[Bình Tà] Hà Xử Tương Tư

Chương 11: Ký hiệu




Đám người Trương gia mang theo một lồng gà đến, nghe nói là lợn quá khoẻ nên không thể mang vào động được. Gà này là gà địa phương, rất thích hợp dùng để hầm canh, thế nhưng đáng tiếc bây giờ chỉ có thể dùng để lấy máu.

Bọn họ tiến vào núi dựa vào ký hiệu mà Muộn Du Bình lưu lại lúc trước nhưng dù thế thì cuộc hành trình này vẫn vô cùng gian khổ, mặt mày mọi người ai nấy đều không biểu lộ cảm xúc gì. Thứ nhất là do tôi chả có tâm tình gì để nói chuyện, thứ hai là cũng chả ai nói chuyện cùng tôi. Hiện tại thì trừ tôi ra, Trương Hải Lâu là người mồm mép còn nói năng được, thế nhưng chỉ có một người nói chuyện mà không có ai phụ họa thì cũng chẳng còn hứng thú gì để nói cả.

Tôi có thể ở chung một chỗ trong hòa bình với Trương Hải Khách chỉ với điều kiện là hai người chúng tôi có chung một mục tiêu. Trước đó, Bàn Tử là người đảm đương trọng trách làm khuấy động bầu không khí trong đội ngũ, nếu giờ mà Bàn Tử có ở đây, tôi sẽ có nhiều thứ để nói cùng với anh ta hơn.

Đi được một hồi, Trương Hải Khách có chút không nhịn được. Hắn cảm thấy việc tôi trầm mặc như vậy là điều rất dị thường, liền bắt đầu hỏi xem tôi bị làm sao.

Tôi chả buồn để ý đến hắn, làm bộ giả điếc không nghe thấy. Tiểu Trương Ca nhìn tôi rồi cười, sau đó ra hiệu cho Trương Hải Khách, nói khẽ vào tai hắn: "Chắc là cãi nhau với tộc trưởng rồi."

Khi con người sống đến tầm một trăm tuổi, đầu óc cũng bắt đầu hoạt động không tốt, việc nói bậy bạ cũng là điều thường xuyên xảy ra. Tôi bảo hắn ít nói nhảm đi rồi tập trung nhìn ký hiệu. Sau một hồi lâu, Trương Hải Khách bắt đầu chủ động báo cáo các khoản thu chi của nửa đầu năm nay cho tôi, mong rằng sẽ động viên được tâm trạng của tôi.

Chúng tôi trở lại nơi đã đốt lửa hồi trước. Tôi đứng ở đó suy nghĩ một hồi. Việc Muộn Du Bình chẳng nói chẳng rằng cùng đội ngũ rời đi trước đã xảy ra trước đây bao giờ đâu? Chẳng lẽ là hắn đã để lại tin tức gì đó cho tôi rồi nhưng tôi lại bỏ lỡ chăng?

Ngay cả khi đi tuần trên núi, Muộn Du Bình cũng để lại lời nhắn cho tôi cùng với Bàn Tử. Trước mắt, chỉ có một lời giải thích cho cái việc vô nghĩa này là hắn biết tôi nhất định sẽ theo tới đây.

Đi trên lộ tuyến đã định sẵn cùng với đội ngũ người Trương gia sẽ đảm bảo được tính an toàn. Sau đó tất cả sẽ hội hợp lại ở mộ chính.

Kỳ thật, trước khi đến đây tôi đã nghĩ thông suốt được một nửa rồi. Rồi về sau khi tôi đã hiểu được phần còn lại, đường lên ngọn núi chông gai này bỗng trở nên dễ đi hơn nhiều, ngay cả nhìn Trương Hải Khách cũng thuận mắt hơn hẳn. Cây cối nơi này rất rậm rạp, muỗi độc nhiều vô kể, chật vật lắm mới đi qua được đoạn đường này. Sau khi tới gần cửa động, tôi thấy chỗ này cũng không có gì thay đổi so với lần trước, chỉ là có đống lá cây vụn rơi xuống ở xung quanh thôi.

Chúng tôi quét hết đống lá cây đi, dọn sạch cửa động. Thể chất của Trương gia nhân luôn rất tốt, cứ như leo một ngọn núi thẳng tắp vậy. May mà hồi trước tôi đã tập luyện ở phòng tập leo núi cùng với Tiểu Hoa nên lúc này mới có thể theo kịp tiết tấu của bọn họ.

Quá trình ở giữa tạm không nhắc tới. Lúc chuẩn bị tiến vào đường hành lang, tất cả mọi người ai nấy đều đeo kính bảo hộ cùng mặt nạ phòng độc vào, sau đó mở đèn pin lên. Chúng tôi phát hiện bốn phía con đường hành lang này đều thông suốt, đã thế còn có rất nhiều nhánh đường nhỏ hẹp, cấu trúc chặt chẽ giống như than tổ ong vậy, một số lối vào còn bị bướm đêm bao phủ.

