Xuyên Thành Thái Tử Phi Bị Mất Nước

Chương 85




Sở Thừa Tắc thúc ngựa đến gần, tiếng vó ngựa giẫm lên con đường bằng đá phát ra âm thanh “lộp cộp” nghe rất rõ trong đêm, mỗi bước đi như giẫm vào tim người ta vậy.



Quận trưởng Mạnh Quận nói những lời đó xong, không ai đáp lại hắn. Xung quanh ngoại trừ tiếng lửa cháy “xèo xèo” thì chỉ có sự im lặng làm người hoảng loạn.



Hắn quỳ dưới đất, mồ hôi lạnh trên trán tuôn như suối nhưng không dám giơ tay áo lên lau. Mồ hôi rơi xuống tí tách tạo thành một vũng nhỏ trên nền đá xanh.



Sự im lặng này khiến không khí xung quanh như trở nên lạnh lẽo hơn, quận trưởng Mạnh Quận cảm thấy hít thở khó khăn, quỳ dưới đất mà không kìm được, cả người run bần bật.



Vó ngựa dừng lại trước mặt hắn mấy bước chân, trên lưng ngựa vọng xuống một giọng nói lạnh lùng. “Ai đang quỳ dưới đó?”



Quận trưởng vội nói: “Hạ quan là quận trưởng Mạnh Quận Thái Hàn Trì, tiến sĩ năm Cảnh Thuận thứ ba.”



Vì Sở Thừa Tắc im lặng không nói, tim Thái Hàn Trì cứ nơm nớp lo sợ. Trước đó lúc đại quân triều đình vây đánh Thanh Châu, hắn đã phái quân tập kích người của Sở thái tử nên lúc này rất lo y sẽ tính sổ với mình.



Sợ số lương thực trong kho lương không đủ để giữ mạng, Thái Hàn Trì còn dâng lên toàn bộ số tiền tài mà mình tham ô được trong những năm qua. “Tên phản tặc Lý Tín chiếm được Biện Kinh, hạ quan giả vờ quy hàng là để bảo toàn kho lương trong Mạnh Quận. Bây giờ điện hạ giá lâm Mạnh Quận, thu về kho lương, hạ quan coi như không làm nhục sứ mệnh. Hạ quan ở Mạnh Quận bao năm, tích lũy được ít của cải, nguyện hiến lên cho điện hạ tất cả mong điện hạ sớm ngày thống nhất giang sơn!”



Nếu có Tần Tranh ở đây, chắc hẳn cô sẽ há hốc mồm ngạc nhiên sao người này có thể vô sỉ đến như thế.



Sở Thừa Tắc không thèm nói với hắn tiếng nào mà ra lệnh cho tùy tùng. “Giải xuống.”



Tướng sĩ sau lưng y lập tức tiến lên bắt giữ Thái Hàn Trì. Hắn hoảng hốt cầu xin: “Điện hạ, xin tha cho hạ quan một mạng! Hạ quan nhất định cống hiến cho điện hạ không tiếc đầu rơi máu chảy!”



Mặt Sở Thừa Tắc lạnh buốt. “Một mãnh tướng dưới tay ta suýt nữa mất mạng trong tay kẻ gian nịnh này. Giữ một kẻ gió chiều nào xuôi theo chiều ấy như ngươi lại để ngươi đi hàng Lý Tín nữa ư?”



Thái hàn Trì liên tục nói không dám nhưng tướng sĩ áp giải hắn không chút nể nang, bịt miệng hắn lại rồi lôi đi nơi khác.



Bấy giờ Sở Thừa Tắc mới ra lệnh cho các tướng sĩ. “Kiểm kê kho lương.”



Lương thực các châu phủ thu về hàng năm đều tích trữ lại Mạnh Quận, hễ phía nam có chiến sự cần lương thảo hoặc cứu trợ thiên tai thì sẽ điều lương thực từ đây. Kho lương Mạnh Quận hẳn phải có đến năm mươi vạn thạch.



Số lương thảo này đủ để nuôi một đội quân khoảng mười vạn người trong suốt một năm.



Vì số lương thảo quá lớn, kiểm kê khá mất thời gian nên Sở Thừa Tắc để một đốc quân ở lại giám sát, bản thân y thì về phủ quận trưởng trước.



