“Hai tháng trước Tư mã[1] Thương Dao dâng thư báo ở Thương Dao xuất hiện hạn hán, Trẫm đã sắp xếp cho phát vật tư cứu tế, thế sau hai tháng Thương Dao đã có tình hình mới chưa?” Trên điện Thái Hòa, Đàm Văn Hạo ngồi trên kim loan bảo tọa bình tĩnh hỏi quần thần đang đứng ở trung ương chính điện. Cuối cùng, ánh mắt người rơi lên người Đỗ Tể tướng, “Tể tướng chắc là có thủ tục liên quan muốn thượng tấu?”
“Hồi bẩm Hoàng Thượng, thần đúng là đang muốn báo việc này lên Hoàng Thượng!” Đỗ Khang Vĩnh rời hàng, đứng ở chính giữa, hơi khom người trả lời, “Tư mã Thương Dao dâng thư, trong hai tháng này, mặc dù Thương Dao không có mưa, nhưng trăm họ Thương Dao với sự giúp đỡ của triều đình, cuộc sống vẫn có thể tiếp tục. Xin Hoàng Thượng bớt lo.”
“Ồ?! Xem ra Trẫm đã lo bò trắng răng rồi!” Đàm Văn Hạo không thể hiện ra mặt điều gì, sự lạnh lẽo thoáng qua trong mắt không biết có triều thần nào phát hiện hay không.
“Hoàng Thượng ưu quốc ưu dân, là phúc của dân chúng Phỉ Á.” Đỗ Khang Vĩnh đứng thẳng người, khóe miệng có ý cười nhàn nhạt.
“Thật hổ thẹn!” Đàm Văn Hạo than khẽ, mang vẻ tự trách sâu sắc. “Trẫm tuy quý vi thiên tử lại chưa thể thấu hiểu nỗi khổ của dân chúng, chưa thể che chở cho dân chúng, cũng chưa thể thấu đáo lòng dân, thăm hỏi dân chúng.”
“Hoàng Thượng bận rộn quốc sự, nào có thể lấy thân thể quý giá đích thân tới chốn dân gian?” Đỗ Khang Vĩnh an ủi. “Huống hồ Hoàng Thượng đã mở kho phát lương, cứu tế nạn dân. Dân chúng đương nhiên sẽ ghi sâu ân tình của Hoàng Thượng trong tâm khảm.”
“Ừm, Tể tướng nói rất đúng!” Đàm Văn Hạo cười nhẹ, kèm vài phần nhẹ nhõm, “Cho nên, Trẫm dự định điều một khâm sai tuần tra Thương Dao, thay mặt Trẫm trấn an dân chúng.” Nói tới đây đột nhiên tốc độ lời nói thay đổi, mặt mày nghiêm túc, “Đỗ Dạ Hàn tiến lên nghe lệnh!”
Đỗ Dạ Hàn bước ra, quỳ xuống: “Thần Đỗ Dạ Hàn nghe lệnh!”
“Thương Dao hứng chịu thiên tai, dân chúng khổ sở không nói nổi, Trẫm đặc biệt phong Đỗ Dạ Hàn làm khâm sai đặc sứ chấn tai[2] giúp nạn, lập tức lên đường đến Thương Dao phân phát lương thực, trấn an nạn dân. Ban Thượng Phương bảo kiếm, nếu có quan sai cắt xén của cải quốc nạn, tham tang uổng pháp[3], có thể tiền trảm hậu tấu! Đỗ ái khanh, đây là chuyện liên quan đến mấy vạn mạng người, khanh biết làm việc công bằng, vì dân thỉnh mệnh[4] chứ?”
“Thần nhất định không làm nhục thánh lệnh, vạn tử bất từ!” Giọng nói Đỗ Dạ Hàn sang sảng vang lên, người phủ phục trên mặt đất.
Đỗ Khang Vĩnh sắc mặc lạnh lẽo, ánh mắt trầm xuống; Đàm Văn Hạo lại còn hơi nhếch môi: “Tể tướng có đề nghị gì sao?”
“Chính sách của Hoàng Thượng rất tốt, thần không có đề nghị gì!” Đỗ Khang Vĩnh trả lời mà trên mặt không biểu hiện gì. “Thần có việc bẩm báo, tân khoa Trạng nguyên trong kỳ thi toàn quốc năm ngoái đợi chức đã lâu, mà nhiều chức vụ quan trọng trong Trung Thư Tỉnh[5] vẫn còn trống, xin Hoàng Thượng cho tân khoa Trạng nguyên nhậm chức!”
“Tân khoa Trạng nguyên hôm nay có lên triều không? Là vị nào? Là người ở đâu, là môn sinh của vị đại thần nào?” Đàm Văn Hạo không chần chờ, mạn bất kinh tâm hỏi.
