Đời Không Như Là Mơ

Chương 11




“AI LÀ JEB STUART?” Tommy Michener gợi ý.

“Chính xác!” Tôi cười thật tươi. Đồng đội của cậu reo mừng, và Tommy, đội trưởng, ửng mặt lên vì tự hào. “Chọn lại đi, Tom.”

“Em vẫn trung thành với chủ đề các thủ lĩnh Nội chiến, cô Em,” cậu nói.

“Các thủ lĩnh của 1000 người. Vị phó tổng thống của Liên minh 11 bang ly khai miền Nam, cả đời lúc nào cùn gầy yếu, không bao giờ nặng được hơn 45 cân.”

Đội của Hunter nhao nhao. “Ai là Jefferson Daviz?” Mallory đoán.

“Không, các em thân mến, rất tiếc, ông ấy là tổng thống miền Nam. Tommy, đội của em có đưa ra dự đoán nào không?” Tụi nhỏ tụm lại với nhau, bàn bạc.

Emma Kirk, học sinh ngoại trú phải lòng Tommy, thì thầm vào tai thằng bé. Tôi đã cố tình sắp xếp hai đứa vào cùng một đội. Cậu hỏi cô bé một câu. Cô bé gật đầy. “Ai là Little Aleck Stephens?” Emma nói.

“Đúng, Emma! Tốt lắm!”

Tommy đập tay với Emma, hai đứa đều lâng lâng sung sướng.

Tôi cười rạng rỡ với lũ học trò. Trò Jeopardy!(1) về cuộc Nội chiến là một thành công rực rỡ, Liếc nhìn đồng hồ, tôi giật mình vì thấy thời gian đã sắp hết. “Được rồi, vòng đố vui cuối cùng! Nào mọi người. Sẵn sàng chưa? Tác giả được giải Pulitzer, cuốn sách của người này đã mô tả chi tiết quá trình nổi lên và sụp đổ của miền Nam qua con mắt của một phụ nữ, không bao giờ viết cuốn tiểu thuyết nào nữa.”

(1) Chương trình đố vui kiến thức truyền hình tại Mỹ với các câu đố có tính chất lịch sử, văn học, nghệ thuật, văn hoá đại chúng… Thí sinh được cho biết đầu mối trong hình thức câu trả lời và phải tạo ra lời giải đáp trong hình thức câu hỏi.

Tôi hăm hở ngâm nga nhạc nền của chương trình đố vui Jeopardy,! đảo qua đảo lại giữa hai nhón học sinh. Đội của Tommy đã hạ được mấy câu khó; tuy nhiên học sinh ưa thích của tôi lại đang “giương vây” với Kerry, thuộc đội kia, và rất có thể là thằng bé sẽ đánh cược tất cả.

“Đặt bút xuống. Được rồi, Hunter, đội của em có 9000 điểm. Em đặt cược? Ồ, tôi thấy là em đã đặt nông trại. Rất táo bạo. Được rồi, Hunter. Xin mời câu trả lời của em!”

Cậu giơ tấm bảng của đội mình lên. Tôi nhăn mặt. “Không. Rất tiếc, Hunter, Stephen Crane không phải câu trả lời. Nhưng đúng là ông đã viết cuốn Huân chương quả cảm về trận Chacellorsville. Có cố gắng. Tommy? Em cược gì?”

“Chúng em đặt hết, cô Em,” cậu hãnh diện nói, liếc qua phía Kerry và nháy mắt. Nụ cười của Emma vụt biến mất.

“Và câu trả lời của em, Tom?”

Tom quay lại phía đội mình. “Ai là Margaret Mitchell?” cả bọn đồng thanh.

“Chính xác!” tôi gào lên.

Chắc bạn sẽ nghĩ là bọn trẻ vừa mới giành giải vô địch thế giới hay gì đó – những tiếng la hét mừng chiến thắng, rất nhiều cú đập tay và nhảy vòng quay, vài cái ôm. Trong khi đó, đội của Hunter Graytone quay ra rên rỉ.

“Đội của Tommy… không có bài tập về nhà!” tôi tuyên bố. Càng nhiều tiếng hoan hô và những cái đập tay, “Đội của Hunter, rất tiếc, các em. Ba trang về Margaret Mitchell, và nếu các em mà chưa đọc Cuốn theo chiều gió thì thật là đáng tiếc đấy! Được rồi, cả lớp nghỉ!”