Thái Hàn Trì bị bắt, đại quân bao vây phủ quận trưởng, lúc bấy giờ gia quyến trong phủ mới biết Mạnh Quận đã đổi chủ, tập trung trong sân khóc sướt mướt.



Sở Thừa Tắc đi vào nhà sau bèn nhìn thấy nơi đó đứng đầy những nữ nhân xinh đẹp, mặc lụa là gấm vóc. Y cau mày hỏi: “Những người này là ai?”



Ước chừng phải hai ba mươi người, chẳng lẽ là thê thiếp của Thái Hàn Trì hết?



Không ngờ phó tướng lại bẩm báo: “Những người này đều là gia quyến của Thái Hàn Trì.”



Phát hiện Sở Thừa Tắc thoáng dừng bước, phó tướng lau mồ hôi, giải thích: “Không tính ca cơ vũ cơ nuôi trong phủ, chỉ tính thiếp thất có danh phận thôi đã đến hai mươi sáu người…”



Một quận trưởng nho nhỏ mà thiếp thất đã ngang ngửa với một hoàng đế một phương, không khó để tưởng tượng trong nhà năm làm quan ở Mạnh Quận, hắn đã vơ vét bao nhiêu tiền tài vào túi mình.



Ánh mắt Sở Thừa Tắc trở nên lạnh lẽo, y hỏi: “Phủ quận trưởng kiểm kê qua thu được bao nhiêu ngân lượng?”



Phó tướng đáp: “Còn chưa kiểm kê được cửa hàng ruộng đất, chỉ tính riêng số ngân lượng, đồ cổ, tranh cổ lục soát được thì hẳn phải có hai mươi vạn lượng bạc.”



Bổng lộc của quận trưởng Mạnh Quận một năm là ba trăm thạch, Thái Hàn Trì có thể tích lũy được số gia sản lớn như vậy, không ngoài một chữ: Tham.



Đợi số cửa hàng ruộng đất được kiểm kê xong, không biết sẽ là con số kinh người nào nữa.



Thảo nào Thái Hàn Trì muốn dùng số tiền tài này để đổi về một cái mạng.



Sở Thừa Tắc nói: “Toàn bộ tra ra hết, sung vào công quỹ. Cơ thiếp trong phủ nếu bằng lòng rời khỏi đây thì cấp bạc cho họ, những người có con cái không được đi, tạm thời giam giữ lại.”



Phó tướng nhận lệnh, lại hỏi tiếp: “Điện hạ, vậy tên họ Thái kia sẽ xử lý thế nào?”



Sở Thừa Tắc chỉ ra lệnh bắt giữ Thái Hàn Trì, còn việc giết hay tha vẫn chưa nói.



Sở Thừa Tắc cụp mắt suy nghĩ giây lát rồi đáp: “Tạm thời giam vào ngục trước, người này còn có ích về sau.”



Phó tướng vội chắp tay vâng lệnh.



Bận rộn cho đến quá nửa đêm, mọi chuyện trong Mạnh Quận mới tạm thời được bàn giao hết, phía kho lương cũng kiểm kê xong, đúng như Sở Thừa Tắc đoán, kho lương tổng tộng tích trữ năm mươi lăm vạn thạch, trước đó mười vạn thạch vận chuyển cho đại quân của triều đình sắp đến đã bị Sở Thừa Tắc chặn cướp, bây giờ trong kho còn bốn mươi lăm vạn thạch.



Sở Thừa Tắc phái một đội quân tinh nhuệ bảo vệ kho lương rồi ra lệnh cho các tướng sĩ vào thành không được quấy rầy bách tính trong quận.



Khi tiếng gà gáy đầu tiếng vang lên, y viết xong bức thư gửi về Thanh Châu, giao cho thị vệ thân cận của mình bảo hắn lệnh cho người đưa thư đưa đến Thanh Châu.



Lúc cởi quần áo để ngủ, tháo chiếc thắt lưng ngọc ra, không biết sao y lại nhớ đến cảnh Tần Tranh tặng quà sinh nhật cho mình hôm đó. Lúc cô cúi đầu giúp y đeo thắt lưng đã để lộ phần gáy thon thả nõn nà.



Y chỉ cần cúi đầu là có thể hôn lên đó, chỉ cần mút mạnh chút là có thể để lại dấu ấn màu đỏ mê người…



Không được nghĩ tiếp nữa.