Đám người Trương gia lôi mấy cái bình xịt diệt côn trùng từ trong ba lô ra xịt vào bọn bướm đêm kia. May mà trước khi đến tôi đã nhờ bọn họ mua luôn mấy bình, món này dùng tốt hơn hẳn bất kỳ loại súng bắn chim hay đại pháo nào.

Những cái chi dài mảnh của bọn sâu kia uốn vào dưới thân, bụng phình to lên, có lẽ đây là thời điểm mà con cái đẻ trứng.

Tôi dùng chân hất bọn nó ra thì thấy có một vài cái lá mảnh, nhỏ màu đỏ tại đó. Chắc bọn bướm đêm rất thích loại lá cây này vì mấy cái cửa động liền kề phía sau, sau khi xử lý hết đám bướm đêm kia, đều có thể nhìn thấy thứ lá này.

Lúc này tôi liền nghĩ tới lúc trước ở trên xe, tên Lý Tiểu Mao kia lừa bịp chúng tôi, nói rằng cái lá cây này là thần dược trị được bách bệnh. Không lâu sau tôi bị bướm đêm công kích, chuyện này ắt hẳn cũng do hắn bôi chất dịch của thứ lá đó vào người tôi. Ngay từ đầu tên tiểu quỷ này đã không muốn cho chúng tôi sống sót thoát ra bên ngoài rồi. Vì để tăng phần thắng, tên nhóc ấy còn giấu súng đất vào bên trong mộ thất nữa. Đối với người bình thường, chỉ cần bị giác hút của con bướm đêm kia cắn là coi như toi mạng.

Điều này cũng dễ hiểu. Nếu ba người chia nhau một cái bánh ngọt, không ai tham lam mà chỉ lấy đúng phần của chính mình, căn bản là sẽ không có vấn đề gì xảy ra. Thế nhưng nếu ba người chia nhau một cái bánh ngọt mà chia phần lớn nhỏ không đều, tranh chấp nổ ra là khó tránh khỏi.

Khi ba người này đồng thời giành giật với nhau, người thứ tư ở bên cạnh quan sát. Vốn dĩ người này không có tư cách được chia phần cái bánh ngọt kia, thế nhưng nó lại rất thèm khát nó. Vài lần hạ đấu trước đây, có khả năng tên nhóc này đã tìm được phương pháp khởi động cơ quan bằng máu, gom hết của ngon vật lạ, sau đó thoát ra bằng con đường khác.

Tuy rằng tôi cảm thấy tên tiểu tử này có thể là một mối hung họa, thế nhưng cũng không để ý lắm. Có thể nói rằng mục tiêu của hai người chúng tôi hoàn toàn bất đồng. Vì để tiết kiệm thời gian, tôi có thể lựa chọn bỏ qua cho hắn, tập trung đi hoàn thành chuyện của chính mình.

Trương Hải Khách bảo bọn họ cần tìm đáp án về sừng dê ở trong này. Tên Lý Tiểu Mao lại chỉ thèm khát mấy món minh khí, hẳn là sẽ không dính dáng gì tới chuyện mấy con dê.

Trên đường đi tới đây, tôi đã cố gắng chụp lại những bức hoạ dọc đường đi, thế nhưng con đường hành lang này quá chật hẹp, độ hẹp của nó vượt quá sức tưởng tượng của tôi. Tôi căn bản không thể nào xoay người lại, chỉ có thể cầm điện thoại cố chụp vài tấm. Không gian nơi đây chật hẹp cực kỳ, xưa kia khi khởi công khu mộ này, chắc hẳn là phải xây xong một mặt tường, sau đó hoàn thành bức bích họa rồi mới bổ khuyết phần không gian khác, nếu không thì thợ thủ công không thể tự do hoạt động được.

Chúng tôi dùng một kíp nổ nhỏ để nổ tung cửa đá của ngôi mộ số bốn. Những con bướm đêm trong ngôi mộ bị tiếng nổ làm cho sợ hãi tới mức bay tán loạn, lượng thuốc trừ sâu rõ ràng là không đủ. Trên thực tế, ngay cả khi chúng tôi có đủ tiền để mua thì cũng không có đủ không gian chứa mấy cái bình này. Cuối cùng, Khảm Kiên đến đuổi những con bướm đêm ra khỏi lỗ hổng trên cửa đá, sau đó cởi quần áo ra chặn chúng. Một số con còn lại bay lên cao, nằm ở trên đỉnh của bảo vật, chúng tôi đành phải vừa chịu đựng màn sương mù đen dày đặc này vừa phân bổ công việc.

Đoạn cổ tay của Trương Hải Khách lộ ra bên ngoài đã bị sương độc làm cho sưng vù. Loại độc này ẩn mình bên trong cơ thể, sau đó sẽ đột nhiên phát tác, trong nháy mắt gây tê liệt toàn thân. Nhưng nếu chỉ tiếp xúc ngoài da, ngoại trừ gây ra triệu chứng phát ban thì nó không có vấn đề gì lớn lắm.

Lúc này tôi đang xem ảnh chụp bức hoạ, không có tâm để ý đến hắn, chỉ bảo hắn phun nước miếng ra trị liệu. Trong ấn tượng của tôi, nước miếng của người Trương gia vẫn có chút tác dụng hơn so với người bình thường.