“Thảo dân Mao Thu Thánh bái kiến Hoàng Thượng.” Từ trong hàng ngũ triều thần, một người bước ra rồi quỳ trên mặt đất, mặc trang phục Trạng nguyên, tác phong ôn nhã thư sinh, “Thảo dân là người Thương Dao, là môn sinh của Tể tướng đại nhân ạ.”
Người Thương Dao? Môn sinh của Tể tướng đại nhân? Đàm Văn Hạo hơi nhướng mày, mỉm cười: “Mao Thu Thánh nghe phong: Thương Dao hạn hán nghiêm trọng, người vật đều thiếu nước, Trẫm đặc biệt phong Mao Thu Thánh làm Cầu thủy Đại sứ, phong quan ngũ phẩm, trong ngày hôm nay về ngay Thương Dao nhậm chức, đợi sau khi vấn đề hạn hán ở Thương Dao được giải quyết thì trở lại kinh thành nghe phong.”
Cả người Đỗ Khang Vĩnh hơi rung lên, khom người thành khẩn nói với Đàm Văn Hạo: “Hoàng Thượng, Mao Thu Thánh tuổi còn quá trẻ, sợ là không thể đảm nhận trách nhiệm này.”
“Để hắn ra sức vì chính quê hương của mình, chẳng lẽ còn muốn thoái thác sao?” Đàm Văn Hạo hơi lên giọng. “Mười năm chăm chỉ đèn sách không phải vì báo đáp công ơn của triều đình hay sao? Giờ đây chính là lúc dùng người trong triều, làm sao hắn có thể từ chối? Thánh nhân đã dạy: đạt tắc kiêm tể thiên hạ[6]. Huống chi là vì nơi sinh dưỡng của mình mà ra sức! Lẽ nào chỉ cần một câu tuổi còn trẻ là có thể phủ định hết sao? Hắn là tân khoa Trạng nguyên do chính Tể tướng chọn, không lẽ Tể tướng lại hoài nghi chính con mắt nhìn người của khanh sao? Hay là hắn sợ làm không xong, ngay cả chính thức làm một chuyện vì dân chúng cầu phúc cũng không thể?”
Đỗ Khang Vĩnh trong lòng cả kinh, hành động này của Hoàng Thượng liệu có phải là muốn phân tán toàn bộ thế lực của mình đến các địa phương hay không? Mà còn là chức quan hữu danh vô thực này? “Nhưng mà, Hoàng Thượng, hạn hán ở Thương Dao qua chưa lâu, mà hạn tình đã…”
“Thần nguyện ý lĩnh chỉ!” Mao Thu Thánh đột nhiên đứng thẳng người lên, hai mắt ngập tràn sự xúc động. “Thần nguyện vì dân chúng Thương Dao tận sức, bằng lòng cứu dân trong cơn nước sôi lửa bỏng! Hoàng Thượng nói, nếu như ngay cả với quê hương của mình cũng không thể báo ân, thì báo hiếu với triều đình thế nào? Trăm họ Thương Dao đang trong cơn nước sôi lửa bỏng, Thần cũng lo lắng sâu sắc cho sự sinh tồn của phụ lão trong nhà! Hoàng Thượng phái thần về Thương Dao, không chỉ thành toàn nỗi nhớ quê của thần, mà còn thành toàn tâm nguyện muốn vì Thương Dao cống hiến một phần sức lực của thần!”
“Hảo chí khí!” Đàm Văn Hạo vỗ tay nhẹ nhẹ, khen ngợi. “Sớm nghe nói về tân khoa Trạng nguyên chính là môn sinh đắc ý nhất của Tể tướng, quả nhiên là lòng dạ trăm họ thiên hạ! Thường nói, vì dân cầu phúc mới là gốc rễ làm quan, nước có thể đẩy thuyền cũng có thể lật thuyền, nếu như dân chúng không thể tiếp tục sinh sống, vậy các ngươi làm quan có thể sinh sống tiếp không? Cho nên! Mục đích ban đầu khi tham gia khoa cử của Mao ái khanh là gì? Chẳng lẽ thực chỉ vì rạng danh thiên hạ nhất triều, quang tông diệu tổ? Chẳng lẽ chỉ vì lợi ích của bản thân, mưu cầu vinh hoa? Đương nhiên không phải! Mao ái khanh nguyện tiếp nhận công sai khổ cực này, đã có thể thấy được, Mao á khanh ưu quốc ưu dân, tương lai chắc chắn sẽ là một vị quan tốt vì dân thỉnh mệnh!”
“Tạ ơn Hoàng Thượng tán thưởng!” Mao Thu Thánh mặt mày rạng rỡ, bò sát dưới đất. “Thần nhất định tận dụng mọi khả năng, hoàn thành phó thác của Thánh thượng, cũng vì người dân Thương Dao mưu cầu phúc lợi!”