Sở Thừa Tắc xoa đôi mày, quay người vào nhà tắm dội hai thùng nước lạnh mới về ngủ.



—–



Hai ngày sau, Tần Tranh nhận được thư của Sở Thừa Tắc. Hay tin y đã chiếm được Mạnh Quận, Tống Hạc Khanh vui đến nỗi suýt nữa khóc lên.



Vương Bưu cũng đã thuận lợi chiếm được Hộ Châu. Sở Thừa Tắc cướp được kho lương của triều đình tại vùng Giang Hoài, dù binh lực hiện nay của họ không bằng bảy vạn quân triều đình nhưng phần thắng cũng đã tăng lên nhiều so với trước.



“Không có Mạnh Quận cung cấp lương thảo, bảy vạn quân triều đình chỉ có thể điều lương thực từ Thái Nguyên sang. Lương thảo để cung cấp cho bảy vạn quân trong ba tháng ít nhất cũng phải lên đến mười vạn, quân đội vận chuyển lương trên đường đã ăn không ít, e là lúc này Lý tặc đang nhảy đứng nhảy ngồi ở Biện Kinh!” Tống Hạc Khanh cầm bức thư báo tiệp, tay không ngừng run run.



Những mưu sĩ khác cũng vui mừng ra mặt, chỉ có Sầm Đạo Khê là cau mày, như đang lo nghĩ điều gì.



Tần Tranh thấy thế bèn nói: “Lần này điện hạ có thể thuận lợi chiếm được Mạnh Quận cũng là nhờ có công lao của tiên sinh trong đó, đợi điện hạ trở về, bản cung sẽ bẩm với điện hạ trọng thưởng cho tiên sinh.”



Sầm Đạo Khê chắp tay, đáp: “Đó là bổn phận của vi thần.”



Tần Tranh hỏi: “Ta nhìn sắc mặt của tiên sinh có vẻ lo lâu, phải chăng có điều gì chưa ổn thỏa?”



Sầm Đạo Khê trả lời: “Để nương nương phải chê cười rồi. Sầm mỗ chỉ nhớ đến trận lũ lụt do mưa lớn tạo thành ở ven sông, muốn đích thân đi đến lưu vực hai bên bờ sông để xem thử.”



Xưa nay, từ sâu trong cốt tủy văn nhân vẫn có chút gì đó xem thường, ganh tỵ với nhau. Sầm Đạo Khê có tiếng tăm nhưng nhìn bề ngoài, hắn trông khá trẻ, tính khí lại hơi lập dị nên không ít mưu thần đều âm thầm so cao thấp với hắn, cảm thấy hắn chẳng qua là hữu danh vô thực.



Lần này tuy hắn có công hiến kế nhưng cũng không phải kế sách gì hay đến độ xoay chuyển càn khôn, không ít người vẫn chưa hoàn toàn phục hẳn.



Bây giờ tự nhiên hắn lại nhắc đến việc lo lắng cho tình hình lũ lụt ở Thanh Châu, trong mắt vài người đó chỉ là giả vờ giả vịt nên lập tức có người phát ra tiếng cười xùy khinh thường.



Tần Tranh nói: “Tiên sinh lúc nào cũng lo cho bách tính Thanh Châu, lòng mang nghĩa lớn, bản cung thật sự cảm động. Thú thật là bản cung cũng đang có ý đào kênh dẫn nước từ Nguyên Giang để tưới tiêu cho ruộng đồng, tiên sinh tiện thể đi khảo sát thực địa thay bản cung đi.”



Tần Tranh đã nói đỡ cho Sầm Đạo Khê, những âm thanh vốn chống đối hắn cũng dần tan biến.



Đào kênh dẫn nước đúng là chuyện mà Tần Tranh từng nghĩ đến trước khi có thiên tai lũ lụt. Thanh Châu có nhiều ruộng đồng, đến mùa hạ là hoa màu thiếu nước. Mọi năm tuy có dẫn nước từ hồ nước trên đập Đại Độ về nhưng bách tính ven sông vẫn phải ra đó gánh nước, hiệu suất rất thấp, hơn nữa những xóm làng cách xa bờ sông cũng chỉ có thể trơ mắt nhìn hoa màu bị chết héo.