Hắn không nghe tôi mà lấy ra từ trong túi một cái thuốc chống muỗi đốt bôi lên những chỗ da bị hở, sau đó nói: "Chụp cái gì đấy, cho tôi xem với."

Bức bích họa được tôi chụp thành nhiều tấm rời rạc. Tôi cho các bức ảnh vào một phần mềm để ghép lại, sau đó bắn Bluetooth sang cho hắn. Hai người chúng tôi chui vào một góc và bắt đầu cùng nhau vắt óc suy nghĩ.

Tôi đã nhìn thấy bức kỳ lân ban con ở khu mộ số ba và bức đó không cùng họa sĩ vẽ với bức bích họa ở khu mộ số bốn này. Phong cách ở đây trông giống các bức bích họa Đôn Hoàng hơn, hơn nữa còn mang chút màu sắc sống động và tráng lệ của Tây Vực.

Bức bích họa thời nhà Đường này sử dụng chất liệu là đá Azurite màu hồng và vàng, đường nét tỉ mỉ, tinh tế. Từ trái sang phải, tổng cộng có ba bức tranh. Bối cảnh của bức tranh thứ nhất là bảy sảnh đường tráng lệ được bao quanh bởi rất nhiều loài chim quý hiếm. Trong bức tranh thứ hai, hai hàng ca kỹ thiên đình đang ca múa trước đại sảnh, bay về phía đài sen. Ở trung tâm đài sen có một nhạc kỹ đang quỳ, trang phục người này trông vô cùng sang trọng và đang nhắm mắt cầu nguyện. Trong bức tranh thứ ba, người nhạc kỹ trong trang phục thêu hoa đang đứng dưới đài sen, tay phải ôm đầu cừu, tay trái giơ cao hướng lên trên. Do tôi mở đèn flash trong lúc chụp nên nhiều chi tiết bị ánh sáng ảnh hưởng khiến cho chúng tôi không thể nhìn rõ mặt của các nhạc kỹ.

Hoa sen là một ẩn dụ rất quan trọng trong Phật giáo, ngụ ý các vị Phật cùng Bồ Tát vô lượng vô biên, hằng hà sa số, tất cả họ cùng nhau ngồi lên trên đài sen. Khi mới ra đời, đức phật Thích Ca Mâu Ni bước lên đài sen, tay trái chỉ trời, tay phải chỉ đất, mang ý bản thân chính là người đứng đầu thiên địa.

Khi tôi còn là một Lạt Ma ở Mặc Thoát, tôi đã nghiên cứu về Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa. Trương Hải Khách thông thạo tiếng Phạn, ắt hẳn phải có hiểu biết tương đối sâu sắc về Phật giáo.

Tôi nhìn quanh trái phải một lúc thì thấy Tiểu Trương Ca đang định cởi áo rồi nhảy xuống kênh tìm cơ quan. Thời gian vẫn còn nhiều, tôi bảo hắn cứ nói ra suy nghĩ của mình trước đi đã.

Trương Hải Khách nhìn ảnh chụp một hồi rồi đột nhiên hỏi tôi: "Cậu nói mắt của cô ta đang mở to hay là nhắm lại?"

Tôi thầm nghĩ, đã đến bước này rồi mà còn có hứng thử tôi nữa. Nhưng mà lúc tôi đến chăm chú quan sát, quả thực có thể xác nhận: "Mở to, mắt của mọi người đều mở to."

Hắn cúi đầu trầm ngâm, sau đó nói: "Lúc tôi quan sát người nhạc kỹ này, mắt của cô ta nhắm lại cơ."

Tôi ngay lập tức gọi Khảm Kiên qua. Tên Khảm Kiên này làm việc rất nhanh nhẹn nhưng lại ẩu đoảng. Tôi hỏi đi hỏi lại mấy lần, thế nhưng trên đường đến đây tên nhóc này chỉ chạy một mạch, căn bản chả chú ý tới một bên đường hành lang có vẽ cái gì hay không. Tôi thở dài rồi để cậu ta đi.

Trương Hải Khách đứng lên, duỗi tay áo xuống, sau đó nói với tôi: "Đi, chúng ta ra ngoài xem."



Đã tới nơi này rồi thì cơ bản là sẽ không gặp phải biến cố nào khác. Chúng tôi nói chuyện với những người khác xong xuôi rồi bắt đầu cởi quần áo ra tiến vào trong hành lang. Trương Hải Khách ngồi xổm xuống, bật đèn pin soi vào bức bích họa. Tay hắn sờ vào đôi mắt nhắm nghiền của người nhạc kỹ, sau đó lần mò dọc theo từng viên gạch xanh mãi đến khi ngón tay chạm mặt đất.

Nhìn người Trương gia phô trương kỹ xảo của họ kỳ thật cũng có chút thú vị. Hắn bật đèn pin ở mức sáng nhất, đầu ngón tay nhanh chóng ấn một lực vừa phải xuống mặt đất. Tất thảy chim muông, chư phật cùng nhạc kỹ trong thoáng chốc chuyển động nhẹ, rồi đồng loạt mở mắt ra.

