Mộng Chiếu

Chương 69: Ơn Sâu Nghĩa Nặng




Chập tối hôm trước, Nhiếp Tư Mặc và Tô Mạc Vãn đã có một cuộc nói chuyện nhỏ trong trướng. Cả buổi trời chưa bỏ bụng được cái gì, giờ lại có ngay một đĩa bánh nướng than thơm lừng ngay trước mặt như đang vẫy gọi, Nhiếp công tử đương nhiên phải đến xâu xé ngay và luôn. Thực tình mà nói đây không phải món nàng thích, nó khá khô, tương đối nhạt nhẽo, nhưng trong hoàn cảnh này thì đòi hỏi là một tội cực kỳ lớn.

Đang gặm được nửa chiếc, Tô Mạc Vãn ngồi bên cạnh mới trầm mặc, hình như có chút bự dọc: "Ta không biết rốt cuộc ngươi còn định giở trò gì đây..."

Nàng đặt miếng bánh xuống, vơ lấy cái khăn bên cạnh lau tay, cử chỉ chậm chạp vô cùng, hệt như một con rùa, Tô Mạc Vãn nhìn vào cũng thừa biết kẻ bên cạnh đang muốn tránh né.

Phải uống xong một hớp trà, Nhiếp Tư Mặc mới điềm đạm thưa: "Sư phụ cứ an tâm, kể cả khi ta lâm vào cảnh thân bất do kỷ thì chẳng phải vẫn còn có người đấy sao? Tô lâu chủ xem ra cũng không phải kẻ không có đầu óc, trái lại, tâm địa còn rất khó lường."

Nàng nhấn mạnh cuối câu với một nét mặt quỷ quyệt hiếm thấy, điệu bộ cợt nhả nửa đùa nửa thật ấy không hề phản chiếu những gì nàng nghĩ, không phải nàng đang tự kiêu hay cái gì đó đại loại. Mà chỉ đơn giản đó là thói quen khi nói chuyện mà thôi.

Tô Mạc Vãn nghe được những lời "hồ ngôn loạn ngữ" kia từ miệng của tiểu đồ đệ thì cũng chẳng buồn để tâm. Dù sao hắn cũng thừa biết kể cả có đánh chết thì cũng không đời nào Nhiếp Tư Mặc chịu nói ra những gì nàng thực sự nghĩ trong lòng. Mà kể cả có nói thì cũng chẳng có gì đảm bảo đó là những lời thật tâm. Quá lắm cũng chỉ nên tin một nửa mà thôi.

Rồi chợt nàng nhìn thẳng vào mắt họ Tô, giọng nói pha chút thảm thương: "Sư phụ, ta không hề thần thông quảng đại. Những gì hôm nay người thấy - người cũng biết rồi đó - tất cả chỉ là trò bịp bợm."

Đúng vậy, chẳng hề có "Triệu Thanh Ty" hay "Triệu Minh Kính" nào, cũng chẳng có chuyện người nhà họ Triệu bị đuổi cùng giết tận. Tất cả chỉ là dối trá. Bởi lẽ sự biến Nam Dao khi xưa đã quét sạch toàn bộ những kẻ mang dòng máu Triệu thị.

Nhiếp Tư Mặc chỉ đơn giản là mượn danh nghĩa của người đã khuất, những người đã đổ máu cho lá cờ phục Vệ của Công Tôn Dự mà thôi. Triệu Kinh Giám là thật, câu chuyện về tấm quân lệnh kia cũng là thật. Chỉ có thân phận của nàng và hắn là giả.

Năm xưa khi Thứ sử quận Nam Dao Triệu Kinh Giám bỏ mạng, chính cha của nàng là Nhiếp Hoằng đã trực tiếp đứng ra giải quyết vụ này. Ông cho người bắt lại toàn bộ phản loạn còn sống sót và nhận lấy trọng trách làm Thứ sử tạm thời của quận.

Di vật cuối cùng của Triệu Kinh Giám sau khi bị chém đầu chỉ có duy nhất tấm quân lệnh rướm máu. Nhiếp Hoằng đem nó trở về kinh thành bẩm báo lại với Hoàng đế, như để khẳng định Đại Trưng đã quét sạch hoàn toàn đám loạn thần tặc tử.

Khi ấy Nhiếp Tư Mặc còn rất nhỏ, nàng vô tình được nhìn qua hình dáng của tấm quân lệnh ấy. Kiểu dáng khá thô sơ, chỉ đơn giản là một khối kim loại lớn bằng lòng bàn tay, phần rìa chạm trổ không quá tinh xảo, bị móp méo và trầy xước rất nhiều. Trên mặc khắc một chữ "Định" lớn và sâu. Ngoài ra còn bám trên đó những mảng máu đã khô. Dù thời gian đã trôi đi nhiều năm, hình ảnh ấy phần nào vẫn còn ở một góc nhỏ trong ký ức của thiếu niên tha hương nọ.

Sau này khi biết được đó là di vật của Triệu Kinh Giám, Nhiếp Tư Mặc đã đặt bút phác họa lại tấm quân lệnh qua một bản vẽ và thêm vào đó những chi tiết nhỏ khác, sau đó đưa nó cho bên chế tác của Thiên Cực lâu với mong muốn họ có thể làm giả một cái tương tự.