Nếu dùng Nguyên Giang làm nhánh chính, xây dựng hệ thống mương nước ngầm hình mạng nhện thì mùa lũ có thể mượn nó dẫn bớt nước ra, mùa khô có thể tưới hoa màu.



Cô không biết tại sao vào lúc này Sầm Đạo Khê lại đột nhiên nhắc đến chuyện đi khảo sát địa thế Nguyên Giang nhưng hẳn là có nguyên nhân trong đó, chẳng qua là hắn chưa tiện nói mà thôi.



Cuối cùng, cuộc thương nghị này kết thúc bằng việc Tần Tranh thưởng cho Sầm Đạo Khê mười lượng vàng.



Khi những người khác đã lui ra, Tần Tranh giữ lại Tống Hạc Khanh, hỏi: “Có vẻ như Sầm tiên sinh không hòa thuận với những người khác cho lắm?”



Tống Hạc Khanh lắc đầu, thở dài: “Phàm là người có tài thì đều có chút cao ngạo. Người khác muốn kết giao với hắn, nếu không hợp nhãn thì đến câu khách sáo hắn cũng lười nói, đương nhiên là không được lòng người.”



Nghe câu trả lời ấy, Tần Tranh cũng hết cách. Những ngày qua cô cũng phát hiện tính cách của Sầm Đạo Khê đúng là hơi khó sửa.



Nhìn dáng vẻ thanh tao nho nhã thế mà lúc ngang bướng lên thì người khác phải đau đầu.



Cô không hiểu nổi với tính cách thẳng như ruột ngựa y hệt Tần Quốc Công của Tần Giản, hắn làm sao trở thành bạn thân của Sầm Đạo Khê vậy.



——



Kinh thành.



Đúng như Tống Hạc Khanh nói, tin Mạnh Quận và Hộ Châu đồng thời thất thủ truyền đến Biện Kinh, Lý Tín giận đến nỗi lật bàn ngay giữa triều đình, bách quan đều hoảng hốt quỳ rạp xuống. Nhưng những cựu thần của Đại Sở trước kia có còn một lòng hướng về Lý Tín không thì chưa chắc.



Ngay hôm đó, Lý Tín triệu kiến những tâm phúc theo hắn từ lúc còn ở Kỳ Huyện vào ngự thư phòng thương nghị.



“Bắc có Liên Khâm Hầu nhìn chằm chằm, nam lại có dư đảng của triều trước đang ngấp nghé, các vị thấy phải làm thế nào mới được?” Lý Tín chắp tay sau lưng, đi tới đi lui, ánh mắt âm trầm.



“Mười vạn binh mã của Liên Khâm Hầu có thể đối kháng với Bắc Nhung, cực kỳ dũng mãnh, đám ô hợp của Sở thái tử không thể bì được. Thần cho rằng bệ hạ không thể lơ là cảnh giác với Liên Khâm Hầu.” Một lão thần nói.



Mắt Lý Tín đầy những tơ máu. Ánh mắt u ám quét qua làm người ta rét run. “Dư đảng triều trước đoạt được Thanh Châu, tiếp đó là Từ Châu, nay ngay cả Mạnh Quận cũng rơi vào tay chúng, chẳng lẽ cứ để mặc không lo?”



“Thái tử triều trước chiếm được ba tòa thành này đều là nhờ vào những âm mưu thấp hèn, nếu thật sự đối đầu với đại quân của triều đình thì chưa chắc đã thắng. Lần này chúng liên tiếp thắng trận là do Sở thái tử vẫn luôn tung tin đồn mình có cùng mệnh số với Vũ Gia Đế, dạo trước vừa đến sinh thần của Vũ Gia Đế, chúng đến Vân Cương Tự bái tế, nhân đó khuếch trương sĩ khí mà thôi.”



“Nếu chúng ta có thể làm loạn lòng quân của chúng, lúc đối đầu với đại quân triều đình chúng sẽ tự khắc tan rã mà thôi.” Lão thần kia nói với ánh mắt chắc chắn.



Lý Tín dừng bước, hỏi ông ta. “Làm thế nào để làm loạn lòng quân?”




Lão thần đáp: “Họ Sở chúng có tin đồn khai quốc hoàng đế là Vũ Thần chuyển thế để thu mua lòng dân, chúng ta cũng tung tin có yêu phi hại nước ra, bệ hạ nói xem bách tính sẽ tin ai?”