Cơ quan này được thiết kế vô cùng tinh vi, được kết nối với bích hoạ và gạch đá, trên mắt có một màng đá nhỏ có thể di động. Ngoài giá trị của bức bích họa ra thì đây đích xác là đồ sưu tập có tiền cũng không mua được trên thị trường. Tôi nhìn vẻ mặt của hắn, dường như hắn rất hài lòng với phát hiện của bản thân, trông cứ như chỉ cần có thể là hắn sẽ đem bức bích họa đi, sau đó đặt ở văn phòng làm việc làm đồ trang trí vậy.

Tôi đang tính nhìn kỹ hơn thì Trương Hải Khách lắc đầu: "Có nhiều hơn một cái, cậu tránh ra đã." Hắn yêu cầu tôi nhấc chân lên và tháo găng tay ra để ấn vào cơ quan. Cơ quan chịu tải đòi hỏi sự cân bằng gần như tuyệt đối, thế nên chúng tôi cởi bỏ các thiết bị nhỏ nhẹ trên người ra, sau đó nhấn vào tất cả các cơ quan, lúc sau các chi tiết của bức tranh tường đã bắt đầu thay đổi...

Có chín khối cơ quan làm bằng đá, tương ứng với chín hướng khác nhau. Các góc của tám tòa đại điện được trang trí bằng các hoa văn, hoạ tiết như đuôi cú, trên các cột có hoạ tiết rồng và hoa sen. Sau khi khởi động cơ quan, tảng đá có trong các gian trong sảnh có màn che tách sang hai bên, để lộ ra nhiều hình nhân nhỏ lờ mờ.

Đây là một loại thiết kế dành cho sân vườn có tên là "dời bước đổi cảnh quan". Cứ bước lên một bước thì cảnh sắc lại thay đổi, giá trị mấu chốt của thiết kế này đều thuần túy vì mục đích thưởng thức. Cái ông chú quê ở Trường Sa của tôi, năm đó đã xây một bức tường làm bình phong theo cơ chế như vậy ở ngay cổng. Hồi còn nhỏ, tôi rất thích đến bên ngoài tường viện nhà chú ấy chơi nhảy ô, bởi vì chỉ cần tôi trùng hợp giẫm đúng vào ô gạch, bức tường bình phong ở cổng sẽ thay đổi như thể ở đó có màn kịch múa rối bóng, lần lượt phô ra các hình ảnh biến đổi theo muôn hình vạn trạng.

Kích cỡ của nhân vật còn không lớn bằng ngón tay cái của tôi, chỉ có điều là sự tinh xảo của bức bích họa ấy lại khiến tôi bị choáng ngợp. Tôi lướt đèn pin qua từng hình, điện thứ nhất là dành cho trẻ em, điện thứ hai là dành cho người già, điện thứ ba dành cho người bệnh, điện thứ tư là dành cho các nhạc kỹ mặc áo thêu hoa. Sau mấy cái điện đó là cảnh tượng hai người đang nói lời ly biệt, đánh nhau rồi lại cầu xin.

Trong lòng tôi đã có một cái suy đoán: "Bảy toà đại điện này có phải chính là bảy nỗi khổ của đạo Phật không?"

Hắn khẽ gật đầu, hai ngón tay khép lại rồi nhẹ nhàng lướt qua trước lầu các, chỉ chỉ rồi nói: "Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, cầu bất đắc."

Tôi nhìn người nhạc kỹ mặc áo thêu hoa trong tòa điện thứ bốn, sau đó hai người chúng tôi quay sang nhìn nhau. Tòa điện thứ tư ám chỉ sự đau khổ của cái chết, người nhạc kỹ này trông da mặt hồng hào, chân tay múa may tràn đầy vui sướng, hoàn toàn không giống như là người chết. Trương Hải Khách di chuyển cổ tay, trực tiếp chọc vào ánh mắt của người nhạc kỹ kia, sau đó lắc đầu ngán ngẩm: "Không có cơ quan, chúng ta xem ở chỗ khác xem sao."

Hắn cúi người xuống tìm tòi cái gì đó, còn tôi thì theo thói quen lục túi tìm đồ. Quá trình cai thuốc không phải là chuyện dễ dàng gì, đã thế tôi còn có thói quen vừa hút thuốc vừa suy nghĩ nữa.

Thời điểm mới từ Lôi Thành về, Bàn Tử mua cho tôi rất nhiều kẹo bạc hà, bảo tôi nếu hút một điếu thì ăn một viên. Có ngày tôi ăn đến hai mươi lăm viên, nhìn thấy một đống giấy gói kẹo to mới tá hoả biết rằng mình đúng là muốn chết sớm. Dù cho kỳ lân kiệt không mất đi hiệu lực, một ngày nào đó tôi cũng có thể chết vì hút thuốc cho xem.