Khi nhận được thành phẩm trên tay, một người từng được tận mắt nhìn thấy "hàng thật" như nàng phải xuýt xoa ngợi khen trước tay nghề của những thợ đúc ở lâu, quân lệnh được phỏng lại giống đến chín phần, đây là một nỗ lực cực kỳ to lớn. Có được vật này trong tay, nàng có thể chứng thực thân phận của mình trước Công Tôn Dự mà không bị nghi ngờ. Và dường như là đã trót lọt thành công.

Tuy nhiên, nhìn vậy nhưng chưa chắc đã phải vậy. Nhiếp Tư Mặc đủ khả năng để cảm nhận được một phần tâm tư của Công Tôn Dự, và cũng đủ tinh tường để nhận ra rằng ông ta không hề ngốc. Một người già cả như vậy, lại từng lăn lộn nơi quan trường lẫn chiến trường cả nửa đời. Đâu dễ gì bị một đứa trẻ ranh như nàng lừa.

...

Nhiếp Tư Mặc bé giọng thưa: ''Bọn ta biết rõ thân phận và địa vị của mình, mọi sự đã rõ ràng trước mắt rồi, nếu cứ ngồi không như vậy thì chẳng mấy chốc cũng sẽ tiêu tan. Vậy nên từ rất lâu, ta cùng huynh trưởng đã họp bàn với các huynh đệ, cùng thống nhất sẽ tiến hành trao đổi buôn bán với người Tây phương, đây cũng là con đường duy nhất. Thế nhưng... đã gặp phải rất nhiều bất trắc!''

Nàng cụp mắt: ''Chúng ta vốn chẳng hề có chút quan hệ với bất kỳ một chủ thương nào, hàng hóa bị từ chối thẳng thừng dẫu đó đều là đồ tốt. Tất cả đều bởi việc bọn ta không có một thân phận rõ ràng.''

Ngẫm nghĩ một lúc lâu, rồi chợt, lỗ hổng trong câu nói của nàng đã bị lão tướng già nhìn thấu, Công Tôn Dự hỏi: ''Vậy tại sao các cậu không giao thương với người Hồ, điều ấy chẳng phải dễ dàng hơn sao?''

''Bọn ta đã thử rồi, nhưng không thành. Rất nhiều bộ lạc đã quy phục vương triều; những bộ còn lại đều đưa ra chính sách cống nạp rất hà khắc, bởi lẽ chúng tôi là người Trung Nguyên nên việc này bị chúng đặt nặng hơn cả'', hay nói cách khác người Hồ không muốn hợp tác với những kẻ phương Nam, từ đó mới gây khó dễ để họ tự rút lui.

Tất nhiên đây không phải lời nói dối, đó hoàn toàn là sự thật, thông tin này nắm bắt được đều là nhờ đội quân quạ đen của Ôn Kỳ Thiên. Nhiếp Tư Mặc dựa vào đó mà thêm mắm thêm muối vào lời nói để tăng phần đáng thương. Thỉnh thoảng nàng lại dò xét biểu cảm đến ánh mắt của người ngồi trên cao kia, xem ra lão không hề nghi ngờ.

''Vậy... dựa vào đâu mà các cậu cho rằng ta có khả năng ra tay tương trợ các cậu đây?'', lão hỏi với vẻ mặt khó đoán vô cùng. Nhiếp Tư Mặc gãi má, cười cợt: ''Đương nhiên là ngài có khả năng. Ấy, chết, ta không có ý đó! Nhưng chắc chắn một điều rằng, để có thể duy trì cuộc sống cho những thân tín và đội quân của ngài ở nơi nội đồng khô hạn thiếu thốn này thì chắc chắn phần nhiều phải dựa vào nguồn cung cấp bên ngoài.''

Rồi Nhiếp Tư Mặc đứng dậy khỏi chỗ, từ từ đi tới tấm bản đồ da lớn treo ở hai bên cột, chỉ vào đó mà nói: ''Nơi đây nằm ở phía Bắc, điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt. Ở vị trí này chỉ thuận lợi để giao thương với Đột Quyết, thế nhưng những người này lại rất căm ghét người Trung Nguyên. Trừ khi người ấy mang quân quy phục Đột Quyết, giao nộp hết binh tướng thì may ra Khả hãn mới chấp nhận mọi sự cầu xin và ra tay giúp đỡ.''

''Thế nhưng với tính cách của Công Tôn lão nhân thì nhất định sẽ không làm điều nhục nhã ấy, chưa kể quân của ngài giờ đây cũng còn rất ít, nhất định chúng sẽ không vừa ý. Vậy con đường sống duy nhất của ngài chỉ có thể là những thương nhân Tây phương đi dọc trên con đường tơ lụa từ kinh thành. Thế nhưng xét theo trường hợp của bọn ta, những kẻ không có thân phận rõ ràng thì rất khó để có được một mối làm ăn. Và một người bị trục xuất khỏi quốc gia của mình, bị kết tội danh phản quốc lại càng không được phép. Vậy xét trên phương diện khác, hẳn khi còn là Túc Văn vương thì Công Tôn lão nhân đã từng có mối làm ăn với người Tây phương."

