Rẽ Ngang Gió Tuyết - Khí Ngô Câu

Chương 130




Năm đó lúc Tạ Tùng Tuyển đến Tẩu Mã Xuyên đã vào độ cuối thu.

Tướng sĩ Đại Lương liên tục bại trận dưới tay Chử Tô Lặc, mất đi cửa ải quan trọng là Hải Tuyết, còn tổn thất hai đại tướng là Bùi Văn và Bùi Hành, sĩ khí tự nhiên tan rã.

Bọn họ khát khao thắng lợi.

Tạ Tùng Tuyển nhìn ra, trên đường tới Tẩu Mã Xuyên, Bùi Thừa Cảnh mang tâm sự trùng trùng.

Bùi Văn Bùi Hành liên tiếp hi sinh, là đả kích to lớn đối với ông, thêm vào tin Chử Tô Lặc đã nắm rõ chiến thuật của Bùi gia, Bùi Thừa Cảnh lần này ra trận cũng không nắm chắc được phần thắng.

Tạ Tùng Tuyển từng xem qua bản đồ cửa Tuyết Hải, suy tư đã lâu, mới xin phép Bùi Thừa Cảnh: “Thúc phụ, chi bằng để con thử xem.”

Bùi Thừa Cảnh nghi ngờ: “Con?”

Tạ Tùng Tuyển gật đầu: “Binh lính của Chử Tô Lặc đóng giữ ở Tuyết Hải là mầm họa, chuyện đoạt lại cửa Tuyết Hải cấp thiết vô cùng. Trước mắt đã sắp vào đông, nếu Chử Tô Lặc dẫn binh lấn xuống biên cương Đại Lương thì nhất định phải bổ sung lương thảo, chi bằng để con dẫn một đội binh xâm nhập Tuyết Hải đốt kho lương của bọn chúng, nếu làm xong chuyện, Chử Tô Lặc nhất định phải lui.”

Bùi Thừa Cảnh cũng nghĩ đến cách này, nhưng nguy cơ quá lớn, ông bèn hỏi: “Con nắm chắc mấy phần.”

“Chín phần mười.” Tạ Tùng Tuyển cười đáp: “Giữ một phần ở lại kẻo thúc phụ nghĩ rằng con tự cao tự đại.”

Bùi Thừa Cảnh cũng bật cười: “Thiếu niên ngông cuồng thì chỉ có con là nhất.”

Tạ Tùng Tuyển lại nói: “Lần đầu con lên chiến trường, nếu không nói năng ngông cuồng một chút sợ là thúc phụ không tin con.”

“Ta tin con chứ, nhưng thân là tiên phong của quân ta, điều quan trọng nhất không phải là ta có tin con không, mà là binh sĩ có tin con hay không.”

Tạ Tùng Tuyển đáp: “Nếu thúc phụ đồng ý, con muốn tự một một đội binh trong doanh theo con đến Tuyết Hải.”

Bùi Thừa Cảnh trầm ngâm một lát, lại nhìn thấy ánh mắt rực rỡ như mặt trời ban trưa của Tạ Tùng Tuyển, cuối cùng cũng gật đầu: “Được!”

Tạ Tùng Tuyển đi vòng quân doanh, lúc chọn binh, rất nhiều binh lính ở Tẩu Mã Xuyên vẫn chưa rõ thân phận thật sự của hắn, chỉ biết đây là Tướng quân tiên phong do Hoàng thượng khâm điểm.

Lúc đó, Tạ Tùng Tuyển hỏi giám quân đi theo mình: “Ta nghe nói thi thể của Bùi Văn Tướng quân do một binh sĩ cõng về từ chiến trường, chuyện này thật hay giả?”

Giám quân đáp: “Là thật.”

Tạ Tùng Tuyển nói: “Gọi hắn tới gặp ta.”

Tạ Tùng Tuyển cũng không ngồi trong lều đợi mà đi chọn ngựa, lúc chọn được một con ngựa lông màu đỏ hung thì người binh sĩ kia đã tới.