Mười phút sau, tôi đã ngồi trong phòng họp ở hội trường Lehring với mấy thành viên bộ môn lịch sử - tiến sĩ Eckart, chủ nhiệm; Paul Boccanio, người có thâm niên thứ hai; một người bất hạnh thay lại được đặt cho cái tên Wayne Diggler, giáo viên mới nhất của chúng tôi, mới được tuyển năm ngoái ngay sau khi ra trường; và Ava Machiatelli, cô nàng gợi cảm.

“Hôm nay lớp cô nghe có vẻ hơi mất kiểm soát đấy,” Ava lẩm bẩm bằng thứ giọng thì thầm khi lả lơi qua điện thoại điển hình của cô ta. “Quá là hỗn loạn! Lớp tôi khó mà tập trung suy nghĩ cho được.”

Bọn chúng chẳng cần phải tư duy thì cô vẫn cho điểm A, tôi lẩm nhẩm trong đầu. “Chúng tôi chơi Jeopardy!” tôi mỉm cười, nói. “Rất khích lệ tinh thần.”

“Cũng rất ồn nữa.” Một cái nháy mắt trách móc… một cái nữa… và, vâng, cái nháy mắt thứ ba.

Tiến sĩ Eckhart chậm rãi đi về phía đầu bàn và ngồi xuống, một hành động mất tương đối thời gian và sức lực. Rồi ông hắng giọng đúng kiểu đặc trưng, tuôn ra một tràng ho có thể khiến bọn lớp 9 nhảy lên ghế ngồi cho tới tận tháng Mười một. Một quý ông kinh tởm với nỗi sợ phải tắm rửa hằng ngày. Tiến sĩ Eckhart là người thuộc thời xa xưa của trường trung học dân lập, hỏi bọn trẻ còn mặc đồng phục và có thể bị nhốt vào tủ nếu cư xử không tốt, nếu không phải bị đánh bằng thước kẻ. Ông thường rên rỉ tiếc nuối cho quãng thời gian hạnh phúc đó. Ngoài cái đó ra, ông là một người rất sáng ý.

Giờ ông ấy đã duỗi thẳng và gập đôi tay viêm khớp của mình trước mặt. “Năm nay sẽ là năm cuối cùng ở vị trí chủ nhiệm bộ môn lịch sử của tôi, chắc hẳn các bạn đã nghe rồi.”

Nước mắt tôi cứ chực trào ra. Tôi không thể hình dung ra Manning mà không có Tiến sĩ E. già nua. Ai se núp vào góc với tôi trong các buổi họp mặt ủy viên quản trị hoặc những bữa tối kinh hoàng của Hiệu trưởng đây? Ai sẽ bảo vệ tôi khi mấy phụ huynh giận dữ về điểm B+ của con cái họ đấy?

“Hiệu trưởng Stanton đã mời tôi làm cố vấn cho uỷ ban tìm kiếm, và tất nhiên, tôi khuyến khích tất cả các bạn ứng cử cho vị trí này. Manning, vẫn luôn tự hào vì quá trình đề bạt từ bên trong.” Ông quay sang thành viên trẻ nhất. “Anh Diggler, anh, tất nhiên, còn quá thiếu kinh nghiệm, vậy nên hãy giữ năng lượng cho các lớp học của mình.”

Wayne, luôn cảm thấy rằng bằng cấp của mình ở Georgetown ăn đứt tất cả những người còn lại chúng tôi cộng lại, sụp xuống hờn dỗi trên ghế. “Được thôi,” anh ta lẩm bẩm. “Làm như là tôi không nhắm tới Exeter ấy.” Wayne thường doạ sẽ bỏ trường khi mọi thứ không hợp ý anh ta, chuyện đó xảy ra cứ hai lần một tuần.

“Nói nốt câu đi, anh Diggler, cho tới cái ngày hạnh phúc đó.” Tiến sĩ Eckhart cười với tôi, rồi lại ho một tràng nữa. Chẳng có gì là bí mật chuyện vị chủ nhiệm cao tuổi có phần quý mến tôi đặc biệt, vì tôi thường xuyên hối lộ ông Bánh Sô cô la Đậm đặc Kinh hồn và là thành vên của hội Anh Em Chống Anh Em.

“Thực ra là tôi đang nói về trường dân lập danh giá Phillips Exeter.” Paul mở miệng, hơi đỏ mặt. Anh ta hói, thông minh, đeo kính và có trí nhớ như in đối với ngày tháng.

“Ôi bạn mến,” Tiến sĩ Eckhart thở dài. “Chẳng phải là chúc tụng thì phải theo thứ tự sao, ông Boccanio?”

