nguyên không chỉ thương xót cho bạc mà còn xoá bỏ nô tịch cho cả nhà nàng ấy.

Vài năm trước, mẹ của Tước Nhi đã qua đời, cha ruột và mẹ kế sinh được một ấu đệ nên họ đã đối xử với muội ấy ngày càng tồi tệ. Lần này, họ còn bán muội ấy làm thiếp cho một ông già quá năm mươi tuổi sắp chết. Mạnh Nguyên đã dùng tiền tài và thế lực mới chuộc được người về nguyên vẹn, ngoài ra còn tìm giúp một gia đình tốt nhận nuôi muội ấy, xem như là kết nghĩa.

Âu cũng vì không còn cách nào khác, Mạnh Nguyên ngẫm nghĩ những ngày sau của mình không còn nhiều nữa, e là nếu cứ giữ Tước Nhi bên cạnh sẽ làm hại muội ấy mà thôi.

Một lúc sau, Tử Đường đi xuống bếp lấy thuốc cho Mạnh Nguyên. Đúng lúc Xích Thược vén màn vào phòng, gương mặt không giấu được vẻ vui mừng.

Trong lòng Tử Đường hơi lay động rồi nghênh đón, sau đó khẽ mắng nàng ấy.

“Bảo muội ra ngoài nghe ngóng tin tức, đến giờ này muội mới về, có phải thấy trên chợ có tiệm bán đồ vặt nên không bước nổi đúng không?

Xích Thước dẩu môi: “Tử Đường tỷ tỷ đừng có đổ oan cho người ta. Hôm nay yết bảng, muội phải tốn rất nhiều công sức mới chen vào được, suýt nữa đánh mất một chiếc giày nữa đấy.”

Mạnh Nguyên nghe nói đã dán thông báo rồi, cũng rất quan tâm: “Các ngươi đừng vội ầm ĩ. Xích Thược, vừa rồi ngươi bảo mình nhìn thấy gì?



Không vội đáp lại, trước tiên Xích Thược quỳ xuống hành lễ theo quy tắc với người trong màn: “Chúc mừng phu nhân, Tuyền ca nhi của tứ phòng chúng ta đậu cao trung, đứng thứ năm nhị giáp, thi đỗ tiến sĩ rồi ạ.”

Kìm nén vui mừng, Tử Đường vội vàng hỏi thay Mạnh Nguyên: “Vậy đại phòng và nhị phòng thì sao? Có thấy tên họ không?”

“Ngoài Giới ca nhi của nhị phòng đậu tam giáp hạng thứ mười bảy ra, những người khác đều không có trên bảng.”

Tuy đã sớm đoán trước nhưng nghe được kết quả, Mạnh Nguyên mới thở phào nhẹ nhõm.

Tử Đường cảm thấy thật hãnh diện, có vẻ càng đắc ý hơn Mạnh Nguyên: “Thật không uổng công mấy năm qua phu nhân chúng ta luôn giúp đỡ họ không cần hồi báo. Hiện giờ có kết quả này mới đúng là tất cả đều vui.”

Vui mừng ư? Với tứ phòng đã xuống dốc nhiều năm đang tạm trú nơi đất khách, có lẽ là có.

Song người của đích tôn và nhị phòng không cảm nhận được.

Lúc này Trung Kiên bá Mộ Hoành đang ngồi ở chính sảnh Vĩnh Trú đường với đích thê Chu thị. Họ vừa xem bảng gã sai vặt mang về vừa nơm nớp lo sợ.

Vốn dĩ ông ta tưởng rằng may thay không bị đòi thưởng, ai ngờ lật thuyền trong mương, vịt đến miệng còn bay mất.

Chu thị nhìn gã nhằm xác nhận lại: “Ngươi nhìn kỹ chưa đấy, người ở trên bảng cáo thị thật sự là Mộ Tuyền đồng tông bên tứ phòng của chúng ta à? Không phải trùng tên trùng họ chứ? Lúc trước lão Ngũ của tứ phòng đã đắc tội với quyền quý vì có ngôn ngữ bất kính, toàn chi bị đuổi khỏi kinh thành, sao có thể có người chịu bảo lãnh giúp nhà nó ra thi cử chứ?”