Đúng lúc ấy, bên ngoại đại điện có tiếng ồn ào, hơn nữa thanh âm càng lúc càng lớn. Đàm Văn Hạo tập trung lắng nghe, ra là Hồng Trù ầm ĩ muốn vào trong, nói Hoàng Hậu có biểu gián thư[7] cần dâng lên. “Ai đang ồn ào ngoài điện? Càng ngày càng không có quy củ gì cả!” Đàm Văn Hạo lạnh giọng. “Lưu công công, đi lôi người đang náo loạn ngoài điện vào!”
“Hồng Trù tham kiến Hoàng Thượng, Hoàng Thượng vạn tuế!” Hồng Trù vừa tiến vào, liền quỳ rạp xuống đất, nhút nhát dập đầu, run rẩy thỉnh an, không dám nhìn chúng triều thần đang đứng trong chính điện. “Hồng Trù biết tự ý xông vào điện Thái Hòa là tội chết, nhưng nương nương có biểu thượng tấu, Hồng Trù dù có mất mạng cũng phải xông vào giao cho Hoàng Thượng!” Vừa nói, Hồng Trù vừa run run chuyển lên phong thư trong tay rồi lui ra ngoài.
Đàm Văn Hạo nhận thư từ tay Lưu công công chuyển lên, mặt không thể hiện gì đọc hết bức thư, rồi thu lại, đưa cho Lưu công công đứng một bên: “Mao ái khanh, Hoàng Hậu đối với việc trị hạn tại Thương Dao như thế nào có chút quan điểm, khanh là người Thương Dao, đối với tình trạng địa lý Thương Dao cũng tương đối hiểu rõ, khanh cầm lấy xem thử xem!”
“Vâng!” Mao Thu Thánh tiếp nhận bức thư, bình thản mở ra, vật đầu tiên đập vào tầm mắt là hai bức tranh, nhìn qua như là loại thủy xa đương thời nông dân vẫn sử dụng[8], nhưng có một chút khác so với loại thủy xa đó: thủy xa đương thời đều là dùng sức người dẫm lên thủy xa kéo thủy xa di chuyển từ thấp lên cao lấy nước, mà loại trên giấy này lại là đặt một trục chuyển động được ngang một bên, dùng một vật gì đó hình con ngựa dẫn động; thân xe thủy xa đương thời thì ngắn, chỉ có thể vận chuyển nước với khoảng cách ngắn thôi, mà thủy xa này, thân xe dài hơn hẳn, trục chuyển động rất cao, bên cạnh có chú thích mấy chữ ‘dùng với nơi có địa thế dốc thẳng đứng’[9]. Mao Thu Thánh không hiểu đây là ý gì, sau khi xem tiếp tất cả nội dung bức thư, Mao Thu Thánh không thể không bội phục vị Hoàng Hậu nương nương này! Trong thư, Hoàng Hậu không chỉ viết rất rõ ràng toàn bộ chi tiết cách chế tạo và nguyên lý sử dụng của loại thủy xa đã cải tiến này, mà còn dặn dò kỹ địa điểm cũng như phương pháp sử dụng cụ thể, đồng thời cũng đưa ra chút ý kiến cực kỳ khả thi cho Thương Dao thời điểm sau kháng hạn: như mùa hạn thì tu sửa và đào thêm thủy trì, xây đập chắn nâng cao, đến mùa mưa thì dùng những thứ đó giữ nước; nhưng Hoàng Hậu nương nương cũng có nhắc tới mấy cách mà Mao Thu Thánh hoàn toàn không hiểu, như đào một giếng sâu ở bình nguyên trước núi.
“Mao ái khanh nghĩ thế nào về quan điểm Hoàng Hậu viết trong thư?” Đàm Văn Hạo nhìn vẻ mặt phong phú của Mao Thu Thánh khi mừng rỡ khi nghi hoặc, cũng tò mò muốn biết suy nghĩ hiện giờ của Mao Thu Thánh.
“Hồi bẩm Hoàng Thượng!” Mao Thu Thánh vui mừng cung kính trình thư lên, “Biện pháp của Hoàng Hậu nương nương rất hay, Hoàng Hậu cũng biết ở trăm dặm bên ngoài Thương Dao có một Thương hà (con sông xanh). Con sông này kinh qua cả năm hạn hán cũng chưa từng đoạn lưu[10], nương nương đề nghị dẫn nước từ Thương hà đến Thương Dao, còn viết rất tỉ mỉ biện pháp áp dụng cụ thể; đồng thời nương nương còn cải tiến rồi công cụ tưới nước ngày nay thường dùng – thật sự có thể nói đó là một sáng kiến! Hoàng Hậu nương nương thật là có tài cử thế[11]!”
“Nói cách khác, những biện pháp Hoàng Hậu đề ra rất khả thi?” Đàm Văn Hạo cười nhẹ, tối qua khi nhắc tới Thương Dao, mặc dù nàng nửa ngủ nửa tỉnh, nhưng nàng cũng đặt việc này trong lòng.