Công Tôn Dự không tỏ ra kinh ngạc trước dăm lời nàng nói, những gì lão làm chỉ đơn giản là dội rượu xuống họng, cười khà khà, hỏi một câu cụt lủn: ''Các cậu đã điều tra ta?''

Nhiếp Tư Mặc chắp tay cúi đầu, miệng vẫn không giấu được nụ cười hồn nhiên: ''Không dám, tất cả đều là do ta suy luận ra thôi.''

Lời nàng nói hẳn đã nằm ngoài dự liệu của lão, tất cả đề là suy luận, nghe có hơi khó tin. Công Tôn Dự không tỏ bất kỳ thái độ gì, lão trầm ngâm một lúc lâu, ánh mắt thăm dò xoáy sâu trên người ''Triệu Thanh Ty'' như đang tính toán vài điều, sau cùng cũng rời mắt đi chỗ khác.

Lão biếng nhác ườn ra trên ghế, cất lời với vẻ bình thản: ''Nếu cậu có thể tự luận ra được từng ấy thứ, vậy ta cũng chẳng việc gì phải úp mở nữa. Quả thực để có thể duy trì đến tận hôm nay, bọn ta đã phải bắt tay làm ăn với một vài tay buôn người Tây phương thông qua con đường tơ lụa đã được nhiều năm, cũng coi như là có chút thân quen. Nếu các cậu muốn ta giúp, không phải không thể, nhưng...''

Tô Mạc Vãn đảo mắt về phía người đàn ông già, rồi lại lén nhìn về phía tiểu đệ tử. Hắn đã dự đoán được điều này, cái gì mà chẳng có ''nhưng'', việc lão già đó đưa ra điều kiện cũng chẳng có gì lạ cả. Có ai lại muốn bản thân lâm vào hiểm cảnh mà lại tay trắng đâu.

Thấy vị tiền bối kia như do dự, Nhiếp Tư Mặc lập tức cười giải vây: ''Có gì ngài cứ nói, chúng ta sẵn lòng lắng nghe."

Bất chợt, bên ngoài đại trướng tiếng vó ngựa truyền đến dồn dập.

''Cấp báo!! Chủ thượng, kho lương phía Tây đã bị quân Đột Quyết tấn công!!''

Tô Mạc Vãn lập tức cúi mặt, chỉ thấp thoáng ánh mắt sâu thẳm đen kịt. Lòng bàn tay Nhiếp Tư Mặc đã đổ mồ hôi lạnh từ lúc nào không hay, nàng không tự chủ được mà run khẽ lên. Phải mất một thời gian ngắn mới trấn tĩnh lại, đuôi mắt nàng hơi đỏ, chậm rãi liếc nhìn Công Tôn Dự. Lão gần như đã bất động sau khi nghe cái tin dữ ấy, nó không giống sợ hãi là bao, bởi lão là Chủ thượng, là cánh đại bàng dẫn dắt những kẻ lầm lỡ đáng thương, trong những lúc như này, sợ hãi là điều không được phép!

Công Tôn Dự híp mắt, giọng trầm xuống: ''Tình hình thương vong thế nào? Có biết những kẻ tấn công ấy đến từ bộ lạc nào không? Và cả quân số của chúng nữa.''

*Tộc là lớn nhất, bộ lạc là nhánh nhỏ.

''Bẩm, quân ta bị thương vô số, những đạo quân được phái đến đều là cao thủ. Dựa vào kiểu giáp mà chúng mặc và loại mũi tên sử dụng, cá chắc là quân của A Sử Na Hiệt Dĩ! Còn về số quân, ước tính chỉ có hơn một trăm kẻ, tương đương với một đạo quân.''

A Sử Na Hiệt Dĩ, nàng biết cái tên này! Kẻ ấy chính là Tiểu Khả hãn của Đột Quyết, hắn cũng là người mà nàng suýt bị gả đi thành thê thiếp trong lần cầu thân của mùa đông ấy.

Công Tôn Dự không tiếp tục nhiều lời, lão thuần thục khoác lên mình bộ giác phục lông sói, vơ lấy thanh bảo đao trên giá rồi hô lớn: ''Truyền đi tín hiệu, tập hợp toàn bộ quân tiến thẳng đến phía Tây, bày bố binh theo Nhạn Hành trận*. Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người già và trẻ nhỏ!''

*Nhạn Hành trận: một trận hình nổi tiếng trong binh gia, quân lính sẽ dàn trận theo hình chim nhạn đang duỗi cánh bay.

Vị tướng già hất tung tấm bạt ở cửa, bước đi mang đầy sự quả quyết và uy nghi, dáng hình của Túc Văn vương - Công Tôn Chỉ huy sứ dường như vẫn vẹn nguyên trên bóng lưng ấy. Nó không bao giờ phai mờ theo thời gian, mà có chăng chỉ ẩn giấu đi mà thôi.



