Nhật Kí Nữ Pháp Y: Mật Mã Kỳ Án

Chương 67





Ngày 2 tháng 9 năm 2001.

Tiết Trung Nguyên.

Trời nắng.
Sông Cự Lưu, lưu vực Sở Nguyên.
Thẩm Thư khởi động xe, bật còi báo hiệu cảnh sát, nhấn chân ga, lao như tên bắn dọc bờ sông Cự Lưu.
Người dân Sở Nguyên không còn lạ lẫm gì với ngày lễ Vu Lan diễn ra bên bờ sông, Thẩm Thư cũng từng tận mắt trông thấy khung cảnh hàng trăm chiếc thuyền trôi trên dòng sông.

Lúc trời tang tảng sáng, tầm nhìn trên mặt sông còn thấp, muốn nhìn thấy mục tiêu nằm ngoài phạm vi 100 mét là điều hoàn toàn không thể.

Để không làm ảnh hưởng tới lịch trình bình thường của lễ hội trên sông, cảnh sát cũng không được điều tra quanh khu vực lân cận nơi tổ chức lễ Vu Lan.

Theo tâm lý tội phạm, kẻ tình nghi trước khi lên kế hoạch hành động cũng phải điều tra qua tình huống phức tạp ở đây.

Nếu thật như vậy, Thẩm Thư ngầm tin rằng, khả năng Từ Kiếm Minh sẽ xuất hiện ở hiện trường diễn ra lễ hội trên sông là vô cùng lớn.

Chỉ có điều, con sông Cự Lưu dài ngàn dặm, mà khu vực diễn ra lễ hội cũng không giới hạn phạm vi nhất định cho phép thuyền bè di chuyển, Từ Kiếm Minh có thừa thời gian và cơ hội để hoàn thành kế hoạch phạm tội của hắn ở trên thuyền, giống như ba lần phạm tội trước, hắn sẽ phanh thây Trần Quảng thành những mảnh lớn nhỏ, rồi dùng má.u tươi của ông ta để hiến tế cho âm hồn vợ chồng giáo sư Từ.
Tạm thời trước mắt, Thẩm Thư vẫn chưa hình dung được chính xác thủ đoạn ra tay của nghi phạm.
Tuy nhiên, cảnh sát đã tiến hành phong tỏa khu vực bờ sông, cho dù phải hành động bất ngờ thì cũng cần nắm chắc thời gian, nếu kẻ tình nghi nổ súng thì sẽ lập tức chặn hết tàu thuyền, bất kì ai cũng không được lơ là cảnh giác.
Sống chế.t của Trần Quảng chỉ trong gang tấc.
Thẩm Thư một tay lái xe, một tay cầm điện thoại gọi cho Vu Ngân Bảo, ra lệnh: “Cậu lập tức liên hệ với ban tổ chức lễ hội, bảo bọn họ nắm rõ tình trạng thuê mượn sử dụng của tàu thuyền, tranh thủ xác định chiếc tàu thuyền mà nghi phạm đã thuê.

Hiện giờ lễ hội đang được cử hành, ban tổ chức chắc sẽ có người trực ban, nếu không có ai thì cậu phải liên hệ được với họ bằng mọi giá!”
Trong lúc Thẩm Thư đang sắp xếp tình hình, tôi và Quản Nguy từ chỗ ở của Từ Kiếm Minh cũng lái xe tới hiện trường lễ hội Vu Lan bên bờ sông.
Đúng 22 giờ, chúng tôi tập hợp cùng nhau bên bờ sông Cự Lưu.
Lúc này trên sông đã có hàng trăm chiếc thuyền buồm đang diễu hành.

Ngoài những con thuyền buồm của Sở Nguyên còn có thuyền mái che của vùng Giang Trì, nhưng đa phần vẫn được làm từ thân tre trúc, giữ gìn màu sắc tự nhiên.

Thân thuyền cong cong như trăng non, thuyền có mái che dài nhưng không lớn, khoang thuyền sâu khoảng nửa mét.

Thuyền buồm hồi trước cần phải có hai người điều khiển, những năm gần đây đã cải tiến thêm động cơ chạy bằng dầu, vừa tiện lợi vừa chạy nhanh hơn, chỉ tiếc là không còn được nhìn thấy những con thuyền chòng chành mang hương vị cổ xưa trên sông nữa.
Hàng trăm con thuyền đi qua đi lại trên mặt sông, có chiếc thuyền buộc dải dây màu trắng, có chiếc treo cờ đen, dưới ánh trăng bàng bạc mờ ảo, khiến người ta cảm thấy như có cơn gió buốt thổi qua, khí lạnh bao trùm, trên thuyền vang lên tiếng khóc than không dứt và tiếng tụng kinh cầu cho linh hồn siêu thoát, nỗi sầu thảm của những người trên sông cùng bầu không khí quỷ dị trùng trùng, khiến người đứng ngoài cuộc cũng khó lòng tránh khỏi thương tâm rơi lệ.