Paul nhăn nhở. “Tôi e là thế.”

Việc các trường dân lập lôi kéo giáo viên thì cũng không có gì bất thường, và Paul thì có một nền tảng tuyệt vời, nhất là anh chàng đã thực sự làm việc ở thế giới thực trước khi trở thành giáo viên. Điều đó, cộng với trình độ đào tạo ấn tượng – Standford/Yale, lạy trời – và chẳng nghi ngờ gì nữa người ta lại chẳng vồ lấy anh ta.

“Đồ phản bội,” tôi lẩm bẩm. Tôi đã thực sự thích Paul. Anh ta nháy mắt đáp trả. “Như vậy là còn lại hai đồng nghiêp nữ kính mến của tôi,” Tiến sĩ Eckhart khò khè. “Rất tốt, các cô, tôi sẽ đợi các cô nộp đơn ứng cử. Hãy chuẩn bị bài thuyết trình biểu mẫu trên giấy, làm ơn đừng sử dụng mấy cái biểu mẫu máy tính vô nghĩa đó, kể chi tiết những phẩm chất của các cô, cũng như các ý tưởng cải thiện cho bộ môn lịch sử Manning.”

“Cám ơn vì cơ hội này, thưa ông,” Ava nói nhỏ, chớp chớp mí mắt như Scarlett O’Hara.

“Rất tốt,” Tiến sĩ Eckhart nói, vuốt lại chiếc áo ố màu. “Cuộc tìm kiếm bắt đầu vào tuần sau, lúc đó chúng ta sẽ dán thông báo mở màn ở những nơi thích hợp.”

“Chúng tôi sẽ nhớ ông nhiều lắm đấy, Tiến sĩ Eckhart,” tôi nói, giọng khàn khàn.

“A, cảm ơn cô, Grace.”

“Ồ, vâng. Sẽ không còn được như cũ nếu không có ông,” Ave vội vã thêm vào.

“Quả có vậy.” Ông đẩy người ra khỏi ghế ở lần cố gắng thứ ba và lê ra cửa. Tôi nuốt nước bọt đánh ực.

“Chúc các cô mau mắn,” Paul nói vui vẻ. “Nếu các cô muốn tổ chức một trận đấu vật trong bồn thạch(2), ai thắng sẽ được nhận vị trí đó thì tôi rất vui lòng làm trọng tài.”

(2) Nguyên văn: Jell-O Wrestlling. Một kiểu đấu vật mà trong đó 2 người nữ sẽ mặc bikini hoặc đồ lót và vật nhau trong một bồn được đổ đầy thạch.

“Chúng tôi sẽ nhớ anh lắm,” tôi nhe răng cười.

“Thật bất công,” Wayne cằn nhằn. “Hồi tôi học ở Georgetown, tôi đã được ăn tối với C. Vann Woodward!”

“Còn tôi thì ngủ với Ken Burns,” tôi châm biếm. Paul cười khả ố. “Còn chưa nói tới việc tôi được đóng vai phụ trong phim Vinh quang.” Phần này thì đúng. Hồi tôi 11 tuổi, bố đưa tôi tới Sturbrige để được tham gia vào một cảnh quần chúng khi Trung đoàn Massachusetts rời về phía Nam. “Đó là khoảng khắc tuyệt vời nhất trong tuổi thơ tôi,” tôi thêm vào. “Tuyệt hơn cả khi cái anh chàng diễn viên phim hành động trong MacGyver mở một khu mua sắm mới.”

“Cô thật đáng thương,” Wayne lầm bầm.

“Trưởng thành đi, ông nhỏ,” Ava thì thào. “Anh không có những phẩm chất cần thiết để điều hành bộ môn đâu.”

“Còn cô thì có chắc, Marilyn Monroe?” anh ta bật lại. “Tôi quá giỏi cho cái nơi này!”

“Tôi sẽ rất vui lòng chấp nhận đơn từ chức của anh khi tôi nhận chức,” tôi ân cần. Wayne đập tay xuống bàn, tiếp đến là giậm chân theo nhịp, theo sau là hành động bỏ đi được chào đón nhất.

“À,” Ave thở dài. “May mắn nhé, Grace.” Cô ta mỉm cười chân thành.