"Hay là người nhạc kỹ này chỉ là ẩn dụ cho người chết thôi?" Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu tôi, tôi quay đèn pin chiếu vào bức bích họa: "Mộ thất dù sao cũng có quy chế nhất định, hoạ sĩ không có khả năng lại vẽ một bộ xương khô lên đâu, chỉ có thể dùng phép ẩn dụ để ám chỉ. Ví dụ như, toà điện thứ ba chỉ người bệnh, người trong bức tranh tay ôm lấy chỗ trái tim, cả người còng xuống, bên cạnh có rất nhiều chai lọ đựng thuốc, Thế nên mới có thể đoán rằng người này bị bệnh nặng. Bức bích họa này có rất nhiều phần, kỳ thực đều không được vẽ ra rõ ràng."

Trương Hải Khách nhìn chăm chú, sau đó cất lời: "Hoặc có thể người này tuy còn sống, nhưng lại không khác gì người đã chết." Nhìn vẻ mặt của hắn, chắc cũng đã biết được manh mối, "Ngược lại mới đúng, phải nhìn bức bích họa này từ phải sang trái. Đầu tiên, người nhạc kỹ này cầm một cái đầu dê đi lên toà sen, nhạc công thì chơi nhạc, vũ nữ thì nhảy múa. Cô ta đi lên giữa đài sen để cầu nguyện, bất chợt có người thả mãnh thú ra xé xác cô ấy — có lẽ trình tự là như vậy."

Tôi trầm ngâm gật đầu. Lối suy nghĩ của tôi có chút giống hắn - đều chú trọng vào phần tiểu tiết. Đổi lại là Bàn Tử, lúc này hẳn là xe lửa trong miệng anh ta đã chạy đến phố Vương Phủ Tỉnh từ lâu rồi.

Người nhạc kỹ mặc áo thêu hoa này là người sống, nhưng lại bị coi là vật chết, lại bị dã thú phanh thây. Vậy mối liên hệ giữa sự sống và cái chết ở đây là gì?

Hai mắt của nhạc kỹ kia được bảo vệ trong lớp vỏ đá hàng ngàn năm, nước sơn không dễ bị oxi hoá, vẫn có màu đen lờ mờ. Tôi nhìn vào mắt cô ta vài giây, sau đó chợt hiểu, cô ta rốt cuộc là gì.

Tế phẩm.

Chỉ có tế phẩm mới là người sắp chết.

Tôi nói ý nghĩ của mình cho Trương Hải Khách biết, trừ cái đó ra thì không có lời giải thích nào tốt hơn. Đối với chuyện phỏng đoán ý đồ thiết kế của cổ nhân, nơi này hiển nhiên không phải nơi thích hợp để phân tích vấn đề. Chúng tôi tốn chút thời gian chụp lại sự thay đổi trên bức bích họa, lấy trang thiết bị rồi quay trở lại mộ thất.

Nhóm người Trương gia đã tìm đến được mật đạo. Con gà nhốt trong lồng đã bị đập cho ngất xỉu và ngay lập tức bị xử đẹp, nó chết mà không kịp phát ra âm thanh nào. Khảm Kiên tới trợ giúp, nhìn cậu ta luống cuống tay chân trông giống hệt như cái hồi tôi lăng xăng vây quanh Muộn Du Bình vậy.

Dù xem xét dưới góc độ cá nhân hay tập thể thì mỗi cá nhân thuộc Trương gia đều rất kiên định. Nhìn chế độ thông hôn trong gia tộc của họ cũng có thể thấy tính phong bế của gia tộc này rất cực đoan, đứa trẻ trong tộc nếu không được nuôi dưỡng để có đủ ý chí kiên định thì có thể bản thân nó sẽ không chống đỡ được cho tới lúc trưởng thành.

Tôi từng có không ít tình cảm phức tạp đối với Muộn Du Bình, trong đó thì sự cảm thông chiếm nhiều nhất. Hồi ở Ba Nãi, loại cảm tình này thậm chí đã chạm đỉnh. Tôi rất không hiểu, làm sao mà hắn có thể vượt qua được những năm tháng trong quá khứ kia? Nếu hắn đã từng có bạn bè, vậy tại sao bọn họ không ở lại?

Những nghi vấn đó không ngừng giày vò tôi trong thời gian dài, nhưng ngày ấy tôi không cách nào lấy được bất kỳ câu trả lời nào từ hắn — một người đã mất đi trí nhớ.

Nhưng thông qua câu chuyện mà Trương Hải Khách đã kể lại cùng một số thông tin điều tra tôi tình cờ có được, ít nhất thì hiện giờ tôi đã biết, từ trước khi bắt đầu hoạt động trộm mộ ở núi Tứ Cô Nương, cuộc sống của hắn cũng không phải chỉ có một màu đen. Dù cho hắn có quên chuyện gì đi chăng nữa, tôi vẫn có thể nhớ rõ thay hắn, và còn có thể tìm hiểu từ miệng của người khác rồi kể lại.

Vào đầu thế kỷ thứ 20, nội bộ Trương gia chia năm xẻ bảy, cuối cùng thì được Trương Khởi Linh hợp nhất lại. Gia tộc thần bí từ cổ xưa này lại lần nữa bơm máu tươi vào trật tự xã hội mới, nó dần dần hồi phục và phát triển như một con cự thú thời viễn cổ.