Tôi đứng bên cạnh Thẩm Thư, hỏi: “Đều là cùng một loại thuyền, làm sao biết được trên chiếc thuyền nào có kẻ tình nghi?” Thẩm Thư lắc đầu, không nói gì, nghiến răng, nắm tay siết lại căng thẳng, ánh mắt cậu giống như ngọn đèn quan sát cuộc diễu hành, không một khắc nào rời mắt khỏi mặt sông.
Quản Nguy trong lòng có sự hoài nghi, hỏi: “Đội trưởng Thẩm, làm sao cậu biết được Từ Kiếm Minh sẽ tới lễ hội này? Ở đây nhiều người phức tạp, hắn thật sự có gan ra tay giế.t người giữa đám đông ư?” Quản Nguy giống tôi, nhận được lệnh là lập tức đến ngay bờ sông, hoàn toàn mù mờ, không biết Thẩm Thư căn cứ vào đâu mà khẳng định kẻ tình nghi sẽ xuất hiện ở đây.
Ánh mắt Thẩm Thư vẫn không rời con thuyền trên sông, đáp: “Tôi chắc chắn đến chín phần là có thể tìm thấy nghi phạm ở đây.

Cái hố lớn nhất mà những tên tội phạm giế.t người liên hoàn hay gặp phải là mỗi lần ra tay giế.t người chúng sẽ lặp lại những hành vi cũ, dần dần sẽ thể hiện ra các đặc điểm của chúng như thói quen, tính cách, sở thích, vân vân......!Vậy nên, cho dù hung thủ không để lại bất kì bằng chứng hiện vật nào ở hiện trường thì nhất định chúng cũng sẽ để lại dấu vết tâm lý, kể cả hung thủ có lên kế hoạch kì công cẩn thận đến đâu thì hắn cũng không thể không để lại bất cứ manh mối nào được.

Dấu vết tâm lý Từ Kiếm Minh để lại ở hiện trường chính là sự thù hận và nhạy cảm của hắn, dẫn đến thủ đoạn trả thù của hắn ngày càng điên cuồng, tàn nhẫn và dã man.

Trước mắt, nhà cũ của bố mẹ hắn ở đã không còn, sự lựa chọn tốt nhất cho hiện trường vụ án thứ hai nghiễm nhiên sẽ là nơi chôn tro cốt của bố mẹ hắn.

Nhờ vụ án này tôi mới quen biết Từ Kiếm Minh, thấy được một bộ mặt chân thật nhất của hắn, tôi tin phán đoán của mình không sai.” Thẩm Thư quay sang cấp dưới và cũng là người bạn của cậu, Quản Nguy, nói một tràng không ngừng nghỉ, có lẽ từ lúc đến đây, cậu ấy phải chịu áp lực quá lớn, cần phải nói ra để giải tỏa.

Hơn nữa cậu cũng biết, Quản Nguy sẽ hiểu và ủng hộ mình, từ ngày đầu tiên cậu vào đội cảnh sát, Quản Nguy vẫn luôn ở đây.
Nhưng, cho dù suy luận của Thẩm Thư không sai, nhưng làm thế nào mới tìm được con thuyền duy nhất của nghi phạm giữa những con thuyền gần như giống nhau y như đúc thế này được? Mà cho dù có tìm được ra, thì làm thế nào mới tóm được hắn về quy án trên con sông Cự Lưu tấp nập người này? Từ Kiếm Minh là một quân nhân, được huấn luyện thành thục, bên cạnh hắn còn có những con người đang chìm trong nỗi bi thương, không để tâm đến những người xung quanh, làm thế nào mới có thể bảo vệ được những người vô tội tránh khỏi liên lụy?
Tôi càng nghĩ càng lo, nhìn những con thuyền lượn qua lượn lại trên sông, trái tim như rơi không phanh.

22 giờ 30 phút, mọi người bắt đầu lên đèn, bước vào phần quan trọng nhất của buổi lễ.
Đèn hoa đăng là những chiếc đèn lồng trôi nổi trên sông, thường được những người góa vợ tự chế tạo, cũng có người mua ở tiệm.

Mỗi chiếc đèn đại diện cho một người thân đã khuất, vừa gửi gắm lòng tiếc thương, vừa mang ý nghĩa chỉ đường dẫn lối để người thân được đầu thai.
Đèn hoa đăng đa số rộng một tấc, được làm từ giấy dầu, màng nhựa, vải sa-tanh, bôi một lớp sơn màu đỏ tươi, rồi lại dùng các thanh tre, rơm rạ, dây thép để làm khung, phần đế thì làm bằng gỗ hoặc xốp, đốt một ngón nến để cắm lên mặt đế, chiếc đèn hoa đăng ấy sẽ lắc lư theo dòng chảy.