Tạ Tùng Tuyển quay đầu lại, thấy người đó vẫn còn trẻ, tuổi tầm mình, dung mạo bình thường, nhưng đôi mắt rất sáng, tuy thần thái thuận tòng, nhưng không che được một thân hào khí.

Tạ Tùng Tuyển quan sát y một chút, mới hỏi: “Ngươi làm sao mang Bùi Văn Tướng quân về được?”

Người đó thành thực đáp: “Nhân lúc Bắc Khương điều chỉnh đội ngũ, ta lén lút trở lại chiến trường tìm thi thể, chẳng nhớ được gì nhiều, chỉ có thể tìm được Bùi Văn Tướng quân.”

Tạ Tùng Tuyển lại hỏi: “Sao lại mạo hiểm như thế, dám cõng thi thể huynh ấy trở lại trước mặt địch?”

Người đó trầm mặc một chút mới đáp: “Vì y là một tướng quân tốt.”

Tạ Tùng Tuyển mỉm cười, ném roi ngựa trong tay cho y, nói: “Ngươi tên gì?”

Binh sĩ thận trọng ngẩng đầu nhìn Tạ Tùng Tuyển, đáp: “Ta họ Triệu, Triệu Quân.”

“Chữ Quân nào?”

Triệu Quân không đáp được, tên của y vốn do tiên sinh trong thôn đặt giúp, y không biết được nhiều chữ, chỉ biết viết tên mình.

Tạ Tùng Tuyển thấy y không đáp, xem ra ra không được đọc nhiều sách, bèn ngửa lòng bàn tay, để Triệu Quân viết tên lên tay mình.

Triệu Quân vạch từng nét, Tạ Tùng Tuyển nắm chặt tay, giống như là muốn khắc ghi cái tên này.

Hắn ngâm: “Ánh mặt trời rực rỡ, viết là ‘Quân’, đúng là một cái tên hay! Rất giống tên một người bằng hữu của ta, y là đệ đệ của Bùi Văn Tướng quân.”

Triệu Quân sững người, không biết nên đáp lại lời khen tặng này thế nào. Tạ Tùng Tuyển thấy y trầm mặc không nói, lại hỏi: “Ngươi có tên tự hay không?”

Triệu Quân lắc đầu: “Không có.”

“Nếu một ngày ngươi thành thủ hạ của ta, ta sẽ đặt cho ngươi.” Tạ Tùng Tuyển dắt con ngựa đỏ ra, cười hỏi: “Triệu Quân, ngươi muốn lập chiến công không?”

Triệu Quân gật đầu: “Muốn.”

“Đến lúc ngươi thuần phục được con ngựa này thì đến lều của ta báo danh.” Tạ Tùng Tuyển vừa muốn rời đi lại sực nhớ ra, quay lại nhìn Triệu Quân mỉm cười: “Quên mất tự giới thiệu, ta tên là Tạ Tùng Tuyển.”

Triệu Quân nghe hắn mang họ vua, mới biết người này thân phận cao quý, bèn quỳ xuống hành lễ: “Thuộc hạ thất lễ, không biết…”

Đôi mắt Tạ Tùng Tuyển vốn anh tuấn phong lưu, lúc mỉm cười càng thêm phần chói mắt: “Không cần rườm rà, Bản Quận vương rất thích ngươi, ngươi giống như hiệp khách trong truyện mà ta từng đọc.”

Ngày đó, Triệu Quân chưa qua một khắc đã thuần phục được con ngựa đỏ Tạ Tùng Tuyển chọn, trở thành thuộc hạ của hắn.

Sau đó không lâu, Tạ Tùng Tuyển dẫn binh xâm nhập cửa Tuyết Hải, mượn gió thu điên cuồng, đốt kho lương của quân địch thành tro.

Bùi Thừa Cảnh nhân cơ hội dẫn binh đến, chưa tới ba ngày đã chiếm lại được cửa Tuyết Hải.

Trận này vừa nhanh vừa thống khoái, chỉ với tổn thất nhỏ nhoi đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho Chư Tô Lặc, quân đội Đại Lương cũng trùng hưng được đấu chí.