“Cô cũng vậy,” tôi nói. Thực ra không phải tôi không ưa Ava – mấy trường dân lập là những thế giới rất nhỏ bé, cách ly với thế giới bên ngoài đến nỗi đồng nghiệp gần như trở thành người nhà. Nhưng cái ý nghĩ phải làm việc dưới trướng cô nàng, chờ cô nàng chấp thuận hay bác bỏ các kế hoạch bài giảng của mình, vẫn thật là khó chấp nhận. Nhìn cô ta rời đi cùng Paul, mông đung đưa đầy sức sống bên dưới chiếc váy bó quá độ, tôi thấy răng mình nghiến chặt.

Một hay hai phút sau, tôi ngồi một mình trong phòng họp và cho phép mình ngây ngất trong một giấc mộng giữa ban ngày. Rằng tôi được nhận chức chủ nhiệm. Tuyển một giáo viên xuất sắc mới thế chỗ cho Paul. Tiếp thêm nguồn sức sống mới cho chương trình, nâng tiêu chuẩn chấm đểm để một điểm A môn lịch sử ở Manning có ý nghĩa gì đó thật đặc biệt. Tăng số lượng học sinh tham gia – và đạt điểm tối đa – kỳ thi AP(3). Kiếm thêm tiền cho ngân sách đi thực địa.

(3) Advanced Placement: chương trình xếp lớp nâng cao.

Mà thôi. Tốt hơn là tôi nên bắt tay vào bài thuyết trình, như Tiến sĩ Eckhart gợi ý. Ngoài áo len bó và điểm A dễ dãi, Ava là người sắc sảo và có thiên hướng chính trị hơn tôi rất nhiều, điều này chắc chắn có lợi cho cô ta. Giờ tôi ước gì mình đã buôn dưa lê nhiều hơn một chút trong bữa tiệc cocktail của khoa/ban quản trị mùa thu vừa rồi, thay vì núp trong góc, nhấp rượu nho chán ốm và trao đổi mấy câu chuyện vặt vãnh mờ mịt về lịch sử cùng Tiến sĩ Eckhart và Paul.

Tôi yêu Manning. Yêu lũ trẻ, vô cùng yêu thích được làm việc ở đây, trong ngôi trường xinh đep này, nhất là thời gian này trong năm, khi cây cối đang bừng nở và New England đang ở độ tươi đẹp nhất của mình. Lá cây mới chỉ bắt đầu nhú, lờ mờ một màu xanh nhạt, những thảm tóc tiên căng tràn nhựa sống viền quanh những bãi cỏ xanh lục, lũ trẻ trang trí cho thảm cỏ bằng quần áo sặc sỡ tươi sáng, cười đùa, tán tỉnh, nghỉ ngơi.

Tôi chăm chú nhìn một dáng người đơn độc đang đi ngang qua sân trường. Đầu cúi xuống, anh ta chẳng có vẻ gì là biết tới vẻ kỳ diệu của ngày hôm đó. Stuart. Margaret đã gửi thư điện tử cho tôi nói rằng chị sẽ tới ở với tôi ít lâu, vậy nên tôi suy ra mọi chuyện ở đó cũng không tốt đẹp hơn.

Tội nghiệp Stuart.

“CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI KHOÁ HỌC GẶP GỠ NGƯỜI TRONG MỘNG,” giáo viên của chúng tôi cất giọng.

“Em không thể tin là chúng ta lại xuống cấp đến mức này,” tôi thì thầm với Julian, anh hồi hộp liếc sang tôi.

“Tên tôi là Lou,” giáo viên tiếp tục dõng dạc, “và tôi đã kết hôn hạnh phúc được mười sáu năm tuyệt vời!” Tôi lăn tăn, không biết chúng tôi có cần vỗ tay không. Lou nhìn xuống chúng tôi. “Mỗi cá nhân độc thân đều muốn tìm được Người đó. Người khiến chúng ta cảm thấy toàn vẹn. Tôi biết đó là Felicia của tôi…” anh ta lại ngừng, rồi thấy chúng tôi vẫn không hoan hô, lại tiếp. “Felicia của tôi làm được điều đó cho tôi.”

Julian, Kiki và tôi ngồi trong phòng học của Trung tâm Thông tin Blainesford. (Người đàn ông hoàn hảo của Kiki đã đá cô hôm thứ Tư, sau khi cô gọi vào điện thoại di động của anh mười bốn cuộc trong vòng một tiếng.) Đằng kia là hai phụ nữ khác, cũng như Lou, một người đàn ông điển trai tầm 40 tuổi với chiếc nhẫn cưới to gần ba phân. Để không thể có hiểu lầm nào xảy ra. Kiểu nói chuyện lên trầm bổng khiến anh ta hơi giống với một nghẹ sĩ nhạc rap địa phương da trắng. Tôi ném cho Julian một cái nhìn hằn học, anh giả vờ tảng lờ.