''Công Tôn lão nhân xin hãy dừng bước, việc này cứ giao cho huynh đệ bọn ta!'', giọng nói của thiếu niên như vang động cả không gian, cũng theo đó mà Tô Mạc Vãn đứng phắt dậy, tinh thần chiến đấu đang dâng cao, cả hai huynh đệ nhà họ Triệu đều tỏ rõ quyết tâm chỉ qua một ánh mắt.

Công Tôn Dự cả kinh quay người, rồi lại cười khổ: ''Mấy chàng trai à, các cậu đừng náo loạn nữa. Việc này chúng ta sẽ tự giải quyết. Đã thất lễ rồi.''

Họ Tô lập tức đạp bàn lao tới, một tay hắn giữ chặt lấy cánh tay đang nắm bảo đao của Công Tôn Dự, không cau có cũng không nóng vội, hắn vẫn cung kính: ''Ngài cầm đao nửa đời là đủ rồi, giờ cứ để huynh đệ bọn ta giải quyết. Với cái thân thể mang đủ thứ bệnh về tim này thì ngài nghĩ mình có thể chiến đấu sao?''

Lão lập tức ngẩn người, lực tay của kẻ này rất mạnh, một người từng có khối lượng cơ bắp cực lớn như lão cũng phần nào phải kinh ngạc. Đôi mắt nam nhân nọ thon dài mềm mại, lại sâu hoắc tựa Hồ nhân, thân hình hắn có thể cao lớn hơn người thường một chút nhưng vẫn khó tin với sức mạnh thể chất mà hắn sở hữu. Và hơn hết, hắn biết về bệnh tình của lão.

Nhiếp Tư Mặc gấp rút chen vào: ''Huynh đệ chúng ta từng được học về binh pháp và kiếm thuật từ khi còn nhỏ, đủ khả năng để dẫn dắt một đội quân trên chiến trường. Dù biết việc này thực sự có hơi đường đột nhưng xin ngài hãy để bọn ta được đi dẹp yên ngoại thích, tình hình đang rất gấp rút, chậm một giây có thể đi một mạng người!!''

Tim lão lại nhói lên một cơn đau đớn kịch liệt, hai chân cố lắm mới có thể trụ vững, tình hình bây giờ thực sự nguy cấp, mỗi khắc đều quý như vàng như bạc. Để người ngoài tự ý dẫn quân là điều không thể và thậm chí còn trên cả tối kỵ, nhưng nhìn vào hiện giờ mà xem, quân doanh của lão không có tướng, chẳng có một ai đủ kinh nghiệm để dẫn dắt một đoàn binh tiến đánh với man tộc, tình trạng hiện giờ của bản thân lại đang quá tệ.

Nhưng trong tình cảnh này, trước mặt lại chính là hậu duệ của cố nhân, xưa kia Thứ sử Nam Dao nguyện chết vì lão, giờ đây những hậu duệ lại sẵn lòng vì lão mà sinh mà diệt, nếu đến một chút niềm tin cũng không thể trao đi thì mai này khi xuống suối vàng, lão làm sao có thể nhìn mặt Triệu Kinh Giám đây? Công Tôn Dự chẳng còn nói nổi một lời nào, chỉ có thể lấy ra trong áo một tấm lệnh bài, nét mặt đau đớn hiện rõ mồn một. Lão run rẩy đặt lệnh bài vào tay Nhiếp Tư Mặc, ánh mắt như lời phó thác.

Tiếng ưng thét vang trời, lệnh bài sáng chói vung lên cùng giọng nói của thiếu niên: ''Tất cả nghe lệnh, lập tức sơ tán người và rút hết kỵ binh đang trống trả ở phía Tây. Thấy lệnh bài như thấy Chủ thượng, còn ai dám bất tuân?!"

Quân binh ai nấy đều ngờ vực, mệnh lệnh này thực sự quá vô lý! Phía Tây rõ ràng đang cần ứng cứu, kẻ cầm lệnh bài này lại muốn làm điều ngược lại. Thế khác nào là dâng toàn bộ lương thực cho địch?

Ngẫm nghĩ đôi lát, Tô Mạc Vãn bình tĩnh chêm lời: "Điều động hai mươi bộ binh theo ta và tiểu công tử đi về phía Tây. Số binh còn lại lập tức dàn trận phòng thủ quanh đại trướng và các khu vực trọng yếu khác!"

Chỉ hai mươi kỵ binh? "Nhị vị công tử họ Triệu" đang nghĩ gì trong đầu vậy cơ chứ? Phe định ít nhất cũng phải một trăm binh, chỉ với hai mươi kỵ binh phe ta thì sao có thể so bì lại được. Vậy có khác nào lấy trứng chọi đá đâu cơ chứ!!

Thấy tình hình đang chuyển biến theo chiều hướng xấu, Tô Mạc Vãn lập tức đanh giọng: ''Còn không mau truyền lệnh? Hay các người muốn đợt đến khi thấy thân nhân bị chém chết, đầu của Chủ thượng các người bị đem tế Lang thần thì mới tỉnh ngộ?!'', lời hắn như thực sự phát ra uy lực bức người, tín hiệu lập tức được truyền đi trong nháy mắt.