Tạ Tùng Tuyển và Triệu Quân quen biết trong quân, lại cùng nhau chiến đầu, rất nhanh chóng trở thành bạn tốt.

Cũng từ Triệu Quân, Tạ Tùng Tuyển nghe được chuyện huynh trưởng Triệu Huyên của y.

Án gian lận năm Canh Dần, Triệu Huyên ch/ết trong lao, ai cũng cho rằng y sợ tội tự sát, nhưng trên dưới Triệu Gia vẫn luôn tin tưởng phẩm hạnh của y.

Người khác không biết nhưng Triệu Quân rất rõ, Triệu Huyên cực khổ học hành nhiều năm, nói là tóc treo xà nhà cũng không quá đáng, nay lại có kết cục như thế, khắc khổ và nỗ lực bao nhiêu năm lại biến thành trò cười.

Y vẫn luôn cho rằng Triệu Huyên hàm oan mà ch/ết, trăm kế ngàn kế muốn tìm giám thị năm đó là Bùi Văn báo thù cho huynh trưởng.

Lúc này Bùi Văn đã từ chức Binh bộ Thị lang, vẫn canh giữ tại biên cương, đúng lúc gặp mùa màng thất bát, thổ phỉ khắp nơi, quân doanh biên quan chiêu binh mãi mã, Triệu Quân nhân cơ hội nhập ngũ, trở thành một binh sĩ trong quân doanh của Bùi Văn.

Triệu Quân vốn có một thân công phu, luôn tìm cơ hội ám sát Bùi Văn.

Y biết Bùi Văn có thói quen thổi sáo nửa canh giờ rồi mới đi ngủ, biên cương chẳng có tri âm, nên Bùi Văn vẫn luôn thổi sáo một mình, bên cạnh không có một người thị vệ.

Triệu Quân tính tới tính lui, nghĩ ràng đây là cơ hội tốt để ra tay, tuy rằng có nhiều nguy hiểm, nhưng vì oan khuất của huynh trưởng, đáng để y lấy mạng ra đánh đổi.

Dĩ nhiên cuối cùng vẫn không thành công, cách nghĩ của Triệu Quân quá đơn giản, vừa vào được lều của Bùi Văn đã bị Bùi Văn khống chế.

Bùi Văn không biết vì sao mình lại bị ám sát, bèn hỏi tên y.

Triệu Quân không nói tên mình, chỉ hét: “Đại ca ta tên Triệu Huyên! Ngươi còn nhớ huynh ấy không?”

Sắc mặt Bùi Văn khẽ biến, trầm mặt quan sát hắn: “Bản Tướng quân vẫn nhớ, ngươi… trông rất giống đại ca của ngươi.”

Điều Triệu Quân bất ngờ là Bùi Văn không hề xử trí y, cũng không biện bạch chuyện năm đó, chỉ để Triệu Quân ở lại trong quân doanh, thi thoảng lại chỉ điểm thương pháp cho y, cũng dạy cho y đao pháp của mình, Bùi Văn nói với y rằng, cố rèn ra một thân bản lĩnh hãy tới tìm mình báo thù.

Sau đó Triệu Quân lại ám sát Bùi Văn thêm cả trăm lần nữa, nhưng kết quả vẫn là thất bại, lúc đầu y nghĩ mình bản lĩnh không bằng người, sau đó y lại không thể xuống tay nữa.

Giống như lúc ban đầu y đáp lời Tạ Tùng Tuyển, y biết, Bùi Văn là một tướng quân tốt.

Bùi Văn không thể trả lại công đạo cho đại ca y, là tội tày trời, nhưng trong mắt bách tính, Bùi Văn quả thực là một tướng quân tốt.

Triệu Quân không lúc nào thôi do dự, không biết rằng ranh giới của thiện ác của thế gian này lại mong manh đến thế.

Tạ Tùng Tuyển nghe xong, cất lời: “Nếu ngươi muốn đòi công đạo, sau khi chiến sự ở Tẩu Mã Xuyên kết thúc, cứ theo ta hồi kinh, bảo quan phủ lật lại án gian lận năm đó.”