Lou mỉm cười với chúng tôi với tất cả sự lạc quan hớn hở của một người thuyết giáo trường phải Mormon. “Tất cả các bạn có mặt ở đây vì một lý do, và chẳng có gì phải xấu hổ khi thừa nhận điều dó. Các bạn muốn một người đàn ông… ừm, tôi có đúng khi cho rằng anh cũng muốn có một người đàn ông không, thưa anh?” anh ta hỏi, ngắt quãng bài hát nho nhỏ của mình để nhìn về phía Julian.

Julian, phủ trong chiếc áo diềm màu hồng, quần đen bóng và kẻ viền mắt, liếc nhìn tôi. “Đúng,” anh lầm bầm.

“Thế là tốt! Như thế chẳng có gì là sai cả! Những phương pháp này phát huy cả cho, ờ... kiểu gì cũng được. Vậy nên, hãy đi vòng quanh và giới thiệu bản thân, được chứ? Chúng ta sẽ khá là thân mật ở đây, vậy nên, đồng thời, chúng ta sẽ là bạn bè,” Lou vui vẻ hướng dẫn. “Ai muốn là người đầu tiên.”

“Chào, tôi là Karen,” một chị lên tiếng. Chị này cao và hấp dẫn vừa phải, tóc sậm, bận áo len, có thể khoảng 40, 45 tuổi. “Tôi đã ly dị, và các bạn sẽ không thể tin nổi mấy gã quái đản mà tôi gặp đâu. Người cuối cùng tôi gặp gỡ hỏi liệu anh ta có thể mút ngón chân tôi không. Trong nhà hàng đấy nhẽ. Khi tôi nói không, anh ta gọi tôi là con mụ lãnh cảm và đi mất. Và tôi phải thanh toán tiền.”

“Oa,” tôi lầm bầm.

“Và đó là cuộc hẹn tuyệt nhất tôi có trong năm nay, được chứ?”

“Không còn lâu nữa đâu, Karen, không còn lâu nữa,” Lou tuyên bố cực kỳ tự tin,

“Tôi là Michelle,” người tiếp theo nói. “Tôi 42 tuổi và đã qua 67 cuộc hẹn trong bốn tháng, 67 lần hẹn hò đầu tiên, thế đấy. Muốn biết tôi có bao nhiêu cuộc hẹn lần thứ hai không ? Không lần nào. Bởi vì tất cả những cuộc hẹn đầu đó đều là với mấy kẻ ngốc nghếch. Chồng cũ của tôi giờ đã kịp tái hôn. Với Bambi, một cô phục vụ bàn ở Hooters. Cô ta 23 tuổi, được chứ? Thế mà tôi vẫn chưa gặp được một anh chàng tử tế, vậy nên tôi hiểu chị, Karen.”

Karen gật đầu âu sầu cảm thông.

“Chào, tôi là Kiki,” bạn tôi nói. “Và tôi là giáo viên ở trường tại địa phương, vậy nên ở lớp này có lời thề giữ bí mật không? Như kiểu, không ai được để lộ về tôi ngoài đường ấy?”

Lou phá cười lên vui vẻ. “ Chẳng có gì là xấu hổ khi nói chuyện trong lớp này, Kiki, nhưng nếu thông tin này khiến cô thoải mái hơn thì tôi nghĩ chúng ta đều đồng ý giữ thông tin về người học cho riêng mình thôi! Xin tiếp tục. Điều gì thúc giục cô tới lớp học này? Cô đã qua 30 tuổi chưa? Sợ rằng mình sẽ không bao giờ gặp được Người Trong Mộng phải không?”

“Không, tôi gặp anh ấy suốt. Chỉ có điều tôi có xu hướng… có lẽ… hơi vội vàng một chút?” Cô liếc sang tôi, và tôi gật đầu khích lệ. “Tôi doạ họ chạy hết,” cô thừa nhận.

Tiếp theo là Julian. “Tôi là Julian. Ừm, tôi… tôi mới chỉ có một người bạn trai, khoảng tám năm trước. Tôi… chỉ là tôi… hơi sợ. Không phải là tôi không thể gặp được một người đàn ông… Tôi được rủ đi chơi suốt.” Tất nhiên là vậy, anh trông chẳng khác nào Johnny Depp và tôi đã kịp thấy vẻ tính toán trong mắt Karen… Hừm, không biết mình có thể khiến người này vượt rào không nhỉ…

“Vậy là anh sợ cam kết, sợ mọi việc sẽ không suôn sẻ, vậy thì, anh không thể thất bại nếu anh không thử, đúng không? Được rồi!” Lou nói, không đợi câu trả lời. “Và còn cô? Cô tên là gì?”