Lý Tín trầm ngâm giây lát. “Ngươi muốn đánh vào con gái Tần gia?”



Lão thần cười bảo: “Bệ hạ quên rồi à. Nếu khi xưa không tung tin Thẩm Ngạn Chi tạo phản là vì trả mối thù đoạt hôn thê ra, làm sao có thể khiến Tần Quốc Công ở trong triều bị bài xích? Rồi làm sao việc thái tử hoang dâm vô đạo có thể truyền đi khắp nơi?”



Sở Dương Đế có bất mãn thái tử đến đâu thì cũng phải chú ý thể diện của hoàng gia. Việc thái tử đòi cưới con gái Tần gia trên triều đã đủ mất mặt rồi, nếu khiến toàn thể bách tính đều biết thì hoàng thất cũng bị ảnh hưởng theo. Vì thế lúc đầu, ở Biện Kinh không có bao nhiêu người biết thái tử phi từng có hôn ước với Thẩm Ngạn Chi. Đúng lúc này, lời đồn được truyền ra, thái tử, thái tử phi, Thẩm thế tử trở thành đề tài trà dư tửu hậu của bách tính.



Lý Tín xem thường. “Chẳng qua là một nữ nhân, Sở thái tử bỏ ả ta là được.”



Lão thần lắc đầu. “Tần Quốc Công dùng cái chết để tỏ chí hướng, nếu Sở thái tử bỏ con gái Tần gia thì sẽ không thoát được ngòi bút cay nghiệt của Tần đại công tử. Cứ để chúng cắn nhau đi.”



Lý Tín nhớ đến những bài viết lên án mình của Tần Giản là lòng lại giận đùng đùng. Bọn văn nhân này quả thật là miệng lưỡi chanh chua cay nghiệt đến nỗi khiến người ta phải nghiến răng.



Ngặt nỗi Tần gia lại rất có sức ảnh hưởng trong giới tri thức, những bài văn bài thơ đó bị truyền đi khắp nơi, hắn giết được một người nhưng không thể giết được hàng vạn người đọc sách trong thiên hạ.



Đợi Sở thái tử bỏ con gái Tần gia, để đám nho sinh cổ hủ ấy đi mắng hắn cũng tốt.



Lý Tín lập tức nói: “Cứ làm theo lời khanh nói đi.”



——



Sở Thừa Tắc bắt đầu dùng người của Lục gia ở kinh thành nên đương nhiên những cơ sở ngầm ở kinh thành cũng được vận dụng.



Mối quan hệ rắc rối giữa phu thê thái tử và thế tử Thẩm gia về cơ bản được truyền khắp kinh thành, ngay cả con nít ba tuổi cũng biết. Có điều trước kia khi nhắc đến chuyện này, bách tính đều nói thái tử hoang đường, hoàng thất Sở Quốc ngu muội.



Lần này câu chuyện đã đổi hướng, ai nấy đều nói “nếu thái tử phi không có dung mạo hồng nhan họa thủy như thế thì sẽ không khiến thái tử u mê, càng không khiến thế tử Thẩm gia quyến luyến khó quên, cuối cùng phản bội triều trước.”



Tất cả đều trở thành lỗi của Tần Tranh, thậm chí có người cay nghiệt hơn còn mắng có lẽ Tần Tranh đã dùng thủ đoạn gì mê hoặc cũng nên.



Lời đồn mới này vừa tung ra, cơ sở ngầm đã báo đến tai Sở Thừa Tắc.



Sở Thừa Tắc nhớ đến những bộ truyện đã đọc với Tần Tranh lúc trước, khẽ nhướng mày. Những thứ ấy… cũng không hoàn toàn là vô ích.



Y cầm bút lên viết một bức thư, sai người đưa đến cơ sở ngầm ở kinh thần.







Tần Tranh ở Thanh Châu, hoàn toàn không biết về cơn sóng gió vừa nổi lên cách đó ngàn dặm này.



Mãi đến khi Lâm Chiêu ôm cuốn truyện thịnh hành nhất hiện nay xuất hiện trước mặt cô với vẻ mặt cảm động. “A Tranh tỷ tỷ, thì ra tỷ đã làm nhiều việc cho điện hạ đến thế.”



Tần Tranh hoàn toàn ngơ ngác.