Ánh mắt Triệu Quân sáng rực: “Quận Vương gia bằng lòng giúp ta?”

Tạ Tùng Tuyển lắc đầu, nhìn thấy ánh mắt ảm đạm của Triệu Quân lại bật cười, đong đưa ngọc bội bên hông: “Ta không có bản lĩnh này, trong kinh cũng không dám hỏi chuyện trên triều, nhưng ta có một người bạn nhất định sẽ giúp ngươi. Khoa cử mùa xuân năm sau, y nhất định sẽ đề danh bảng vàng.”

Triệu Quân nghe Tạ Tùng Tuyển tán thưởng vị bằng hữu này, còn khoa trương hơn lúc tự khen mình, bèn hỏi: “Y là ai? Lúc đó ta nên đi bái phỏng y thế nào?”

“Y tên Bùi Dục, đến lúc đó mang ít bánh ngọt tặng y là được. Nhóc đó lúc nào cũng đứng đắn đoan trang, nhưng lại mê đồ ngọt, đôi khi ta lại sợ y ăn ngọt nhiều rụng hết cả răng.” Tạ Tùng Tuyển bật cười.

Nhưng Triệu Quân lại sững sờ: “Quận Vương gia lấy ta làm trò đùa hay sao? Bùi Dục là đệ đệ Bùi Văn, sao lại có thể đòi công đạo cho ca ca ta?”

Tạ Tùng Tuyển lắc đầu: “Ngươi không hiểu y, trên thế giới này thật sự có một loại người rất ngốc, không thể nhìn người khác chịu khổ, nhìn người khác khổ còn buồn hơn tự mình chịu khổ, thấy chim non rơi trên đất cũng có thể khóc. Đợi đến ngày gặp được y, ngươi sẽ hiểu.”

Triệu Quân bán tín bán nghi, nhưng cũng sinh ra kỳ vọng đối với cuộc gặp gỡ này.

Dưới sự lãnh đạo của Tạ Tùng Tuyển, đội quân tiên phong này trở thành đôi cánh cho quân đội Đại Lương, cùng với sự chỉ huy của Bùi Thừa Cảnh, Đại Lương liên tiếp thắng trận, ép Chử Tô Lặc phải lui binh về Bắc Khương.

Chử Tô Lặc bị thương, chỉ có thể ngồi sau màn làm quân sư, binh lính Bắc Khương giao lại cho con trai Bảo Nhan Tát Liệt chỉ huy.

Lâm trận đổi tướng là đại kỵ, Bắc Khương Thương Lang đã là nỏ đã hết đà, người ở Tuyết Hải đều cho rằng trận chiến này sẽ nhanh chóng kết thúc, Triệu Quân cũng nghĩ vậy.

Tạ Tùng Tuyển dự định cho Bảo Nhan Tát Liệt đòn cuối, nhưng binh mã trong tay Tạ Tùng Tuyển tổn thất không nhỏ, Bùi Thừa Cảnh bèn phái Hạ Nhuận qua giúp một tay.

Tuy trước đây Tạ Tùng Tuyển và Hạ Nhuận từng có mâu thuẫn, nhưng đó đều là chuyện nhỏ nhặt, trước mặt quốc gia, bọn họ đều là đồng bào.

Tạ Tùng Tuyển cũng nghĩ rằng, có cao thủ như Hạ Nhuận tới giúp, quân tiên phong sẽ như hổ thêm cánh, lại chẳng ngờ đến, Hạ Nhuận lại tiết lộ quân tình cho Bảo Nhan Tát Liệt.

Lúc Tạ Tùng Tuyển theo kế hoạch tập kích quân doanh của Bảo Nhan Tát Liệt, đã rơi vào cái bẫy đặt sẵn.

Quân tiên phong tổng cộng một trăm ba mươi lăm người, gần như toàn quân bỏ mạng, Tạ Tùng Tuyển, Triệu Quân và năm binh sĩ khác bị Tát Liệt bắt giam, trở thành tù binh.

Ban đầu, Bảo Nhan Tát Liệt còn lễ nghĩa, chưa trực tiếp dùng hình với Tạ Tùng Tuyển, chỉ cho hắn uống thuốc mê, để tứ chi không còn sức lực, ngay cả đứng dậy cũng khó khăn.