Tôi hít một hơi thật sâu. “Chào, tôi là Grace.” Tôi ngừng lại. “Hiện giờ tôi đang giả vờ là mình có một người bạn trai. Em gái tôi đang hẹn hò với chồng chưa cưới hụt của tôi, và để làm cho mọi người nghĩ rằng tôi không thấy vấn đề gì với việc đó, tôi nói với gia đình mình là tôi đang gặp gỡ một người rất tuyệt vời. Có thảm thương không nhỉ? Và cũng giống chị, Karen, tôi cũng trải qua mấy cuộc hẹn tệ đến kinh khoảng, và tôi bắt đầu có chút căng thẳng, bởi vì em gái tôi và Andrew đã bắt đầu có nghiêm túc, và tôi thực sự muốn tìm được ai đó. Sớm. Thật sớm.”

“Tôi cũng bịa ra một anh bạn trai,” Karen nói, chậm rãi gật đầu. “Người đàn ông tốt nhất tôi từng hẹn hò ở cả trong đầu tôi.”

“Cảm ơn!” tôi thốt lên.

“Tôi cũng làm như thế,” Michelle nói. “Tôi thậm chí còn tự mua cho mình một chiếc nhẫn đính hôn. Nó rất đẹp. Nói với tất cả những người tôi biết rằng mình sắp làm đám cưới. Tôi còn đi xa đến mức thử váy áo trong mấy dịp cuối tuần. Bệnh thật. Dù thế, nhìn lại thì đó là một trong những giai đoạn hạnh phúc của tôi.”

“Điều này gợi lên một trong các chiến lược của tôi,” Lou thông báo. “Đàn ông yêu hoa đã có chủ, vậy nên Grace, cái chiêu trò nho nhỏ của cô cũng không phải là ý tưởng tệ nhất thế giới đâu. Đó là cách rất hay để khiến một người đàn ông nảy sinh ý định. Một người đàn bà đã được một người đàn ông khác theo đuổi chứng tỏ cô ấy chắc chắn rất hấp dẫn!”

“Hoặc là chắc chắn thiếu chân thật,” tôi chêm.

Lou nhiệt tình cười ha hả. Bên cạnh tôi, Julian cau mày. “Xin lỗi nhé,” anh thì thầm. “Anh đã tưởng là cũng đáng để thử.”

“Chỉ có 60 đô thôi mà.” Tôi thì thầm trả lời. “Với lại tí nữa chúng ta có thể được uống cocktail margarita.”

“Hãy tiếp tục với khoá học thôi. Một vài điều trong số đó nghe sẽ có vẻ hơi ngốc, có thể thế, một chút cổ lỗ sĩ, nhưng tên của lớp học là Gặp gỡ Người Trong Mộng, và các phương pháp của tôi có tác dụng.” Anh ta dừng một chút. “Với anh, Julian, tôi không chắc lắm, nhưng hãy cứ thử và cho tôi biết kết quả, được chứ?”

“Chắc chắn rồi,” Julian ủ dột.

Một tiếng đồng hồ tiếp theo, tôi cắn môi để không khịt mũi và không nhìn sang Julian, người cũng đang chật vật không kém. Mọi thứ Lou nói đều ngớ ngẩn. Có lúc như thể là chúng tôi lùi thời gian về thập niên 1950 hay đại loại vậy. Hãy biết nữ tính và phải phép. Hình ảnh tôi thụi gậy vào Callahan O’Shea hiện lên trong đầu. Rất chi phải phép, rất là đài các. Không chửi thề, hút thuốc hay uống quá một ly rượu nhỏ, và ngay cả ly đó cũng không được uống hết. Hãy khiến người đàn ông cảm thấy mạnh mẽ. Khiến cho bản thân càng hấp dẫn càng tốt. Lúc nào cũng trang điểm. Váy. Hãy cho họ cơ hội tiếp cận. Mỉm cười. Cười thoải mái, nhưng nhẹ nhàng. Rung rinh lông mi. Nướng bánh thướng xuyên. Toả ra sự thanh thản và yêu kiều. Đề nghị một người đàn ông giúp đỡ và tán dương ý kiến của anh ta.