“Cái này… Thần không dám cam đoan!” Mao Thu Thánh có gì đó chưa nói, lại có điều chần chờ. “Thần… Hoàng Thượng, xin cho phép thần gặp mặt Hoàng Hậu nương nương, xin Hoàng Hậu nương nương giải đáp những chỗ thần không hiểu!”
“Chuẩn!” Đàm Văn Hạo cho phép, nhìn về phía Hồng Trù. “Hồng Trù, đi truyền Hoàng Hậu tới điện Thái Hòa!”
Đàm Văn Hạo vừa dứt lời, các triều thần liền nghị luận rào rào: đương kim Hoàng Hậu là con gái của Đỗ Khang Vĩnh, Hoàng Thượng tuyên Hoàng Hậu vào điện Thái Hòa, việc này… Chưa nói đến cử chỉ của Hoàng Hậu hôm nay có dấu hiệu Hậu cung can chính. Hơn nữa Hoàng Thượng hình như còn cho phép Hoàng Hậu can chính! Việc Hoàng Hậu can chính đối với việc ngoại thích nắm quyền có quan hệ rất lớn! Mà chuyện bất hòa giữa Hoàng Thượng với Tể tướng cũng không phải ngày một ngày hai, mặc dù hôm nay người liên tiếp trọng dụng những người có liên quan tới Đỗ gia, nhưng bây giờ ngay cả con gái Đỗ gia cũng nhảy vào, những chuyện này rốt cuộc là hát ở đâu ra?! Chẳng lẽ Hoàng Thượng đã bị người nhà họ Đỗ khống chế?!
Hồng Trù vừa nghe lệnh, trong phút chốc mặt lộ vẻ khó xử, đầu cúi thấp, ấp úng: “Hồi bẩm Hoàng Thượng, nương nương hiện giờ đang nghỉ ngơi, người nói, kể cả trời sập hay Hoàng Thượng cho triệu cũng không được quấy rầy!” Nghĩ tới đây, Hồng Trù lo lắng Đỗ Hiểu Nguyệt khiến Hoàng Thượng mất hứng mà bị phạt, liền tự chủ trương bồi thêm một câu, “Giờ Mão[12] Hoàng Thượng vừa rời đi, Nương nương liền đi tới Tàng thư lâu[13], ở đó một mạch tới giờ Thìn một khắc[14] mới quay về Chiêu Dương cung, tiếp đó thì ngồi viết vẽ chấm chấm vòng vòng lâu lắc. Tới giờ Thìn ba khắc thì buông bút rồi giao cho nô tỳ phong thư này, lệnh cho nô tỳ mang tới điện Thái Hòa thật nhanh.”
Triều thần nghe vậy lại bắt đầu rộ lên xôn xao. Hoàng Thượng muốn triệu kiến Hoàng Hậu, còn phải xem tâm tình Hoàng Hậu thế nào! Xem ra, mặt mũi Hoàng Hậu cũng lớn quá đi, lại dám bừa bãi như thế! Có điều, nếu như thực sự trong vòng thời gian ngắn như vậy mà Hoàng Hậu có thể nghĩ ra một kế hoạch trị hạn tốt, thì không thể không nói, vị Hoàng Hậu này thật có chút tài năng, mà lại còn can dự quốc sự, chỉ e nàng ta có dã tâm lang sói!
Đàm Văn Hạo gật nhẹ đầu, đối với lời Hồng Trù nói thì không có ý kiến gì — đã sớm lĩnh giáo tính tình Đỗ Hiểu Nguyệt rồi, nói nàng đang nghỉ ngơi chi bằng nói nàng lười chẳng buồn qua bên này còn hơn! “Trưa nay Mao ái khanh lại vào cung gặp mặt Hoàng Hậu đi.” Đàm Văn Hạo phất tay ý bảo Mao Thu Thánh lui ra. “Chúng thần còn chuyện gì muốn thượng tấu không?”
Đồng Thị lang bước lên một bước: “Hoàng Thượng, vị trí Trung Thư Thị lang của Trung Thư Tỉnh đã khuyết từ lâu, xin Hoàng Thượng định đoạt.”
“Trung Thư Thị lang?” Đàm Văn Hạo lạnh lùng nói, mắt chuyển hướng liếc nhìn Đỗ Khang Vĩnh, nhưng mặt lại thẳng phía Đồng Thị lang, “Đúng rồi, Dương Châu Thái thú Đoạn Thủy Đức không làm việc nhiều năm rồi, có nhiều ý kiến đóng góp, nghe nói hắn đã về kinh dưỡng bệnh nửa năm nay, vừa đúng lúc lắm. Truyền lệnh, Đoạn Thủy Đức khiên tốn bổ làm Trung Thư Tỉnh Thị lang, ngày mai lập tức nhậm chức.” Từ xưa tới nay, Đoạn Thủy Đức không hòa hợp với Đỗ Khang Vĩnh, Đoạn Thủy Đức từng làm thiếu phó[15] của Thái tử, sau bị Đỗ Khang Vĩnh lật đổ, bị đuổi ra khỏi kinh thành.