Nhanh như cắt, Nhiếp Tư Mặc và Tô Mạc Vãn đã chộp lấy hai thanh đao được bọc trong vải do thủ hạ ném tới, tiếp đó liền đạp lên ngựa lao vút đi, cát bụi theo móng ngựa mà bay mù trời. Theo cả hai là một đội kỵ binh hừng hực khí thế.

Người dân ở khu vực và binh lính đều đã được sơ tán theo đúng chỉ thị, giờ đây kho lương ở phía Tây chỉ còn lại đám người Đột Quyết của vị Tiểu Khả hãn nọ. Hai sư đồ nhảy xuống ngựa, lớp vải bọc hai thanh đao được tháo tung. Thứ binh khí ấy không phải cái gì khác ngoài Trảm Nguyệt và Thương Hải.

Đạo quân nọ thấy vậy liền lập tức dàn trận, chĩa kiếm về phía cả hai và đội kỵ binh phía sau, hô lớn điều gì đó bằng Thổ ngữ rồi lao đến từ tứ phía. Cách thức chiến đấu của người Hồ tàn bạo như một cơn lốc, từng nhát chém giáng xuống tưởng chừng có thể băm nát kẻ thù, chẳng cần quá nhiều kỹ thuật nhưng như vậy là quá đủ để tiễn bất kỳ kẻ xấu số nào về miền cực lạc. "Kỵ binh" nhảy vọt xuống ngựa, thuần thục rút từ ra bên hông những thanh đoản đao sắc lạnh, không một chút nao núng mà ra đòn đáp trả. Những người này hoàn toàn không phải kỵ binh dưới trướng Công Tôn Dự, hay nói một chính xác, họ là môn hạ của Thiên Cực lâu giả trang vào hàng ngũ quân doanh!

Tô Mạc Vãn vẫn không nóng vội, bước lên hai bước đứng chắn trước tiểu đồ đệ, hắn tì sát đao ở bên hông trái, tay phải đặt lên cán đao, khom người vào sẵn thế thủ.

Chưa đến một cái chớp mắt, khói bốc mù trời, tiếng binh đao lạnh đến gai người vang lên dữ dội. Trong đống hỗn loạn, ánh đao màu bạc tựa trăng ngang tàng trảm xuống xé toạc bốn bề, máu tươi vấy lên đao lại đỏ thẫm diễm tuyệt như hoàng hôn chiều tà.

Thế đao nhanh đến kinh hồn, ấy vậy vẫn toát lên cái dụ hoặc khắc sâu đến từng cái nhìn. Vị sư tổ sáng tạo ra bộ đao pháp này đã phải hao tổn nhiều tâm sức rồi.

Nhiếp Tư Mặc đứng yên một chỗ, từ đầu nàng chẳng hề nhúc nhích dù chỉ một chút, hay nói đúng hơn là gã sư phụ không cho nàng rút đao. Kẻ địch còn chưa kịp chạm vào một mảnh áo của nàng thì đã bị Trảm Nguyệt chém phăng cánh tay.

Cầm theo đao mà không làm gì, có vẻ hơi khó coi.

Theo lý mà nói thì đây là lần đầu nàng được trực tiếp đối đầu với Hồ nhân bằng xương bằng thịt - những kẻ xưa nay vốn nổi danh ngang tàn và bạo ngược. Song cảm giác sợ hãi dường như rất mơ hồ.

Phải chăng cũng bởi có sự xuất hiện của Tô Mạc Vãn ở đây, cảm giác an toàn mới to lớn đến vậy.

Nói đám ngoại tặc này đều là quân tinh nhuệ cũng không quá lời, từ sức mạnh thể chất lẫn khả năng phản xạ đều đạt đến ngưỡng cao thủ. Đến cả những thuộc hạ hàng đầu dưới trướng Tô Mạc Vãn khi giao chiến với chúng cũng gặp không ít trở ngại. Cộng thêm với việc có thể sử dụng nhuần nhuyễn nhiều loại vũ khí khác nhau cùng một lúc như cung nỏ hay đao kiếm, thật không ngoa khi nói những Hồ nhân này chính là "sát thần" trên chiến trường! Trường đao lia đến đâu, sinh mệnh lụi tàn đến đấy.

Hậu duệ của Lang thần*, tuyệt đối là những con sói với nanh vuốt hung mãnh nhất.

*Lang thần hay chính là thần Asena (Mẹ sói/đứa con của sói) trong thần thoại của người Trung Á và cả trong huyền thoại lập quốc của người Turk. Là tín ngưỡng lâu đời của người Đột Quyết (Gokturks) lẫn nhiều dân tộc khác trên thảo nguyên. Cách nói "hậu duệ" ở đây là muốn thể hiện niềm kiêu hãnh trước đức tin và dòng máu của bản thân.

Chỉ tiếc, kẻ chúng đối đầu lại là bậc thầy của đao pháp.

Lục thức: Liệt toái thiên.

Tô Mạc Vãn tung mình lộn một cú trên không trung đồng thời giải phóng hàng loạt các nhát chém, hết nhát chém này lại trồng lên nhát chém khác, dồn dập như từng đợt sóng trắng đánh mạnh vào mỏng đá. Khôi giáp rắn rỏi cũng phải khuất phục trước lưỡi trăng mà vỡ nát. Máu tươi vấy đỏ khung trời.