Khiếp.

“Ví dụ,” Lou nói, “các bạn nên tới cửa hàng dụng cụ. Ở cửa hàng dụng cụ có rất nhiều đàn ông. Hãy vờ như bạn không biết phải chọn loại bóng đèn nào. Hãy hỏi ý kiến của một anh chàng.”

“Thôi nào!” tôi buột miêng. “Lou, cho tôi xin! Ai mà muốn hẹn hò với một cô gái không thể chọn nổi cái bóng đèn chứ?”

“Tôi biết cô đang nghĩ gì, Grace ạ,” Lou lảnh lót. “Đây không phải là tôi. Nhưng hãy đối diện thẳng thắn với chuyện đó. ‘Cô’ đâu có được việc đâu, nếu không ‘cô’ đã chẳng ngồi trong cái lớp này. Tôi nói đúng chứ?”

“Anh ta hạ được chúng ta ở điểm đó,” Karen thở dài thừa nhận.

“NHƯ THẾ THÌ KHÁ LÀ MẤT GIÁ,” tôi nói, nhại lại kiểu nói uốn éo của Lou khi chúng tôi ngồi trong quan Blakie nửa tiếng sau đó, ừng ực uống margarita.

“Ít nhất cũng xong rồi,” Julian nói.

“Được rồi, hai người dừng lại đi. Anh ta có lý đấy chứ. Nghe này,” Kiki nói, đọc một trong các tài liệu được phát. “Khi ở trong một nhà hàng hay quán bar, thẳng vai lên, cẩn thận nhìn quanh và tự nhủ. Mình là người phụ nữ đáng thèm khát nhất ở đây. Điều đó sẽ giúp bạn toả ra sự tự tin cần thiết để khiến đàn ông chú ý tới bạn.” Cô tập trung một cách nghiêm nghị.

“Tôi là người phụ nữ đáng thèm khát nhất ở đây,” Julian chế nhạo một cách nghiêm túc.

“Vấn đề ở chỗ, anh đúng là như vậy,” tôi trả lời, huých nhẹ vào sườn anh.

“Quá tệ anh lại không phải chuẩn men,” Kiki nỏi. “Nếu thế anh và em đã có thể hú hí với nhau.”

“Nếu tôi mà chuẩn men thì giờ Grace và tôi đã cưới và có có sáu đứa con rồi,” Julian quả quyết, vòng tay quanh người tôi.

“Oái,” tôi nói, nghiêng đầu tựa vào vai anh. “Nhưng mà, sáu hả? Có vẻ nhiều nhỉ.”

“Tớ sẽ thử cái này,” Kiki nói. “Nó là bài tập của chúng ta mà, đúng không? Vậy nên, có mất gì đâu. Mà này, tớ là người phụ nữ đáng thèm muốn nhất ở dây, và tớ đang toả ra sự tự tin.” Cô mỉm cười đứng dậy, đi về phía quầy bar, khoanh tay và dựa vào quầy để ngực đẩy lên như sóng biển trong bão tố.

Một người đàn ông lập tức để ý. Anh ta quay lại, cười tán dương và nói gì đó.

Đó chính là Callahan O’Shea.

Mặt tôi ửng lên. “Khỉ gió,” tôi rít lên. Lạy Chúa Kiki đừng nhắc tới cái lớp đó, vì một là, Callahan sẽ biết ngay tôi đang chẳng hẹn hò ai hết, và hai là… à… nếu Kiki lại định bắt đầu với một người đàn ông khác, chẳng phải cô nên biết Callahan vừa mới ra tù sao? Và liệu anh ta có nên biết cô ấy có xu hướng hơi lập dị khi dính tới đàn ông không?

“Có lẽ em nên cảnh báo cô ấy,” tôi lầm bầm với Julian, không rời mắt khỏi hai người họ. “Đó là hàng xóm nhà em, một tên cựu tù.” Tôi kể cho Julian về quá khứ của Cal.

“Ôi, anh không biết nữa. Biển thủ nghe có vẻ chẳng tệ lắm,” Julian nói, nhấp môi ly piria colada của mình. “Và Chúa ơi, Grace. Em không nói với anh là anh ta nóng bỏng thế kia.”

“À, thật ra là…” giọng tôi lịm dần. Kiki nói gì đó, Callahan trả lời, và Kiki ngửa đầu ra, cười ngất ngư. Mắt tôi nheo hẳn lại. “Em… em sẽ quay lại ngay,” tôi nói.