Đỗ Khang Vĩnh dường như bị đả kích rất mạnh, sắc mặt rốt cục cũng thay đổi, hơi tím tái, chòm râu hoa râm khẽ động, cuối cùng lại không nói gì, Đàm Văn Hạo cũng giữ nguyên tư thế, mặt mày uy nghiêm: “Chúng thần còn chuyện gì nữa không? Không có thì lập tức bãi triều!”
“Thần có việc khải tấu!” Trương Thượng thư đứng ra, vẻ mặt nghiêm túc, “Hoàng Thượng, hành vi hôm nay của Hoàng Hậu chính là đang can thiệp vào quốc gia đại sự, từ xưa đến nay, Hậu cung không được can chính! Bây giờ Hoàng Hậu phạm vào đại kỵ như thế, Hoàng Thượng không thể nhân nhượng dung túng, tránh ngày sau dưỡng hổ vi hoạn[16]!”
Các quan lại khác nghe xong, trừ cha con họ Đỗ gia và Mao Thu Thánh, đều thuận theo lời Trương Thượng thư, nói ba lần liên tiếp, Hồng Trù đứng hầu một bên nghe được liền sợ hãi run rẩy, lo lắng ra mặt nhìn Đàm Văn Hạo, nhưng Đàm Văn Hạo vẫn không thay đổi sắc mặt ngàn năm như một ấy, một chút thể hiện thôi cũng không có, rất muốn đứng ra thay Đỗ Hiểu Nguyệt giải thích, nhưng lại sợ mình càng nói càng đổ dầu vào lửa!
Ánh mắt lạnh lẽo quét một lượt đám triều thần, Đàm Văn Hạo ung dung buông một câu: “Hoàng Hậu là vợ của Trẫm, vợ phân ưu cùng chồng là chuyện đương nhiên! Huống chi chuyện nhà của Trẫm có quan hệ gì với chúng khanh?! Trẫm có nuôi hổ hay không, Trẫm tự biết! Bãi triều!” A! Đỗ Hiểu Nguyệt thực là hữu lực vô tâm[17], nàng trước nay không hề có hứng thú đối với mấy việc này! Nhưng cử chỉ của nàng hôm nay có ý gì?
Nhìn Đàm Văn Hạo phất tay áo bỏ đi, để lại một đám triều thần mỗi người một tâm tư nhìn ngó lẫn nhau, phỏng đoán thế cục hiện giờ – Hoàng Thượng hình như rất thiên vị Hoàng Hậu, ngay cả việc Hoàng Hậu công nhiên tham chính cũng tha thứ dễ dàng! Có điều, những người khác có thể không có sắc mặt khó coi, nhưng sắc mặt Đỗ Khang Vĩnh lại nặng nề, tỏ vẻ tức giận xoay người rời đi!
…
“A! Muội thật đúng là sẽ tìm chỗ ngủ mà, không sợ rơi từ trên cây xuống sao?”
Mặt ngứa ngứa như bị con sâu bướm bò qua, Đỗ Hiểu Nguyệt mắt mũi lờ đờ dụi dụi mặt, rồi nghe thấy một tiếng cười vui vẻ rất êm tai, khi đó mới mở mắt ra hẳn. Một ánh sáng trắng như ánh trăng non đập vào mắt, vẻ tươi cười ôn nhã mà đáng yêu thật quen thuộc. Hiểu Nguyệt nghiêng người tựa lên cây cười ha ha, nghếch đầu hỏi khẽ: “Ý? Hôm nay sao huynh không đến điện Thái Hòa à?”
Đàm Văn Bác liền lại gần, ngồi xuống nhánh cây gần chỗ Đỗ Hiểu Nguyệt đang ngồi, vừa cười vừa nhìn Hiểu Nguyệt: “Sao sáng sớm nay đã cải trang chạy tới đây? Những người khác không tới thỉnh an muội sao?”
“Hừ! Chính vì sợ đám người ấy mới phải chạy đó!” Hiểu Nguyệt thở phào một hơi, nghĩ tới đám phụ nữ điểm trang diêm dúa dán đôi mắt đỏ kè vì ghen tức vào mình, nói mấy lời không ra chủ đề gì, toàn thân trên dưới chẳng lấy gì làm dễ chịu, tốt hơn hết là trốn đi! “Ai da, huynh còn chưa trả lời sao hôm nay lại không lên triều đấy! Chắc là lén chuồn đi chứ gì?”
“Hôm nay là ngày giỗ của mẫu phi ta.” Đàm Văn Bác nói một lời nhẹ nhõm, tựa như không hề buồn phiền. Nhưng Đỗ Hiểu Nguyệt lại cảm nhận được nỗi mất mát của hắn.