Nét mặt hắn vẫn bình đạm như cũ, bóng người cao lớn lúc mờ lúc tỏ từ từ hạ xuống trong khói bụi mù mịt. Tay áo người nọ theo đà mà tốc lên để lội cánh tay rắn rỏi sạm màu nổi đầy gân xanh.

Chỉ còn bốn tên, bấy giờ Nhiếp Tư Mặc mới hạ thấp người vào thế thủ, cố gắng đợi chờ sơ hở của Tô Mạc Vãn mà rút đao. Trong một thoáng, lưỡi đao đen như hắc diện thạch vung lên, nó phản chiếu thứ ánh sáng kì lạ từ mặt trời. Tốc độ ra chiêu có thể không là gì so với người kia nhưng không thể phủ nhận được uy lực đáng kinh ngạc ấy. Đặc biệt là khả năng làm phân tán sự tập trung của đối phương cực kỳ hiệu quả.

Nhất thức: Oanh trảm triều vũ - Loạn.

Một dạng biến thể của chiêu thức ban đầu.

Tựa như dòng thủy triều oanh toạc, Nhiếp Tư Mặc di chuyển loạn xạ không theo bất kỳ một quy luật hay trật tự nào, dồn toàn lực vào phần chân để đạp lên tất cả vật cản trên mặt đất, dựa vào lợi thế cơ thể nhỏ bé mà lướt đi đầy linh hoạt.

Chỉ cần chậm rãi xuất hiện rồi lại tức tốc ẩn mình, thay đổi liên tục tiết tấu di chuyển để đánh lừa phán đoán của kẻ địch, và rồi một đòn kết liễu.

Tất cả những kẻ bị nàng hạ đều có một nhát đâm rất sâu ở gáy, đây là điểm yếu chí mạng, cũng là nơi mà khi bị tấn công sẽ rất khó phản ứng kịp. Bốn cú đâm vừa rồi kết hợp cùng việc di chuyển liên tục đã bào đi rất nhiều sức lực của nàng, cánh tay và đôi chân mỏi nhừ đến run rẩy không thôi. Lưỡi đao đen hoắc rút mạnh ra khỏi gáy kẻ địch, mang theo một dải máu đỏ bắn lên nền đất. Đôi tay cầm đao không tự chủ được mà run nhẹ, dẫu cho nét mặt vẫn bình tĩnh nhưng phản ứng cơ thể lại đi ngược hoàn toàn.

Máu tanh khiến nàng ớn lạnh. Nhưng thật may lưỡi đao là màu đen, sẽ không nhìn thấy máu trên đó. Cũng chẳng nhìn thấy bất kỳ ảnh chiếu nào.

Đây không phải lần đầu tiên nàng giết người, đôi tay này vốn đã vấy máu từ rất lâu. Cũng là vùng cổ ấy, cũng là cú đâm ấy. Đêm đông tuyết phủ, máu đỏ nhuộm hồng.

Một cơn đau rát truyền đến, bấy giờ Nhiếp Tư Mặc mới kịp nhận ra nàng đã trúng đòn từ bao giờ, hai nhát chém rõ mồn một ngay bên hông, tuy không quá to nhưng rất dễ để nhìn thấy thứ dịch đỏ đang rỉ từ nơi ấy, từ miệng vết thương. Đây cũng không phải chuyện lạ, lần đầu được thực chiến lại chạm mặt ngay những cao thủ của Đột Quyết, Nhiếp Tư Mặc không bị dính đòn mới là chuyện lạ, nếu không nhờ trước đó Tô Mạc Vãn đã kịp làm suy yếu những kẻ này thì Nhiếp Tư Mặc hoàn toàn không có cửa với chúng.

Phong cách chiến đấu của nàng đi ngược lại hoàn toàn với tinh thần của Kinh Triều đao pháp, bộ đao pháp nói không với việc đánh lén. Bản thân Tô Mạc Vãn cũng cực kỳ ghét việc đánh sau lưng hoặc dùng ám khí, hắn cho rằng chỉ có những kẻ hèn hạ mới làm điều ấy.

Vậy mà giờ đây tất cả những điều hắn ghét đều hội tụ trên người tiểu đồ đệ này.



Nhưng không thể phủ nhận một điều, Nhiếp Tư Mặc đã rất cố gắng, dẫu nàng vẫn chỉ có thể sử dụng được một thức duy nhất nhưng đã biết cách biến tấu nó sao cho phù hợp với hoàn cảnh. Đây đều thành quả đáng ghi nhận của hai thầy trò, trong một tháng bán sống bán chết luyện duy nhất một đòn thức, luyện đến độ hoàn hảo nhất mới chịu nghỉ ngơi.

Nàng thở dốc, đôi tay cầm đao vẫn run rẩy không thôi, đây là lần đầu tiên nàng được thực chiến, cũng là lần đầu tiên dùng toàn lực. Bệnh trong người vẫn còn đó, đã vậy còn không uống thuộc thường xuyên, chỉ trong một thoáng, cơn buồn nôn lập tức ấp tới. May sao nàng đã kịp ngăn lại.