Gã sai vặt cúi đầu thấp hơn, không dám nói lời nào.

Trên bảng cáo thị không chỉ đăng tên họ, ngay cả quê quán, thế hệ ba đời đều được liệt kê ra hết. Tên có thể trùng nhưng tổ tiên của khai quốc Trung Kiên bá này, khắp thiên hạ không thể trùng được đâu.

Chu thị cũng không chấp nhận được kết quả mới hỏi câu ngu xuẩn thế.

Mộ Hoành thấy Chu thị thất lễ trước mặt kẻ hầu, bèn húng hắng ho khan, đoạn xua tay bảo gã sai vặt ra ngoài, sau đó khinh khỉnh nói: “Phu nhân đừng lấy làm tiếc. Tuy tứ phòng là chi thứ nhưng cũng là chí thân ngũ phục (*). Hiện giờ Tuyền ca nhi còn nhỏ mà có thể thi đậu, cũng đã làm vẻ vang cho Mộ gia chúng ta, không phải à?”

(*) ý nói có quan hệ 5 đời.

Lúc trước vạch ra mưu đồ, Chu thị và nhị phòng chưa hề thương lượng với Mộ Hoành. Bà ta nghe vậy bèn bực tức trách ông ta: “Ông thì biết cái gì?”

Cứ nghĩ đến ngày xưa từng bị con yêu nữ của gia đình mất nước hàng thần đè đầu cưỡi cổ hơn mười năm, khó khăn lắm bà ta mới chịu đựng được. Hiện nay, bà ta lại bị chi thứ chiếm hạng đầu, không chừng kể cả nhị phòng luôn xu nịnh đó cũng muốn phản bội mình. Lửa giận trong lòng Chu thị không khỏi bùng cháy mạnh hơn.

Bà ta trừng mắt với Mộ Hoành: “Ông đã biết cửa nhà Mộ gia không sáng sủa, tại sao bản thân không biết cầu tiến đi? Suốt ngày quyến luyến kỹ viện, còn bị Đoan công của Ngự Sử đài hoạch tội thành sách, thế nên mấy năm tuyển chọn vừa qua, ông chẳng được bổ nhiệm làm quan đấy. Thậm chí, khi tôi xã giao bên ngoài, không biết đã bị bao nhiêu người chỉ trỏ rồi, vậy mà ông vẫn còn mơ mộng người ngoài sẽ dát vàng lên mặt cho ông ư?”

Mộ Hoành nổi danh sợ vợ, nghe vậy chỉ rụt đầu lại: “Bà nhìn lại bà đi, lại lấy chuyện cũ năm xưa ra gây gổ, không phải tôi đã nói lần đó bị người ta cố chấp kéo đi à, thậm chí còn chưa đụng vào một chén rượu nhỏ nào nữa đấy... Muốn tôi nói à, không có chức quan cũng tốt mà, đỡ phải tốn công đấu trí với đám nhân tinh chín đầu kia. Với tước vị của chúng ta hiện giờ, không làm quan cũng đã cao hơn người khác một cái đầu rồi. Tội gì bà cứ chuốc lấy phiền toái thế.”

Chu thị không nghe nổi mấy lời phát ngôn nhảm nhí của ông ta, nhưng ban ngày ban mặt không thể véo đánh ông ta cho hả giận được, chỉ đành tức giận đến đập bàn.

Nghĩ tới nghĩ lui, bà ta quyết định lại đến Đông phủ một chuyến.

Bấy giờ, phủ Bác Vọng hầu đang có khách.

Thật ra cũng không tính là khách.

Giờ phút này, tiến sĩ nhị giáp Mộ Tuyền vừa nhận chức đang quỳ gối ngoài màn ở Noãn các chính viện. Dù không nhìn thấy người nhưng hắn vẫn kính cẩn lễ phép dập đầu ba cái với người trong phòng.