Sau một hồi không khí hơi trầm lắng, Hiểu Nguyệt mím môi, rồi cười nhẹ, mắt mở tròn nhìn mấy chiếc lá xanh trước mặt cho tới khi trong mắt mơ hồ một màu xanh của lá cây: “Ít nhất so với muội huynh còn tốt chán, sống ở đây muội chẳng có thứ gì!” Mắt cay cay, nơi khóe mắt cũng ứa nước mắt, lấy tay chùi đi, tỏ vẻ giống như đang cười, “Ha! Không nói chuyện này nữa! Đúng rồi, huynh sống ngoài cung nhiều năm, ở ngoài đó có chỗ nào chơi hay không?”
“Ở ngoài cung có rất nhiều chỗ vui chơi hay ho!” Đàm Văn Bác cũng biết nỗi khổ trong lòng Đỗ Hiểu Nguyệt, liền xuôi theo lời nàng, “Thế nào, muội đã lên kế hoạch sau khi xuất cung sẽ đi chơi đâu chưa?”
“Ha! Không sai!” Nhắc tới việc này, Hiểu Nguyệt liền thấy hứng thú, “Sáng nay lúc muội đi tìm thư tịch giới thiệu về những cái liên quan tới địa lý Thương Dao, phát hiện Thương Dao nơi này thực rất đẹp đẽ, còn có dòng Thương hà mới thực thần kỳ, lại có thể trong hoàn cảnh mấy tháng trời không mưa cũng không đoạn lưu, muội đoán nơi đầu nguồn con sông nhất định có điểm gì đặc biệt, một ngày nào đó nhất định phải đi xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng!”
Đàm Văn Bác nhìn Hiểu Nguyệt với ánh mắt không biết làm sao, tuy sớm biết tư tưởng Hiểu Nguyệt khác với những người con gái khác, không ngờ rằng nàng lại cảm thấy hứng thú với việc này! Chỉ là… “Mới sáng sớm mà muội đã chạy đến Tàng thư các chính là để xem cái này? Đó không phải là phong cách của muội!” Sau mấy ngày sống cùng một chỗ với nàng, không khó phát hiện rằng nàng rất thích mơ màng, cũng thích được ngủ, cũng dễ sống chung, không có chút yếu ớt nào của một người con gái khuê phòng, nhưng cũng chẳng có vẻ nhàn rỗi kiểu khuê phòng – nàng không thích Thi Thư, chỉ thích sách gió trăng, đó đã là một bí mật ai ai cũng biết.
“Giọng điệu đó của huynh là sao hả!” Đỗ Hiểu Nguyệt nghe ra ý tứ ẩn sau lời nói của Đàm Văn Bác, không hài lòng, mặt đen lại, “Muội nghe nói Thương Dao hạn hán mấy tháng nay, muốn tìm một biện pháp giúp người dân nơi đó khắc phục tình cảnh khốn khó, nhưng muội lại không hiểu biết về Thương Dao, chỉ có thể cầu cứu sách vở thôi!”
“Vậy muội đã tìm ra biện pháp chưa?” Văn Bác cười nhẹ, nàng chính là như vậy, ngoài mặt thì lạnh nhạt, kì thực rất có lòng, giống như chuyện Thanh Trúc vậy, dù Thanh Trúc đã phản bội nàng, nàng vẫn tha thứ cho ả, lại còn thay ả cầu xin được miễn tội chết.
“Đương nhiên!” Hiểu Nguyệt hơi nhướn mắt, mỉm cười. “Nếu không thì muội có cần tới đây mà ngủ đâu chứ? Đêm qua anh trai huynh quấn muội đến hơn nửa…” Hiểu Nguyệt nói tới đây liền ý thức được lời nói của mình có chút mập mờ, lập tức sửa miệng, “Ý muội là nói…”
“Muội không cần giải thích gì với ta hết! Ta chỉ là bạn bè của muội, việc đó không cần giải thích với ta.” Trong lòng Đàm Văn Bác chua xót, cười khổ, điều duy nhất có thể làm cho lòng mình thoải mái một chút chính là chuyện thủ cung sa trên tay nàng vẫn còn đó.
“A! Cũng đúng ha!” Đỗ Hiểu Nguyệt cũng nhẹ nhõm cả người, hơi nhún vai, đồng thời cũng tự kỷ ám thị trong lòng, “Huynh là bạn bè, hắn là đồng bọn, trừ điều này ra, không còn gì khác!”
Thực là vậy sao? Muội nói như thế, có phải đang tự nhắc nhở mình điều gì hay không? Đàm Văn Bác không hỏi ra miệng, có những lời, không dám đi hỏi, sợ rằng đáp án nghe được chính là những lời mình không muốn nghe.