Nhiếp Tư Mặc vẩy máu ở đao rồi tra lại vào vỏ, hít một hơi thật sâu, dồn toàn lực vào hai chân để có thể đứng vững.

"Sao không ở yên đó? Ngươi mà làm sao thì ta không có gánh nổi đâu", lão sư phụ hình như đang tránh cứ nàng thì phải, giọng điệu chẳng hề dễ nghe chút nào, mấy nay khiến hắn phiền lòng quá nhiều rồi. Tô Mạc Vãn cứ lo cho sức khỏe của nàng như thể nhũ mẫu lo cho một đứa trẻ vậy.

Nhiếp Tư Mặc cũng bất lực, nàng cố nặn ra một nụ cười: "Ôi đệ tử không sao, chỉ là chút trầy xước, sẽ mau lành thôi... Chưa kể nếu ta cứ đứng yên một chỗ thì cầm theo đao làm gì."

Nàng cài lại đao vào thắt lưng da, chuẩn bị leo lên ngựa thì chợt nghe thấy một âm thanh lạnh đến gai người. Đó là tiếng tuốt đao. Nhiếp công tử quay phắt lại, đặt tay lên cán đao, sẵn sàng cho tình huống xấu nhất - bị phục kích.

Không.

Đoán sai rồi, đó là Tô Mạc Vãn! Hắn tuốt đao khỏi vỏ, chỉ trong tích tắc ánh đao sáng lóe lên, một đường chém ngọt xẹt ngang trên tay họ Tô.

Máu chảy đẫm áo, nhỏ từng giọt lên nền đất lạnh. Tô Mạc Vãn vẫn bình chân như vại, nét mặt dửng dưng như cũ.

Mồ hôi lạnh túa ra trên trán Nhiếp Tư Mặc, nàng cứng họng, mặt mày vốn đã thiếu sức sống nay lại tái đi trông thấy. Tô Mạc Vãn không bận tâm nhiều mà tra lại đao vào vỏ rồi lặng lẽ leo lên ngựa, dường như cơn đau chẳng thấm thía vào đâu, hắn ung dung bảo:

"Công Tôn Dự không phải kẻ ngốc. Ta trở về mà không có chút thương tích nào thì thật đáng ngờ."

"Nhưng vết thương đó quá lớn!'', nàng không cam lòng mà thốt lên rồi lại đảo mắt nhìn xem phản ứng của những thủ hạ kia, và có lẽ đó là một sai lầm cực lớn, bởi nó khiến nàng hoài nghi lòng dạ con người: Bọn họ hoàn toàn không có bất kỳ cảm xúc nào trước cảnh vị thủ lĩnh tự làm thương chính mình.

Cứ ngỡ bản thân của bây giờ đã vô tâm vô tình lắm rồi, đâu có ngờ trên cõi đời còn lắm chuyện vô thường hơn cả.

Thanh đao Nhiếp Tư Mặc và Tô Mạc Vãn sử dụng là loại đao cong một lưỡi thiết kế theo kiểu cách vũ khí của Đông Doanh. Nó không mạnh trong khoản đâm nhưng lại cực kỳ lợi hại trong việc chém. Chỉ một đường cứa nhỏ, loại đao cưa sắt xẻ ngọc này hoàn toàn có thể để lại thương tích chết người!

Tô Mạc Vãn nói trong sự trống rỗng: ''Được rồi, không cần nói nhiều nữa. Ta hoàn toàn ổn, đây là mệnh lệnh của người làm thầy, ngươi không được cãi lại. Và cũng hãy nhớ kỹ câu này, ta sẽ làm tất cả vì Thiên Cực lâu.''

Hắn có thể làm bất kỳ điều gì vì lâu, nàng cũng bất chấp tất cả, kể cả đó là chà đạp lên sơ tâm để đoạt lấy cái mà nàng khát cầu. Vốn dĩ đều là những kẻ cứng đầu như nhau, Nhiếp Tư Mặc chẳng có tư cách gì để báng bổ sự ngoan cố của hắn.

Nhưng, cái mà nàng khát cầu, nó là gì?

Xác của một toán quân nằm la liệt dưới đất, "Triệu Thanh Ty" cắn chặt môi, phủi đi toàn bộ những suy nghĩ vớ vẩn trong tâm trí, rút nỏ bắt lên trời ra tín hiệu cho đội quân của Công Tôn lão nhân đến xử lý nốt phần còn lại.

Cuộc phản đòn coi như đã thành công mỹ mãn nhờ hai vị công tử.

...

Tin tức rất nhanh đã truyền đến tai Công Tôn Dự. Ngoại thích đã bị giết sạch không chừa một tên, quân binh phe ta trước đó bị thương nhẹ nhưng ít nhất không có ai vong mạng. Trên hết, lương thực trong kho vẫn vẹn nguyên.

Công Tôn Dự thầm thở phào, cởi bỏ giáp phục xuống, bấy giờ cơn đau nhói ở tim mới chịu dịu đi phần nào.