Đi về phía quầy bar, tôi chạm vào cánh tay Kiki. “Kiki, tớ nói chuyện với cậu một lát được không?” tôi nói. Tôi quay sang người hàng xóm. “Chào, Callahan.” Mặt tôi đã đỏ bừng lên. Băn khoăn không biết tóc mình ra sao. Cáu tiết thật. Tôi muốn mình trông xinh đẹp vì Callahan O’Shea đang nhìn tôi.

“Chào, Grace,” anh ta nói. Anh ta mỉm cười… chỉ phớt thôi, nhưng thế cũng đủ. Anh chàng hấp dẫn đến bất công.

“Ôi, hai người biết nhau à?” Kiki hỏi.

“Phải. Chúng tớ sống cạnh nhà nhau. Anh ta mới chuyển đến.”

Tôi ngần ngừ, không biết mình có đang là đúng không. Nhưng Kiki đã làm bạn tôi trong nhiều năm. Nếu là tôi, liệu tôi có muốn biết anh chàng mà tôi quan tâm có phải vừa mới ra tù hay không không nhỉ? Nếu biết, cô ấy có thể đưa ra quyết định riêng. Phải không?

Callahan đang nhìn tôi. Quái thật. Tôi dám cá một nông trại rằng anh ta biết tôi đang nghĩ gì.

“Kiki, Julian và tớ có một câu hỏi,” cuối cùng, tôi nói.

“Được chứ,” cô nói ngập ngừng. Tôi kéo cô đi vài bước, không nhìn Cal. “Ừm, Kiki,” tôi thì thầm. “gã đó vừa mới ra tù đấy. Vì biển thủ hơn một triệu đô la.” Tôi cắn môi.

Cô cau mày. “Ôi, khốn thật!” cô nói. “Thế này không điển hình sao? Để mặc tớ chọn một gã tội phạm. Khỉ gió. Tất nhiên anh ra cũng long lanh đấy chứ, hả?”

“Và anh ta có vẻ… thật ra, anh ta… Tớ chỉ nghĩ là cậu nên biết.”

“Không, cậu đúng đấy, Grace. Tớ đã gặp đủ chuyện khó khăn rồi, đúng không? Đâu cần phải hẹn một tên cựu tù.”

Trong khi tôi lê bước phía sau cách một hai bước chân, Kiki trở lại quầy bar và nhận đồ uống của mình từ tay người pha rượu. Callahan theo dõi chúng tôi. Nụ cười của anh ra biến mất. “Cal, rất vui được gặp anh,” Kiki lịch sự nói.

Anh ta đánh mắt sang tôi với một cái nhìn như là đã biết chuyện, nhưng anh ta chỉ nghiêng đầu một cái nhã nhặn. “Chúc buổi tối vui vẻ,” anh ta nói, quay lại với trận bóng rổ trên ti vi phía sau quầy bar. Kiki và tôi chuồn nhanh về bàn.

Trà atiso của chúng tôi đã được mang tới, và Julian đã ăn xong, anh đang nhìn chằm chằm qua phía bên kia nhà hàng với đôi mắt hoang dại đầy cảm xúc, hướng về phía một anh chàng tóc vàng đẹp mã, anh này cũng đáp trả không kém phần nồng nhiệt.

“Tiến lên đi,” tôi nói, hất hàm về phía anh chàng. “Anh là phụ nữ đáng thèm muốn nhất ở đây.”

“Trông anh ta giống một cầu thủ bóng bầu dục. Tom Brady,” Julian lẩm bẩm.

“Làm sao anh biết được Tom Brady là ai?” tôi hỏi.

“Mọi anh chàng đồng tính ở Mỹ đều biết Tom Brady là ai,” anh nói.

“Có thể anh ta chính là Tom Brady ấy,” Kiki nói. “Biết đâu được. Tiến lên đi, thử một phát. Hãy làm cho anh ấy cảm thấy nam tính và thông minh. Hãy sử dụng những mánh của phụ nữ chúng mình.”

Mất một giây, Julian có vẻ đắn đo, rồi vai anh nhẹ sụp xuống. “Không,” anh nói. “Tại sao tôi lại cần một người đàn ông khi đã có hai cô gái xinh đẹp các cô chứ.”

Từ lúc đó cho đến hết buổi tối, tôi liên tục liếc nhanh về phía lưng của Callahan O’Shea khi anh ta ăn bánh hamburger và xem trận bóng rổ. Anh ta không hề nhìn lại.