Nhung Mã Hồng Trang

Chương 16




Lúc nãy Tây Lăng tử tưới hoa, lại chính là dùng nước sôi mới nấu.

Ta cũng không biết Tây Lăng Tử đã để mắt tới ta, lúc này ta Tuyên Phủ quân đang tập họp tại một nơi ở ngoài biên giới cách Phù Yết còn có hơn năm mươi dặm, trong miệng binh sĩ ngậm tăm, tám vạn người lặng ngắt như tờ, như hình bóng những con quỷ dày đặc trong màn đêm.

Đây là tốp thanh niên trai tráng cuối cùng của Nam quốc, dưới sự dụ dỗ mức lương bổng cao vót, Quách Uẩn dường như đã chiêu mộ toàn bộ thanh niên trai tráng của Nam quốc vào Tuyên phủ quân, thậm chí chỉ chừa lại mấy ngàn cấm quân bố phòng ở Đế đô.

Nếu là trận đánh với Phù Yết thất bại, trên cơ bản cũng sẽ không cần chờ đến bảy năm sau, hiện tại có thể dọn dẹp một chút rồi đầu hàng với Tây Lăng Tử.

Tây Lăng Tử ở kiếp trước đánh Phù Yết là dùng Khinh kỵ binh tập kích lộ tuyến, đội quân Long Tước trọng giáp chắc chắn là rất đáng sợ, nhưng nàng ta lại dựa vào tính cơ động cao của Khinh kỵ binh, linh hoạt lách qua chính diện của chiến trường, từng ngụm từng ngụm nuốt chửng những thành trì khác của Phù Yết.

Quân đội Khinh kỵ binh của nàng ta xuất quỷ nhập thần như thích khách, không ngừng dùng lưỡi dao sắc nhọn trong tay rạch ra những vết thương trên người những binh lính to lớn của Phù Yết, đến khi bọn họ mất máu đến chết.

Đội quân Long Tước danh xưng thiên hạ,chính diện va chạm vô địch, thế nhưng bởi vì khoác trên mình trọng giáp, tính cơ động cũng không cao bằng Khinh kỵ binh, Phù Yết không tính là một nước yếu, nếu thua thì chỉ thua trên phương diện này.

Vấn đề là Nam quốc chúng ta không giống Bắc triều của Tây Lăng Tử, chúng ta không có Khinh kỵ binh. Cái này thì thật là xấu hổ.

Như thế nào mới có được Khinh kỵ binh và Trọng kỵ binh?



Nuôi ngựa.

Dưỡng mã địa ở nơi nào? Ở Phù Yết.

Phải tấn công Phù Yết như thế nào? Điều động Khinh kỵ binh dựa vào tính linh hoạt đọ sức với đội quân Long Tước.

Vậy Khinh kỵ binh có thể lấy từ đâu? Nuôi ngựa.

Một logic xoay vòng đến cả một người nghe cũng phải đến bước phát điên.

Quách Uẩn gom của cải, đem chiến mã cả nước, tập hợp được một ngàn năm trăm con, giao cho ta huấn luyện trong ba tháng.

Mặc dù những con ngựa này là tạm thời gom góp lại, màu lông, hoa văn, ngựa lớn nhỏ đều không giống nhau, nhưng có ít còn đỡ hơn không, miễn cưỡng thì vẫn có thể dụng được.

Ta liếc qua bộ phận Khinh kỵ binh phía trước, rồi lại liếc mắt nhìn trọng giáp bộ binh phía sau.

Đây mới là đội quân tinh nhuệ sau cùng của Nam quốc. Bởi vì không có ngựa, danh tướng Nam quốc đời trước là Quách Ninh, cũng chính là gia gia của Quách Uẩn, đã nghĩ ra một kế sách thiên tài, chính là ‘Lấy bộ phá kỵ’, dùng trọng giáp bộ binh khắc chế kỵ binh.

Loại giáp dày của bộ binh Nam Quốc, từ giáp lá bằng sắt đến dùng dây da hoặc giáp đinh nối liền thành giáp gỗ, không chỉ bảo vệ được phạm vi toàn thân, đồng thời có thể thông qua việc gia tăng số lượng giáp lá để nâng cao lực phòng hộ, chống cự sự xung kích của Trọng kỵ binh.

Quách Ninh còn một lần xuất lĩnh Trọng trang bộ binh lấy thiết giáp, trường thương cường nỗ làm trang bị chủ yếu, lấy đội hình kỵ binh dày đặc nhiều lần đánh bại Bắc triều, Hơn nữa tại chiến trận Lăng Hà, đem Trọng trang giáp bộ binh có trang bị đại đao, đại phủ theo hai cánh triển khai trận thế, hiệu quả ngăn chặn được Trang giáp kỵ binh của Nguyên Thị Bắc triều tiến công, chặt đứt đùi ngựa ở dưới, chém đứt kỵ sĩ ở trên.

Mặc dù trên người bộ binh mang giáp và vũ khí quá nặng, không đuổi kịp kỵ binh Nguyên Thị của Bắc triều, nhưng cũng đánh trận và tạo được thanh thế cho Nam quốc. Nếu như không phải về sau Quách Ninh bị Tiên Hoàng nghi kỵ, thậm chí đến cả Tôn nữ Quách Uẩn đắc ý nhất cũng bị Tiên Hoàng cưỡng ép gả cho Thái tử, cũng chính là Hoàng đế đương thời bị Quách Uẩn cầm tù trong hoàng cung, Trọng trang bộ binh có thể đã càng thêm hoàn thiện.