"Triệu Thanh Ty" cùng "Triệu Minh Kính" đồng loạt quỳ rạt trên đất, thiếu niên nhỏ tuổi nói với vẻ tự trách: "Chúng tiểu nhân kém cỏi, không thể truy bắt tận cùng tên chủ tướng phe địch."

Máu từ vết thương trên tay Tô Mạc Vãn cứ rỉ không ngừng, một nửa vạt áo bị nhuốm đỏ không còn nhìn ra màu sắc lúc đầu. Còn về phần Nhiếp Tư Mặc, nàng đã quấn quanh eo một tấm vải dày khác, nhìn qua chẳng hề thấy dấu vết của việc bị thương.

Lão Công Tôn vội đỡ hai huynh đệ nhà họ Triệu dậy, xót xa nhìn thương tích trên tay "Triệu Minh Kính", nơi đáy mắt không giấu nổi sự áy náy tột cùng.

"Ta có thể quở trách các cậu vì điều gì đây? Trong tình cảnh cấp bách, việc bảo vệ địa bàn và quân lương là trọng yếu, những thứ khác chỉ là thứ yếu mà thôi."

Bàn tay già nua chai sần của vị bại tướng đặt lên vai "Triệu đại công tử", cái đau thương như hằn sâu trên từng ánh nhìn, trên mỗi cử chỉ.

"Triệu Kinh Giám ơi... nợ này bao giờ mới trắng?", mắt lão xám ngoẹt, cái giọng khàn khàn cất lên sao mà u oán. Như chẳng phải nói với người trước mặt, mà là với một mảnh hồn xa xăm.

Dẫu cho hiện thời máu đổ xuống không phải vì lá cờ phục Vệ, nhưng nó vẫn đổ vì một vị chủ tướng duy nhất.

Công Tôn Dự buông tay, cũng buông xuống sự tăm tối của lồng giam quá khứ, khoác lại lên mình cái oai nghiêm cứng cỏi vốn có. Lão nhìn hai huynh đệ trước mặt, ánh sáng của mặt trời chiếu vào đại trướng mà trước nay luôn u tối, như chiếu vào đây cái gọi là niềm tin và con đường. Thứ ánh sáng mà trước kia đã từng vụt tắt.

"Bằng cả tính mạng, Công Tôn Dự ta nguyện hậu thuẫn hai vị đến cùng. Dẫu có lên núi đao hay xuống biển lửa."

Nhị vị công tử quỳ gối thành kính:

"Chúng tiểu nhân xin khắc ghi ân điển của Công Tôn đại nhân."

___

Một fact nhỏ mà tự nhiên tôi nhớ đến nên muốn chia sẻ: Thực ra ban đầu anh Vãn không phải tên Tô Mạc Vãn như bây giờ đâu. Mà cái tên đầu tiên tôi đặt cho anh ta là Bạch Kiều Tư -)))

Không biết bạn thấy sao về cái tên này nhỉ. Chứ tôi thì khá thích đặt tên cho nam với những từ ngữ mang âm điệu mềm mại, có thể hơi nữ tính một chút (không biết diễn đạt sao nhưng với tôi thì nó khá thú vị, kiểu tạo ra một sự đối lập nhẹ ấy). Cơ mà cuối cùng tôi vẫn quyết định đặt lại cái tên khá cho anh, một phần vì tên Mạc Vãn có ý nghĩa lớn với những gì xảy ra xung quanh anh ta, phần vì chữ "Tư" vô tình sao lại trùng với chữ "Tư" trong tên của chị Mặc.

Dẫu vậy tôi vẫn thích chữ "Kiều" quá đỗi, cho nên cũng đã từng nghĩ đến cái tên "Mạc Kiều", nhưng rồi cuối cùng vẫn quyết định giữ lại cái tên Mạc Vãn bây giờ. Còn về cái họ, tại sao không giữ nguyên là Bạch mà lại đổi thành Tô, đơn giản vì với tôi chữ Tô đọc lên tạo cảm giác mềm mại và dịu dàng (giống như sông nước vậy), (còn anh ta có dịu dàng không thì bạn cứ tự mình cảm nhận thôi nhe :33)

Nói chung là tôi rất ưng ý cái tên Tô Mạc Vãn này. Nếu bạn thấy thấy thú vị thì tôi có thể chêm vào cuối chương một số fact nhỏ về các nhân vật, và cả quá trình tạo dựng một nhân vật nào đó, coi như để giải trí sau mỗi chương nhỉ.

P/s: Không liên quan lắm nhưng phần Ngoại truyện 3 của Uyển Nhi thì tôi có nhắc đến từ "gia gia". Ở đây nhân vật gia gia là ông của Uyển Nhi chứ không phải cha nhe. Đây là sai sót của tôi khi không soát lại truyện trước khi đăng cũng như không sàng lọc thông tin kỹ từ trước đó. Nói tóm lại thì là ông cháu chứ không phải cha con. Một lần nữa tôi thực sự xin lỗi.

Góc có thể bạn đã biết từ lâu: Đao Trảm Nguyệt và Thương Hải đều là Uchigatana/Katana của Nhật chứ không phải dạng đao siêu to khổng lồ như trong phim kiếm hiệp.