Đỗ Hiểu Nguyệt ngồi lặng lẽ một lát, sau đó mặt mũi nghiêm trọng nhìn Đàm Văn Bác: “Việc đó, Văn Bác, huynh thích đến mảnh rừng hạnh này như thế, muội thấy nhất định rừng hạnh này có liên quan tới mẫu phi của huynh! Hôm nay lại là ngày giỗ của mẫu phi huynh, đúng lúc muội đang ở đây, muội mượn rừng hạnh này bái tế dì một chút nhé!”
“Làm sao đột nhiên lại nghĩ tới chuyện này?” Đàm Văn Bác rất cảm động với tấm lòng tâm giao, tỉ mỉ của nàng.
“À!” Đỗ Hiểu Nguyệt nhoẻn miệng cười, nhảy từ cành cây xuống, lần này đã an ổn chạm đất, đứng dưới bóng cây, cười với Đàm Văn Bác đã đứng ở trên nhánh cây, “Ha! Cái này, muội coi như là mượn vật ký tình nhé!”
Khoảnh khắc Hiểu Nguyệt phi người nhảy xuống thực khiến Văn Bác toát mồ hôi lạnh nhìn nàng an toàn chạm đất, cũng theo nàng xuống đất. “Muội muốn bái pháp như thế nào?”
“Ừm… Không có nến hương tiền giấy nhỉ… Như vậy đi, dù sao chuyện tế bái cũng chỉ là một loại nghi thức, bản thân muội luôn cho rằng có tâm là được rồi!” Đỗ Hiểu Nguyệt suy nghĩ một chút, định rút gọn giản lược nghi thức, “Phật nói sau khi chết, người tốt sẽ được đến thế giới cực lạc Tây phương, mẹ huynh… đoán chắc là một người tốt nhỉ, muội sẽ bái lạy về phía Tây.”
Đàm Văn Bác khóe miệng hơi giật giật, cái gì gọi là chắc xem như! Nhưng trông nàng vẻ mặt thành kính hai tay chắp lại, bị nàng cảm hóa, cũng quay về hướng Tây nhắm mắt chắp tay.
“Dì à, mặc dù cháu chưa bao giờ gặp người, cũng không biết ân ân oán oán gì trong Hậu cung này. Nhưng mà, cháu lại nghĩ, cứ cho là thực sự có ân oán gì đó, cũng có thể xem như đã rõ ràng rồi – ít nhất có người đã nuôi dưỡng con trai người đến lớn. Mà hai người họ nhìn qua cũng được cho là đại soái ca, có tài có mạo, người anh lớn cũng tính như một Quân Vương tốt, đáng tiếc với quan điểm của cháu thì có hơi phong lưu, hơi nhiều phụ nữ; còn người em, xem như là một Vương gia tốt. Song, với cách nhìn của người ở đây, huynh ấy cũng được cho là lớn tuổi rồi mà vẫn chưa có chính thất; còn Thái Hậu nữa, thân thể không khỏe chút nào, có khi không bao lâu nữa sẽ đi đoàn tụ với người; về phần những người khác trong Hoàng thất, cháu không hiểu biết mấy, nên thôi không nói với người nữa.” Đỗ Hiểu Nguyệt đọc lầm bầm. “Về phần cháu, nếu như bây giờ người thật sự đang ở bên cạnh Phật tổ, phiền người truyền lời cho ông ấy, cháu nhớ nhà lắm, nếu như có thể giống như lúc đến thần không biết quỷ không hay mà trở về thì thật tốt.”
Đàm Văn Bác lúc mới nghe Đỗ Hiểu Nguyệt nói thì rất muốn cười, nhưng nghe nàng nói tiếp lại cười không nổi nữa – nàng thật sự không vui vẻ ư? “Hiểu Nguyệt, nói cho ta biết, sức khỏe của Thái Hậu có phải đã tới bước không còn thuốc chữa hay không? Còn nữa, vì sao phải nói với Phật tổ rằng muội nhớ nhà, cái gì gọi là đi đi về về mà thần không biết quỷ không hay?” Đứng trước mặt Hiểu Nguyệt, Văn Bác thấy khó hiểu hỏi – lời nói của nàng, như thể nàng lúc nào cũng chuẩn bị biến mất khỏi cuộc đời này!
Đỗ Hiểu Nguyệt mở to mắt nhìn Đàm Văn Bác, thở dài nhè nhẹ: “Nếu như thật sự quan tâm đến người thì huynh hãy tự đi thăm đi! Còn muội, vốn chỉ là một người khách qua đường ở nơi đây – trong thiên hạ, ai không phải một người khách qua đường trong lịch sử? Thái Hậu cũng vậy thôi, cho dù hồi còn trẻ bà ấy từng làm chuyện hoang đường gì, từng làm chuyện sai trái gì, bà ấy cũng nhận lại đủ rồi, lương tâm đã bị cắn rứt, thân thể đã bị giày vò! Huống hồ bà ấy đã dùng hết tâm tư đưa các huynh lên ngôi vị cao nhất, thậm chí bà còn muốn giúp anh trai huynh bình định chuyện triều chính. Chỉ tiếc, bà đã lực bất tòng tâm mất rồi! Cho nên, huynh làm ơn đừng ‘hận’ người nữa – vì một người chỉ sinh ra huynh nhưng chưa từng nuôi dưỡng huynh mà hận một người dù không sinh ra huynh nhưng lại nuôi huynh khôn lớn! Thường nói, mẹ sinh không thân bằng mẹ nuôi, chưa kể bà ấy còn là cô mẫu của huynh! Bất kể ra sao, thời gian còn lại của bà ấy không nhiều nữa. Có cơ hội thì huynh hãy cùng bà ấy gặp mặt, tháo gỡ khúc mắc trong lòng!”