Để duy trì máu gà ở trạng thái sền sệt và tươi, chúng tôi nối một cái ống cao su xuống dưới nước. Tiểu Trương Ca rất cừ ở khoản bơi lội, hắn túm lấy đầu ống rồi nháy mắt lặn xuống đáy kênh. Ảnh hưởng bởi chuyển động của hắn, những cánh tay cẳng chân bị gãy nổi lên lềnh phềnh kèm theo những đợt sóng màu đỏ như máu.

Tôi nhăn mày, không biết nơi này rốt cuộc là thế nào nữa, một lát nữa cả đội cùng lặn xuống thì có khác gì uống nước từ xác chết tập thể đâu.

Tôi cố gắng hết sức nghĩ đến những thứ khác để dời đi sự chú ý, không nghĩ đến việc uống nước từ xác chết nữa. Bỗng hắn ngoi lên từ trong mặt nước rồi nói: "Phía dưới đáy có một cái giếng hình vòng cung. Tôi đã kiểm tra không khí rồi, không có độc."

Trương Hải Khách nói: "Chia thành hai đợt à?" Nói xong hắn nhìn tôi. Lần này đến đây, bọn họ tổng cộng chỉ có bốn người. Rất nhiều người Trương gia ở nước ngoài đã chuyển hướng sang làm kinh doanh, không muốn làm công việc bẩn thỉu này để kiếm sống nữa. Huống chi lần này cũng không phải do Muộn Du Bình chủ động yêu cầu, thế nên có thêm tôi cùng với Khảm Kiên thì tổng cộng cũng chỉ có sáu người.

Tiểu Trương Ca lắc đầu hất những giọt nước bám trên mái tóc đi, ra hiệu: "Chia đôi đi, hai người nữa xuống với tôi chụp ảnh quan tài."

Dường như hắn cũng không thân quen Trương Hải Khách lắm, trước đó chắc hai bên không qua lại nhiều. Hai người thương lượng một lát rồi quyết định để cho Tiểu Trương Ca, Khảm Kiên cùng với một người Trương gia nữa ở lại, những người còn lại thì đi xuống mật đạo. Nếu ở phía trước là đường cụt hoặc có biến cố phát sinh, lúc sau còn có thể tiếp ứng cho nhau được.

"Mọi người đeo bình oxy vào đi," Tiểu Trương Ca nói, "Cái giếng vòng cung phía dưới có nước, nghe âm thanh chắc cũng không cạn lắm đâu."

Chúng tôi đeo bình oxy vào, Trương Hải Khách đeo cái điều chỉnh khí vào, sau đó bơi xuống dưới theo đường ống cao su. Tiếp theo sau đó là tôi cùng với một người Trương gia khác.

Người Trương gia này thoạt nhìn vẫn còn rất trẻ và trong đôi mắt không chứa đựng sự tang thương thường thấy. Nhìn thì tưởng hắn ngang hàng với đám Lê Thốc Tô Vạn, tuổi thật có khi còn làm ông cố nội của tôi còn được nữa là.



Nước trong kênh đục ngầu, tôi cố định đèn pin vào thắt lưng trang bị. Sau khi Trương Hải Khách ra tín hiệu phía dưới, cái người Trương gia kia bất ngờ phóng vọt xuống. Sau khi tôi thực sự bơi xuống dưới rồi, mới phát hiện cái kênh này còn sâu hơn tôi tưởng nhiều, ít nhất cũng phải sáu đến bảy mét.

Một đầu khác của ống cao su được cố định ở vách kênh, máu gà chảy vào một khối Bàn Long rất lớn bằng đá, trên khối đá có hai cái tay cầm là râu rồng. Tôi cùng với Trương Hải Khách mỗi người cầm một bên, cơ quan vừa mới khởi động, người Trương gia kia như biến thành một con cá, mau chóng chui vọt vào theo dòng nước.

Trương Hải Khách muốn nói gì đó, thế nhưng sau khi cố gắng nói vài lần không được, hắn lập tức đá tôi vào trong, sau đó tự mình chui vào. Quả thực bên trong giống y như lời Tiểu Trương Ca nói, là một cái giếng hình vòng cung được dùng để chặn nước, cấu tạo giống như đáy của Cửu Long Cốc. Phía trước mặt ngăn nước phủ đầy rêu rất trơn, Trương Hải Khách bèn ngồi xổm xuống, để cho tôi giẫm lên vai hắn đi lên trước.

Khối đá lớn kia chặn được một phần của dòng nước, khe hở ở trên rất hẹp. Sau khi leo lên được tảng đá một cách đầy khó khăn thì tôi gần như đã nổi ở trên mặt nước rồi, mặt bên kia của tảng đá hướng thẳng xuống vòng cung, hai bên sườn có đầy đá đệm. Tôi tháo mặt nạ phòng độc ra, quay trở lại tìm Trương Hải Khách rồi kéo hắn lên.