Tử Đường trông giữ ngoài màn và tiếp khách thay Mạnh Nguyên. Thấy thế, nàng ấy vội vàng chạy ra đỡ: “Tuyền ca nhi làm gì vậy ạ? Hiện giờ, ngài đã là một nửa quan lại rồi, không nên dùng đại lễ bừa bãi như vậy.”



Ở trong màn, Mạnh Nguyên nghe nói Mộ Tuyền hành lễ lớn, bèn lên tiếng khuyên: “Toàn người trong nhà cả, ta không thích vậy đâu, lát nữa ta gặp mẫu thân con sẽ khó nói lắm đấy.”

Mộ Tuyền đứng lên nhưng không chịu ngồi xuống, chỉ đứng trả lời: “Lục thẩm nương là ân nhân của cả nhà con, lại giúp con tìm cố giao bảo đảm nên con mới có thể tham gia thi cử, đừng nói dập đầu mấy lần, bảo con bỏ tính mạng thân gia cũng không đủ để báo đáp... Hiện giờ con chỉ trách sao bụng mình toàn là cỏ dại (*), không thể học theo Biển Thước và Trọng Cảnh cứu sống mạng người, để thẩm nương nằm liệt giường quá lâu không thể bình phục.”

(*) ý nói việc ít sách vở và thành tích văn hóa thấp. Kiến thức sách vở cất trong bụng chẳng có nghĩa lý gì. Biển Thước và Trọng Cảnh là những vị thần y nổi tiếng ngày xưa.

Song tất nhiên Mạnh Nguyên không muốn nhắc đến chuyện này, bèn đổi chủ đề: “Ta đã nhờ người đến Di Châu báo tin cao trung lần này của con và mời mẫu thân con dẫn theo Nhiễm ca nhi về kinh gặp mặt rồi. Trước đó, ta không thương lượng với con, con đừng buồn ta.”

Mộ Tuyền lập tức hoảng hốt, mau chóng lại tạ ơn: “Cháu cảm kích còn không kịp, sao lại trách móc chứ ạ? Vả lại mẫu thân cũng rất nhớ thẩm. Từ biệt mười năm, cuối cùng đã có thể được gặp lại lúc sinh thời, chỉ có vui mừng mà thôi. Nếu lần này con có thể vào Quán các, càng có ý định muốn mẫu thân và Nhiễm ca nhi quay về kinh sống một thời gian. Lần này lục thẩm nương sắp xếp quá thoả đáng rồi ạ.”

Mạnh Nguyên vẫn thản nhiên: “Vậy càng tốt… Hôm nay ta hơi mệt nên không giữ con ở lâu được. Con cứ về tòa nhà ở ngõ Nam Lục trước đi. Qua mấy ngày nữa, trong cung sẽ có Quỳnh Lâm yến, đến lúc đó Thiên tử thánh giá đích thân tới, sẽ lại là một cuộc so tài lớn nữa. Hôm ấy, nếu con có thể được Thiên tử ban thưởng hoa, cưỡi ngựa ngự nhai (*), vậy xem như con đã thật sự trở nên vượt trội rồi...”

(*) Ý nói cưỡi ngựa qua đường trước cung điện. Ngày xưa, nhà vô địch sẽ được cưỡi ngựa để thể hiện vinh quang của họ.

“Thẩm nương yên tâm, con quyết định sẽ không lãng phí mấy ngày nay đâu ạ.”

Nói xong, Mộ Tuyền hơi do dự lấy ra một bọc vải dầu từ trong cổ tay áo ra: “Trên đường đi, con đã cố tình mua ít cao Sơn Trà mới làm trong ngày từ Bách Thiện đường. Con nghe nói có thể ra mồ hôi dịu cơn ho. Mong lục thẩm nương đừng vứt bỏ.”