“Là bà ấy bảo muội nói sao?” Đàm Văn Bác ngoài mặt không thể hiện gì, không lạnh không nhạt hỏi.
“Không phải!” Đỗ Hiểu Nguyệt lắc đầu, cười khổ, “Xem như muội nhiều chuyện đi! Muội chỉ muốn nói, có một số người, một số việc chỉ đến khi mất đi rồi mới biết quý trọng!” Trước kia, Hiểu Nguyệt không hề hứng thú chút nào với các loại hoạt động chung của gia đình, khi người nhà ra ngoài vui chơi thì Hiểu Nguyệt đang ngủ; bây giờ, không muốn ngủ nữa, ngủ ‘dậy’ rồi, cũng đã không còn cơ hội nào! “Muội chỉ hy vọng, một ngày nào đó sau này, huynh sẽ không hối hận!”
Đàm Văn Bác im lặng, trầm mặc mà không biểu tình gì. Chẳng mấy chốc, ánh nắng ban trưa đặc biệt ác độc, giống như một con dao nhọn, từng chút từng chút một khắc lên da thịt. “Sao muội lại có thể có cảm xúc như thế? Lẽ nào trên người muội, có quá khứ nào khác sao?” Văn Bác đột nhiên trợn mắt nhìn vào mắt Hiểu Nguyệt, trong mắt nàng chất chứa nỗi đau và sự mất mát không thể nói ra, sự tang thương thể hiện trên mặt tuyệt đối không phải của một người con gái mới mười sáu mười bảy tuổi… Kể cả nàng rất thông tuệ đi nữa, kể cả nàng trông sâu sắc hay xa xôi hơn so với những người khác, thứ gọi là tình cảm này, nhất định phải kinh qua mới biết được những buồn vui bên trong.
“Không có!” Đỗ Hiểu Nguyệt phản bác một cách vô thức, nhưng lời vừa rời miệng, nước mắt đã ứa ra, dùng ống tay áo thấm một bên khóe mắt, mím chặt môi, nói lạnh nhạt, “Có một số việc, các huynh vĩnh viễn không hiểu được đâu!”
“Muội mệt rồi!” Đàm Văn Bác khe khẽ thở dài, “Ta cũng mệt rồi!”
“Ha! Xem ra chúng ta phần nào đấy đồng bệnh tương liên, ôm một chút nào, mọi người cổ vũ lẫn nhau!” Giờ khắc này Đỗ Hiểu Nguyệt chỉ muốn tìm ai đó ôm một cái, vỗ vỗ vai, nói một câu không sao đâu, ngày mai trời lại sáng!
[1] Một chức quan.
[2] Chấn tai = cứu tế người bị nạn.
[3] Ăn hối lộ, bẻ cong luật pháp.
[4] Thay mặt dân để giúp đỡ, xin xỏ.
[5] Ban Thư ký Trung ương
[6] “Cùng tắc độc thiện kỳ nhân, đạt tắc kiêm tể thiên hạ.” – một câu trong cuốn “Mạnh Tử – Tận Tâm Thượng”, nghĩa là khi chí không thành thì giữ mình trong sạch tu dưỡng phẩm đức cá nhân, khi đạt được ý chí rồi thì khiến cho thiên hạ đều có thể được như vậy.” (Theo Baidu)
[7] Thư, sách thể hiện sự can ngăn, dâng lên vua chúa.
[9] Hic, mấy cái về kỹ thuật mình không hiểu lắm, viết bằng tiếng Việt có khi cũng chẳng hình dung nổi, huống chi tiếng Tung Của ~.~
[10] Dòng chảy bị đứt đoạn.
[11] Cử thế = khắp thế giới (Chỗ này chắc ý nói tài nhất trên đời ấy mà =.=)
[12] Khoảng 5h sáng.
[13] Thư viện
[14] Khoảng 7h15’ sáng.
[15] Một chức quan, cũng phụ trách dạy dỗ con vua nhưng thấp hơn Thái phó.
[16] Nghĩa tương tự câu “nuôi ong tay áo” của Việt Nam
[17] Trái ngược với câu “hữu tâm vô lực” – có lòng mà không có sức, ở đây là có sức nhưng… không có lòng!