Bảo Nhan Tát Liệt muốn Tạ Tùng Tuyển khai ra cách bày binh bố trận trên Tẩu Mã Xuyên, giúp Thương Lang đoạt lại Tuyết Hải.

Nếu Tạ Tùng Tuyển không nói, thì hắn và thủ hạ của hắn nhất định phải ch/ết.

Đối mặt với yêu cầu của Bảo Nhan Tát Liệt, Tạ Tùng Tuyển trào phúng mỉm cười, chỉ có thể đáp: “Ta tự cho mình là thông minh, thắng ngươi nhiều lần như thế, hiện lại mới biết, không phải vì ta quá thông minh mà vì ngươi quá ngu ngốc, ngốc tới nỗi cho rằng ta sẽ khai.”

Bảo Nhan Tát Liệt bị hắn sỉ nhục, sắc mặt khẽ biến, rất nhanh lại khôi phục trấn định, cười lạnh: “Trung nguyên có một câu nói rất hay, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt. Ta tin sẽ có một ngày ngươi chịu mở miệng.”

Nói xong, hắn bắt một tù binh ra, tàn nhẫn cắt ngang yết hầu của người đó trước mặt Tạ Tùng Tuyển.

Tạ Tùng Tuyển chỉ có thể mở to mắt chứng kiến một sinh mạng dần lụi tàn, cho dù thuốc mê khiến cả người hắn không còn cảm giác, nhưng trong tim gan hắn lại đau nhói từng đợt.

Cảm giác thống khổ này không dứt khoát mà cứ liên miên không dứt, tựa như dòng máu không ngừng chảy ra từ yết hầu của binh sĩ đó, đau đớn khiến Tạ Tùng Tuyển buồn nôn.

Nhưng Tạ Tùng Tuyển biết, bản thân không thể để lộ chút cảm xúc nào trước mặt Bảo Nhan Tát Liệt.

Y chỉ nhìn trân trân, chưa từng chớp mắt, khắc ghi đau đớn này trong tim, nhục nhã như thế, chỉ có ghi nhớ mới có thể biến thành thanh đao sắc bén để trả thù.

Bảo Nhan Tát Liệt giết một tù binh, thấy Tạ Tùng Tuyển mặt không đổi sắc, mỉm cười: “Không vội, còn năm tên nữa, một ngày giết hai tên, cho ngươi ba ngày để suy nghĩ.”

Thời gian kéo dài hơn bao giờ hết, dày vò cơ thể lẫn thể xác con người, những tù binh đó lần lượt bỏ mạng, mỗi người ch/ết một kiểu, mang theo nỗi sợ khác nhau mà ch/ết, lại bi thảm thê lương giống nhau.

Khổ sở và cái ch/ết của những kẻ này như đá tảng, gông xiềng, một tầng lại một tầng áp trên vai Tạ Tùng Tuyển, ép hắn phải quỳ xuống, buộc hắn khuất phục.

Triệu Quân cũng chứng kiến hết thảy.

Y tự biết mình chẳng còn sống bao lâu nữa, y vẫn còn trẻ, trên vai vẫn còn mối thù của huynh trưởng, y cũng sợ hãi.

Trong lao tù tối tăm, Triệu Quân dồn người vào góc, sợ hãi đến nỗi bật khóc, lại sợ Tạ Tùng Tuyển nghe thấy nên không dám khóc lớn.

Nhưng Tạ Tùng Tuyển vẫn nghe thấy, từng người cùng hắn đồng sinh cộng tử đã bỏ mạng, làm sao hắn có thể yên giấc ngủ?

Hắn gom hết sức lực, bò đến bên cạnh Triệu Quân, tựa lưng vào bức tường lạnh căm: “Triệu Quân, ngươi sợ à?”

Triệu Quân đưa lưng về phía Tạ Tùng Tuyển, run rẩy một chút, cũng không dám nhìn mặt hắn, đáp: “Sợ chứ.”