Ở phía sau, Xích Thược cười lắc đầu nhưng không nói gì.

Có lần Mạnh Nguyên ăn quả sơn trà lập tức nổi mụn đỏ, bằng không khi trồng hoa dời cây sẽ không chọn yên lăng thay vì sơn trà. Quả thật, vị này đã chọn sai quà rồi.

Mạnh Nguyên không ngay mặt bác bỏ ý tốt của Mộ Tuyền, chỉ bảo Tử Đường nhận lấy thay nàng, rồi dặn họ sắp xếp mấy tráp điểm tâm cho hắn mang về chỗ ở, tiện thể cúng miếu Ngũ Tạng khi đi học luôn.

Đợi sau khi Mộ Tuyền đi rồi, Mạnh Nguyên gọi Tử Đường vào nói chuyện.

Tử Đường biết nàng muốn hỏi gì, quyết định tự tuôn ra như đậu.

“Vị tiến sĩ lão gia mới cóng này của chúng ta thật quá ư là tiết kiệm. Tuy rằng trên người không có miếng vá nhưng cổ tay áo đã bị mòn đến bạc trắng. Vừa rồi lúc ngài ấy lấy cao Sơn Trà ra đã làm lộ túi tay áo được làm từ vải lanh, chắc mấy năm nay ngài ấy luôn rất tiết kiệm, không dám tùy ý tiêu xài bạc mà người đã cho.”

Xích Thược không chững chạc như Tử Đường, nhanh mồm nhanh miệng nói xen vào: “Cũng khó nói lắm, có lẽ ngài ấy cố ý mặc như vậy cho người ta xem thì sao.”

“Ta cảm thấy không giống, vừa rồi ta thấy trên gan bàn tay ngài ấy có vết chai, sực nhớ ngài ấy là người đọc sách văn nhược và không tập võ, nên có lẽ vết chai kia là vì làm nông, sinh ra do phải cầm nông cụ lâu ngày…”

Mạnh Nguyên nghe đến đó, không hỏi tiếp nữa mà đưa ra ngay kết luận.

“Ngũ tẩu là người quen cũ của ta, ta hiểu nhân phẩm tẩu ấy, rất thiện tâm nhưng vô cùng mạnh mẽ. Người ta hay nói con trai giống mẹ, có lẽ tính tình của Tuyền ca nhi giống tẩu ấy... Như vậy thì ta có thể yên tâm nhắm mắt rồi.”

“Tử Đường, hộp gỗ lúc đầu ta giao cho ngươi, nếu ngươi rảnh rỗi thì giúp ta đưa đến phủ Võ Hưng hầu đi. Đợi khi gặp cô mẫu rồi, ngươi cứ nói khi còn sống tổ mẫu đã điểm qua… Cơ thể của ta không còn mạnh nữa, không tiện cử động nên đành phải nhờ cô mẫu lão nhân gia giúp ta tiến cung một chuyến rồi.”

Mạnh Nguyên chưa nói hết nhưng Tử Đường biết ngay trong hộp kia là bản tấu xin phong tước vị, cần mệnh phụ khác vào cung trình lên.

Sắc mặt Tử Đường lập tức ảm đạm, nàng ấy biết Mạnh Nguyên cảm thấy đại nạn sắp đến nên mới thu xếp như vậy. Nàng ấy cố chịu đựng sự chua xót ở mũi, cúi đầu đáp “Vâng”.

Giờ phút này, gian ngoài chợt ồn ào ầm ĩ.

Ngân Nhiễm cuống quýt vào báo: “Phu nhân, không ổn rồi. Đại phu nhân Tây phủ đột nhiên đến thăm, không ngờ vừa lúc gặp Tuyền thiếu gia xách hộp thức ăn ra ngoài. Sau đó, chẳng hiểu sao hai bên lại xảy ra xung đột. Đại phu nhân hiểu lầm Tuyền thiếu gia là ăn xin, nên đã ra cho lệnh vú già đánh ngài ấy ngay tại đó rồi ạ...”