Có một số người còn trang trí cho đèn hoa đăng, đục bốn lỗ ở góc đế, cắm những bông sen xanh bằng giấy hoặc lụa tơ tằm, làm tăng thêm vẻ tinh tế và trang nhã.
Lúc này các tàu thuyền bắt đầu thẻ đèn, có những tàu thả nhiều đèn cùng một lúc để đỡ tốn công.

Trên mặt hồ nhấp nhô hàng trăm ngọn đèn hoa đăng, ánh nến lung linh, lấp lánh màu xanh đỏ, từ màn đêm nhìn ra, trông vừa đẹp lại quỷ dị.
Sau một hồi lâu im ắng, Thẩm Thư đột nhiên chỉ tay về phía một ngọn đèn, nói: “Nhìn chiếc đèn hoa đăng kia kìa, trông hình dạng rất kỳ quái.” Tôi và Quản Nguy nhìn theo hướng tay cậu ta, trông thấy một chiếc đèn lồng màu vàng nhạt ở lẫn trong sắc đỏ mông lung, không biết vỏ của nó được làm bằng chất liệu gì, trông khá dày, khiến ánh nến không xuyên qua được.

Tay nghề của chiếc đèn lồng đó rất thô sơ, những chiếc đèn khác đều nhìn vuông vức, chế tác tinh xảo, riêng chỉ có chiếc đèn lồng kia thì như lấy bừa một thứ gì đó rồi đậy lên phần khung, trông vội vàng mà qua quýt.

Phần đế lại dày đến kinh ngạc, như thể người chế tác lo chiếc đèn sẽ bị chìm, xem chừng nó có vẻ nặng hơn những chiếc đèn khác một chút.

Chiếc đèn này lẫn trong hàng trăm chiếc đèn hoa đăng tinh xảo khác, rất mất hài hòa.

Nhưng bóng đêm sâu thẳm, ánh đèn ảm đạm, nếu không quan sát kĩ thì cũng chẳng nhận ra.

Tôi nhìn vào chiếc lồng đèn ấy hồi lâu, đột nhiên giật mình, dựa vào linh cảm nghề nghiệp, tôi nảy ra một ý nghĩ đáng sợ, nhưng lại không dám xác nhận.

Tôi ngoái đầu quan sát phản ứng của Thẩm Thư, đúng lúc cậu ta cũng đang nhìn tôi, trong ánh mắt lộ ra vẻ dò xét.

Tôi lắc đầu, tỏ ra không ngờ tới.

Thẩm Thư hỏi: “Là da người?” Tôi đáp: “Trông rất giống.” Quản Nguy thì vẫn chưa hiểu, tỏ ra vô cùng kinh ngạc.
Thẩm Thư nói: “Chiếc đèn lồng đó được thả từ trên một chiếc thuyền ở góc Tây Nam.

Lão Quản, tôi với anh qua đó xem.” Cậu ta nhanh chóng đi đến một chiếc thuyền cứu hộ đang neo đậu trên bờ, chỉ rõ danh tính của mình cho người trên thuyền, nói đang chấp hành công vụ khẩn cấp, cần trưng dụng chiếc thuyền.

Ban tổ chức của Hội bơi thuyền lần này đã chuẩn bị bốn chiếc thuyền cứu hộ, đỗ ven bờ sông Cự Lưu nhằm phục vụ cho những tình huống khẩn cấp.

Người trên thuyền sau khi kểm chứng giấy tờ của Thẩm Thư, không hề tỏ ra phản đối, nhanh chóng giao thuyền cứu hộ cho Thẩm Thư và Quản Nguy.
Loại thuyền cứu hộ có gắn động cơ này, có thể đạt tới vận tốc hơn 20 hải lý trên mặt nước, nhanh hơn tàu thuyền nhiều, hơn nữa thể tích nhỏ, chuyển động linh hoạt, có thể len lỏi qua tàu thuyền, chẳng mấy chốc đã đến được mạn trước một con tàu, thuyền cứu hộ lập tức quay đầu, bơi song hành với con tàu đó.
Tôi đứng trên bờ chỉ có thể thấp thoáng thấy được tình hình trên mặt nước, ruột gan như lửa đốt.

Những người đứng trên bờ quan sát Hội bơi sông thì đang cúi đầu mặc niệm, tỏ lòng thành kính, hoặc chắp tay trước ngực để cầu nguyện, làm sao có thể nghĩ rằng, một trận chiến sinh tử rúng động lòng người đang được diễn ra trên một con tàu ngoài kia..