Lâm Chiêu thấy cô không hiểu bèn vội chỉ vào cuốn truyện trên tay. “Cuốn sách này tuy không dùng tên của tỷ và điện hạ nhưng nghe nói là phỏng theo chuyện của tỷ và điện hạ đấy.”



Tần Tranh nhận lấy, nghi hoặc nhìn lướt qua. Nhân vật trong truyện đúng là phỏng theo cô và Sở Thừa Tắc nhưng nội dung thì khác xa.



Trong sách, thái tử không biết cầu tiến, bị thái tử phi xách tai bắt phải đọc binh thư, sử sách, quốc sách luận. Thái tử không biết chiêu hiền đãi sĩ, thái tử phi bèn đích thân tiếp xúc với họ, còn tận tình khuyên bảo, chỉ dạy thái tử…



Sách mô tả thái tử từ một kẻ vô dụng trở thành anh tài đều do công của thái tử phi.



Tần Tranh xem xong, ý nghĩ đầu tiên là: Ai viết bậy viết bạ định mưu hại cô thế?



Cô vội hỏi Lâm Chiêu. “Cái này mua ở đâu ra vậy?”



Lâm Chiêu gãi đầu, đáp: “Các hiệu sách lớn trong thành đều có bán, còn đắt hàng hơn cả cuốn “Tây lâu xuân nguyệt” kia, bị bán sạch mấy bận rồi đấy.”



Những truyện bình thường làm sao hấp dẫn bằng câu chuyện trưởng thành của thái tử, thái tử phi. Cuốn truyện này vừa in ra, những người không thích đọc truyện cũng hào hứng mua đọc, các tiên sinh kể chuyện trong quán trà cũng rất biết chạy theo thời đại, kể lại những chuyện không có thật kia mà vô cùng sinh động, cứ như thể họ tận mắt chứng kiến vậy.



Tần Tranh sai người tìm mua sạch những cuốn sách còn lại ở Thanh Châu, lệnh cho chủ hiệu sách không được bán nó nữa nhưng lại hay tin cuốn sách này rất được hoan nghênh ở những châu phủ khác làm cô thật sự hoảng hốt.



Cô vội vàng báo tin cho Sở Thừa Tắc.



Sở Thừa Tắc hồi âm bảo Tần Tranh không cần quan tâm khiến cô càng thêm khó hiểu, phải đến vài ngày sau mới tìm được đáp án.



Hôm ấy cô bênh vực Sầm Đạo Khê, làm mất mặt một vài người. Đa số họ tuy không phục nhưng bị Tần Tranh cảnh cáo vài lần thì cũng phải an phận. Tuy nhiên trong đó có một phụ tá họ Trần có tiếng là ngạo khí cao hơn tài năng, vốn trước đó đã cảm thấy khá bất mãn với việc mọi chuyện lớn nhỏ ở Thanh Châu đều do Tần Tranh quyết định, hắn cho rằng nữ nhân làm sao hiểu chuyện chính sự.



Có điều hai trọng thần văn võ là Tống Hạc Khanh, Lâm Nghiêu đều ủng hộ cô, bách tính Thanh Châu cũng rất kính trọng cô nên hắn không thể bày tỏ sự bất mãn ấy ra ngoài.



Sau khi bị Tần Tranh vả mặt, hắn vẫn ôm hận trong lòng nên khi nghe bằng hữu ở kinh thành nói Đại Sở bị diệt vọng là do thái tử phi thì cảm thấy rất có lý nhưng lại không dám bày tỏ với những người khác, luôn cảm thấy mình có tài năng nhưng không gặp thời, trong lòng phiền muộn bèn đến quán rượu giải sầu.




Sau vài chén, khi mình họ gì tên gì cũng quên mất, hắn cao hứng viết một bài văn mỉa mai Tần Tranh đã có hôn ước nhưng vẫn có thể gả cho thái tử, quả là thủ đoạn cao minh. Dựa vào nữ sắc khiến thái tử trao quyền cho cô, một nữ nhân tóc dài kiến thức ngắn mà đùa bỡn quyền hành, xem tính mệnh ba quân như trò đùa, còn ám chỉ cô không ngừng che chở cho Sầm Đạo Khê, lẽ nào đã có gì với hắn.