Hai người chúng tôi nằm lên trên tảng đá, bật đèn pin lên soi thẳng xuống giếng. Lúc xuống giếng, tôi thấy có một luồng sáng cứ thoắt ẩn thoắt hiện, sau đó liền lặn vào sâu bên trong.

"Hắn làm sao thế, tách khỏi đội ngũ à? Người Trương gia các người ai cũng vậy hết à?" Tôi hỏi Trương Hải Khách.

Trương Hải Khách lau lau khuôn mặt, sau đó mới lên tiếng: "Tôi từng kể chuyện xưa của mộ dê rồi, cậu còn nhớ chút gì không?"

Tôi im lặng nhìn hắn, hắn thở dài rồi nói: Lúc ấy, bọn họ có sáu người đi xuống, một người ở lại bên ngoài vì có cơ quan. Đây chính là người đó."

Thời điểm Trương gia điều tra ở Cam Túc, cũng không phải là không thu được kết quả gì. Bọn họ lần mò dọc theo nơi mà những người nông dân phát hiện ra Trương Hải Thạch, cố gắng lục soát, cơ hồ muốn lật luôn cả cái thôn lên trời. Sau đó, họ rốt cuộc cũng tìm thấy người này. Dựa theo lời mà Trương Hải Khách kể lại, khi đứa trẻ này được tìm thấy, hắn ăn mặc trông y như mấy tên ăn mày, dường như là bị cái gì đó kích thích đến mức mất cả khả năng nói chuyện. Hắn xém chút nữa đã trở thành kẻ si đần bị chợ đen bán cho mỏ than làm culi. Nhưng vì tay chân quá vụng về lại còn không thèm phản ứng gì khi bị đánh, hắn bị đá ra ngoài đường, cứ thế lang thang sáng tối, sống dựa vào mấy miếng cơm manh áo đi xin.

Bằng một số cách nào đó, họ xác nhận được hắn chính là người Trương gia, sau đó mang hắn về tiến hành các biện pháp trị liệu can thiệp tâm lý. Đứa nhỏ này tên là Trương Hải Vọng, từ nhỏ đã chơi cùng với Trương Hải Tâm, lúc bảy tuổi họ đã bắt đầu đồng hành cùng với nhau. Về sau tình trạng của hắn chuyển biến tốt lên, thế nhưng hễ nhắc tới chuyện mộ xác dê, vẻ mặt hắn lại trở về trạng thái mờ mịt như cũ, dường như tất cả những sự tình phát sinh trong huyệt mộ đều đã bị não hắn tự động xoá sạch.

Người phụ trách vụ án này của Trương gia nói với hắn rằng bạn bè của hắn đều đã bị giết chết, thế nhưng hắn vẫn không tin. Sau khi suy nghĩ một lúc lâu, hắn xin được gặp Trương Hải Thạch, hai người nói chuyện rất lâu trong phòng, cuối cùng hắn ta nhào vào đánh Trương Hải Thạch một trận.

Trong hai ba mươi năm tiếp theo, hắn một mực điều tra sự thật về cái chết của người bạn thân của mình, không bao giờ bỏ qua bất kỳ manh mối nào. Hắn cũng là người báo tin tức đầu tiên về nữ lăng. Hai người giả mạo tôi để nói chuyện với Lê tiểu thư cũng đều là người Trương gia. Điều duy nhất mà bọn họ không ngờ tới là Lê tiểu thư dám phá cách tới gắp Lạt Ma tôi và tộc trưởng của bọn họ.

Tôi nghe xong hết thì phì cười. Sau khi Trương Hải Khách đã kể xong, hắn nhìn xuống giếng, nói: "Đi xuống thôi."

Tôi chưa bao giờ cho rằng hắn sẽ tiết lộ chi tiết tất cả nội tình, thế nên tôi cũng chẳng ngạc nhiên cho lắm.

Tôi nhìn xuống, ước chừng chiều sâu của giếng, ánh sáng từ đèn pin của tiểu tử kia đã sắp khuất khỏi tầm mắt, chỉ còn lại một điểm sáng nhỏ lờ mờ. Tên này nóng lòng quá rồi, phi xuống cứ như bay vậy.

Tôi nhìn khắp xung quanh, dùng dây thừng để xuống là điều không thể. Các khớp ngón tay của Trương Hải Khách gồng lên, mu bàn tay thì nổi đầy gân xanh. Hắn vác đồ nặng hơn tôi nên bất đắc dĩ quay sang nói: "Cậu có đi được hay không? Đi xuống dưới đó sẽ có thời gian cho cậu suy nghĩ."

Tôi quấn sợi dây quanh tảng đá đầu tiên, sau đó giẫm chân lên. Trên thành giếng mọc một ít rêu nhỏ không biết tên, đường kính giếng rộng chưa tới hai sải tay - chính là loại hẹp thì lọt người không nổi, rộng thì có thể rơi xuống chết.

Đi xuống được thêm hai bước, mặc dù đá đệm ẩm ướt nhưng đi đỡ tốn sức hơn leo núi nhiều, chỉ là chân đi cảm thấy hơi không thoải mái. Trương Hải Khách bật đèn pin lên soi đường, cũng không nói gì, chỉ lặng lẽ bơi xuống đáy giếng.