Aizz, cũng không biết ta hiện tại ở tiền tuyến, còn Quách Uẩn thì đang làm gì.

Ta từ trong ngực móc ra cái bát vàng kia, dấu son phía trên đã khô, chỉ còn lưu lại một màu đỏ nhàn nhạt.

Đây chính là cái bát ngày đó đến tẩm cung Quách Uẩn tiện tay thu được.

Đột nhiên có chút nhớ người.

Bên trong Vương triều, có một loại người thế này, bọn họ không cần phải làm gì hết, nhưng sự tồn tại của bọn họ lại chính là giá trị lớn nhất, bởi vì bản thân bọn họ là đại diện cho một trật tự tốt đẹp.

Lý Tư thời Tần, Vệ Thanh thời Hán, Gia Cát Lượng thời kỳ Tam quốc, Quách Tử Nghi thời Đường, Phạm Trọng Yêm thời Tống, Từ Đạt thời Minh… Đều là như thế, mà Quách Uẩn dùng thực lực bản thân cùng những thủ đoạn chính trị sau khi thượng vị, đem tuổi trẻ thanh niên của mình sớm đã đặt trên vị trí này.

Nếu là có người ở đây, nội tâm của ta có lẽ sẽ không lo lắng bất an như vậy.

Ban ngày đã cùng Lục Cô Nguyệt thương lượng hết nửa ngày, cuối cùng quyết định dùng chiến thuật tập kích ban đêm.

Chúng ta trước mắt sẽ phái một Xích hầu nội ứng ngụy trang tiến vào Đỗ Lăng thành của Phù Yết, thăm dò rõ ràng nội tình bên trong, sau đó để dũng sĩ đã được lựa chọn cẩn thận từ Nam quốc, vòng qua đám người giám sát ở Phù Yết, thừa lúc ban đêm tiến sát Đỗ Lăng, đại sát một trận bất ngờ, giết sạch sẽ đám người Phù Yết ở Đỗ Lăng.

Đỗ Lăng là trọng trấn biên thành của Phù Yết, lương thảo tích trữ ở đây, nếu có thể kéo đi thì sẽ kéo đi, kéo không được thì đốt rụi.

Cuối cùng sẽ đem ngựa ở Đỗ Lăng vận chuyển về nội quốc Nam triều, lấy Đỗ Lăng thành làm trung tâm, lấy Khinh kỵ binh bức xạ xung quanh, cướp bóc đốt giết, đánh xong bỏ chạy, vét sạch từng ngụm từng ngụm ở Phù Yết, khiến Long Tước quân phải cảm thấy mệt mỏi.

Xích hầu được phái đi rất nhanh đã trở về, bọn họ quỳ trên đất hồi báo tình hình với ta.



Ta sau khi nghe xong hồi báo lạnh lùng gật gật đầu, đúng như ta dự đoán, vậy nên tay phải khép lại, cánh tay vung lên chỉ huy —

Xuất chinh!

Sau khi đánh xuống Đỗ Lăng thành, ta nhìn thời gian, lại phái phó tướng Đỗ Giang đánh xuống Mạt Lăng, Lục Cô Nguyệt thì dẫn đầu trung quân đánh xuống Tĩnh Lăng, ba thành tương trợ lẫn nhau, dễ thủ khó công. Ba thành trong tay, Bắc bộ Phù Yết sẽ có thể khóa chặt trong tay ta.

Nhóm lính liên lạc cưỡi ngựa tới tới lui lui hô hào đồ sát, người sống không còn một ai, tiếng kêu thảm thiết của nam, nữ, người già, trẻ nhỏ trong Đỗ Lăng thành không hề ngừng lại.

Lúc trời sắp sáng, ta đi một chuyến đến hậu quân nơi Du Đương Quy và Sở Nông Ngọc đang ở, đó là nơi Du Đương Quy mang theo nhóm y nữ mà nàng nàng bồi dưỡng băng bó chữa trị cho thương binh, trong lều vải đều là mùi hương của thảo dược và mùi cồn nồng nặc, Sở Nông Ngọc bận rộn điều hành thống kê số dược liệu, thương binh, bận đến nỗi chân không chạm đất.

Ta gọi Đào Đào tỳ nữ thân cận của Du Đương Quy, bảo nàng chú ý bảo vệ hai người họ, có người dám mạo phạm thì giết ngay tại chỗ.

Đám binh sĩ trên chiến trường áp lực vốn là không nhỏ, nhóm thương binh bị thương càng dễ bộc phát tính nóng nảy, nhất là nữ quyến thoạt nhìn có vẻ dễ bắt nạt, ta không hi vọng sẽ xuất hiện chuyện gây rối nào cả, lỡ như làm bị thương đến Sở Vương phi và Du Đương Quy, nguyên chủ đoán chừng sẽ muốn nuốt sống ta.

Để Dao Dao cưỡi ngựa hai chuyến nhanh đến chỗ Lục Cô Nguyệt và Đỗ Giang bên đó, căn dặn họ dừng việc đồ sát, tập trung thu thập các chiến lợi phẩm như kim loại hiếm, chiến mã, quặng sắt, bắt lấy thợ thủ công, rồi vận chuyển qua, ta trù tính chung đưa hết về Nam quốc.

Sau khi bố trí nhiệm vụ cho tất cả mọi người về, ta móc ra giấy Tuyên thành, muốn viết một lá thư cho Quách Uẩn, lúc này mới phát hiện ra mình không biết dùng bút lông.