Tạ Tùng Tuyển thấp giọng nói: “Ta cũng sợ, ta hứa với một người sẽ trở về trước tuyết đầu mùa, nếu thất hứa, y nhất định sẽ hận ta đến ch/ết mất.”

Nghe hắn nhắc tới người quen, Triệu Quân cũng nhớ tới người thân của mình, gạt lệ: “Cha mẹ ta có lẽ cũng đang đợi ta trở về.”

Nói xong, chóp mũi hắn nóng lên, sợ hãi biến thành phẫn nộ, nghiến răng mắng: “Đám chó đẻ Bắc Khương!”

Y đấm mạnh lên tường, cốt nhục mơ hồ, phát t/iếtxong, Triệu Quân mới bình tĩnh một chút: “Ta hy vọng ngài có thể sống tiếp, ngài không giống ta, ta chỉ là một kẻ tầm thường, ch/ết cũng không đáng…”

Tạ Tùng Tuyển nói: “Không phải ngươi nói sao này sẽ trở thành đại tướng quân của Lương Quốc sao? Còn phải chinh phạt chiến trường, giúp dân trừ hại.”

Triệu Quân trào phúng bật cười: “Đúng thế.”

Tạ Tùng Tuyển cũng cười: “Biết đâu sau này người người đều biết đến cái tên Triệu Quân, biết ngươi là một anh hùng, ngay cả ta cũng thua xa…”

Triệu Quân trầm mặc, một lúc sau mới khẩn cầu: “Quận Vương gia, ta biết rõ ta không còn đường về nữa, nếu ngài có thể sống tiếp, xin ngài giúp ta chiếu cố phụ mẫu…”

“Được…” Giọng điệu của Tạ Tùng Tuyển vẫn dương dương như ngày nào, tựa như trước mắt vẫn còn tiền trình đầy hy vọng đang chờ đợi họ.

Hắn tốn không ít sức lực xé y bào xuống, cắn ngón tay nhỏ máu, hỏi Triệu Quân: “Ta thay ngươi viết một phong thư gửi về nhà nhé?”

Triệu Quân biết Tạ Tùng Tuyển muốn an ủi y, chỉ đành giả vờ không hiểu, vui vẻ nói ra nhớ mong dành cho quê nhà.

Tạ Tùng Tuyển không viết kịp, chỉ có thể giản lược viết mấy chữ, trước giờ Tạ Tùng Tuyển vốn thông minh hơn người, nghe Triệu Quân nói một phen là có thể nhớ gần hết.

Viết xong, hắn giấu phong thư ấy sâu trong vết nứt trên tường, canh giữ cả một đêm.

Ngày hôm sau, Bảo Nhan Tát Liệt lại tới thẩm vấn Tạ Tùng Tuyển, lần này, hắn lấy mạng Triệu Quân, lại không dứt khoát giết người mà dùng cực hình từ từ hành hạ.

Bảo Nhan Tát Liệt càng lúc càng âm hiểm, chẳng cho Tạ Tùng Tuyển nhìn nữa mà nhốt hắn vào ngục bên cạnh, để hắn nghe.

Nghe tiếng kêu thảm thiết của Triệu Quân, nghe tiếng cầu xin của Triệu Quân, đến khi thần trí dần mơ hồ không thể kêu gào thêm nữa mà ch/ết đi.

Tạ Tùng Tuyển cắn chặt răng, cuối cùng nói thêm một câu khác với mọi ngày.

Hắn nói: “Ngươi có bản lĩnh thì cứ giết ta đi.”

Bảo Nhan Tát Liệt cười lớn: “Ngươi giết không biết bao nhiêu binh sĩ của Thương Lang, làm sao ch/ết dễ dàng thế được. Bây giờ không còn ai có thể thế mạng cho ngươi nữa rồi, sẽ đến lượt ngươi nhanh thôi.”

Hắn nghiêng đầu nhìn binh sĩ Bắc Khương đứng cạnh, hỏi: “Đại vu y bao giờ mới đến?”

“Khoảng hai ngày sau.”

Bảo Nhan Tát Liệt vui vẻ: “Rất tốt.”