Tiểu tử Trương gia kia đã ở dưới chờ chúng tôi. Đáy giếng có một thông đạo tròn bằng đá, mực nước vừa vặn chạm tới miệng thông đạo. Nếu đi lên phía trước theo hướng này, chắc là sẽ đến phía dưới địa cung. Tốc độ chảy của nước khá yếu, có lẽ là do thông với mạch nước ngầm.

Tiểu Trương Ca vừa thấy chúng tôi xuống dưới liền nói với Trương Hải Khách: "Đây đã từng là lối đi để nô lệ vận chuyển đá và ở lại, sau khi hoàn thành xong xuôi mới rót nước kênh vào che đi. Mới đầu định dùng sắt nung chảy, thế nhưng không biết vì sao lại thất bại, mọi người chú ý cẩn thận."

Chúng tôi lại đeo kính bảo hộ và bình oxy vào, người dẫn đầu vẫn là hắn. Trương Hải Khách ngẩng đầu lên miệng giếng rồi quay sang nói với tôi: "Vào thì dễ mà ra thì khó, đừng quay lại, chuẩn bị sẵn dao đi."

Tôi tự nhủ bản thân rằng không cần phải quá lo lắng, tôi lúc này đã không còn giống với bản thân khi trước nữa.

Dưới đáy của con đường đá toàn bùn lầy và xương trắng, chúng tôi bơi gần nhau đến nỗi tưởng chừng như ngực dán vào nhau, nước thì chảy lướt qua mắt kính. Con dao Nepal quân dụng kè kè chỗ tay áo tôi. Hai bên đường dần dần xuất hiện một số lỗ thủng cao bằng nửa thân người. Trương Hải Vọng chỉ vào những bộ thi cốt rồi ra hiệu cho chúng tôi, nơi ở của những người nô lệ ở đây rất giống những khoang phòng ở khách sạn con nhộng.

Trương Hải Khách bơi về phía lỗ hổng thì thấy một số lượng lớn cánh quạt rỉ sét và mũi khoan, có vẻ như đây là nơi mà những nô lệ đã chạm khắc ngọc bích. Ngoài ra, bên trong có cả một số nhu yếu phẩm hàng ngày còn miễn cưỡng nhìn ra hình dạng như bát đá chẳng hạn. Rõ ràng là những người này bị giam sống ở dưới đáy giếng.

Chúng tôi sắp xếp lại mọi thứ. Tôi nhíu mày, cảm thấy cứ thiếu thiếu thứ gì đó - nếu như không có đèn đóm gì mà chỉ dựa vào hỏa chiết tử để hoạt động trong lòng đất thì không thể nào tiến hành chạm khắc ngọc trong một thời gian dài được.

Toàn bộ tòa lăng mộ này tỏa ra sự cổ quái khó hiểu. Đột nhiên tôi giật mình nhớ tới đôi mắt của người nhạc kỹ mặc áo thêu hoa kia, sau đó viết lên trên cánh tay của Trương Hải Khách: "Đèn, là đèn, không có đèn."

Có thể làm việc dưới lòng đất tối thui mà không cần ánh sáng thì chỉ có thể là bọn họ đều đã mù lòa.

Người mù xây mộ, quả thật là việc chưa từng có trên đời.

Trương Hải Khách tiện tay nắm lấy một cái dùi rồi giục tôi nhanh chóng rời đi, ở đây đã không còn gì để xem nữa.

Tôi không thể làm gì khác hơn ngoài quay người tiếp tục bơi về phía Trương Hải Vọng. Tia sáng từ thắt lưng chiếu qua vết nứt trên đỉnh thông đạo, lập tức chiếu vào một khuôn mặt nhỏ nhắn tái nhợt đang trốn sau khe hở rộng bằng nửa bàn tay.

Khuôn mặt kia thoáng cái đã né đi với tốc độ nhanh đến mức khiến tôi không biết rốt cuộc là nó lao vào hay là chạy thoát ra. Ngay lúc sau, bả vai của tôi bỗng nhiên đau nhói lên.

Trương Hải Khách ra tay nhanh như chớp, năm ngón tay dùng lực định túm lấy, thế nhưng toàn thân con bánh tông kia trơn nhẵn, thoát khỏi bàn tay hắn một cách dễ dàng cứ như lươn vậy, sau đó nó lại điên cuồng đập vào mặt kính của tôi. Tôi rụt bả vai lại, tay trái vung dao lên, máu đen từ đầu con kia phọt ra và tan vào trong nước cứ như tơ lụa vậy.

Lúc này, đột nhiên tay tôi chạm phải cái gì đó ở trên tường đá.

Đó là một thứ mà lẽ ra không thể nào xuất hiện ở đây.

Một ký hiệu của người Trương gia, mang nghĩa "Nguy hiểm, không được đi tiếp."

*Một phần tài liệu tham khảo cho các bức bích hoạ đến từ "Quan Vô Lượng Thọ Kinh Biến". Chúc mọi người ngày mùng 1-5 vui vẻ ヽ(○^^)