Bài văn còn chưa truyền ra ngoài, hắn mới chỉ càm ràm trong quán rượu, những người ngồi gần đó nghe hắn nhục mạ Tần Tranh bèn vỗ bàn đứng dậy. “Người này dám mắng thái tử phi!”



Nhất thời, tiếng uống rượu reo hò trong quán rượu lập tức im bặt, tất cả mọi người đều đồng loạt nhìn về phía người kia.



Nào ngờ phụ tá kia say bí tỉ, tự cho là thế gian đều u ê, duy chỉ có mình tỉnh táo nên trào phúng: “Xưa nay đàn bà tham dự chính sự đều là điềm mất nước, tạm thời không nhắc đến chuyện Biện Kinh đổi chủ thế nào, nàng ta thân là nữ nhân không tuân thủ quy tắc, thâu tóm quyền hành, đến công trường xây dựng vài ngày là dám nói mình đi tu sửa tường thành, không sợ người ta cười rụng răng…”



Không biết trong quán rượu có ai đó hét lớn: “Đánh hắn đi!”



Người trong quán rượu lập tức ùa tới, mỗi người cho hắn một vài cước.



“Ta khinh! Thái tử phi nương nương làm nhiều chuyện cho Thanh Châu như thế, làm gì đến lượt kẻ tiểu nhân như người gièm pha.”



“Ông đây đã tham gia tu sửa tường thành. Bốn mặt tường thành Thanh Châu đều do đích thân thái tử phi chỉ đạo gia cố nhé!”



Ta nghe nói hết rồi! Trước kia thái tử điện hạ rất ham chơi, cưới thái tử phi nương nương xong mới đổi tính, dốc lòng cầu tiến. Thái tử phi nương nương hiền lương thục đức, dẫn dắt điện hạ đi vào con đường sáng, tên lông bông như ngươi cư nhiên dám gièm pha thái tử phi!”



Người đi đường thấy trong quán rượu có người tụ tập đánh nhau, vốn chỉ định tới hóng chuyện nhưng nghe có người nhục mạ thái tử phi thì lập tức biến sắc, cũng xắn tay áo lên gia nhập cuộc chiến.



Đợi khi quan phủ nhận được tin báo chạy đến thì vị phụ tá kia đã bị đánh đến chỉ còn nửa cái mạng.



Quan binh do dự giữa việc đưa vào nhà giam hay đưa đi chạy chữa, cuối cùng thấy người kia bị đánh mặt mũi sưng phù, trật tay gãy chân, thật sự quá thê thảm, không đành lòng nên mới đưa đi cấp cứu.



Chuyện lan ra, bách tính trong thành chỉ biết có một mưu sĩ dám công nhiên nhục mạ thái tử phi, thế này làm sao mà nhịn được. Nhiều người đến chặn trước cổng khu nhà phụ tá kia, thấy hắn ta xuất hiện là ném rau thối trứng thối mắng mỏ làm những phụ tá khác cũng không dám ra ngoài.



Trải qua lần này, những mưu sĩ kia đã nhìn rõ một việc. Ở Thanh Châu, có thể nói xấu thái tử nhưng nếu nói xấu thái tử phi là sẽ trở thành kẻ địch của toàn thể dân chúng.



Tần Giản nghe được chuyện này, dù tên phụ tá kia đã bị đánh cho tàn tạ, nằm trong hiệu thuốc không thể nhúc nhích thì vẫn không hết giận. Hắn vung bút viết một bài văn dài hồi đáp người kia.



Từ ngữ cay nghiệt, lập luận sắc bén, cả bài không một từ ngữ thô tục nhưng câu nào câu nấy có sức sát thương ghê gớm. Trong nghệ thuật mắng chửi người, nó đã đè bẹp bài văn lên án Tần Tranh, làm cái kia trở nên thật nhạt nhẽo.



Nghe nói sau khi phụ tá kia tỉnh lại, đọc được bài văn mà Tần Giản sai người mang đến bèn tức đến mức ngất đi.



Sầm Đạo Khê vốn cũng định cho người kia biết thế nào là lợi hại của văn nhân khi mắng chửi người nhưng sau khi đọc xong bài viết của Tần Giản, hắn bèn mỉm cười cất bút đi.



——



Chuyện này không có ảnh hưởng gì lắm đến Tần Tranh. Mỗi ngày, số bản tấu cần cô xem qua nhiều vô kể, cô làm gì rảnh rỗi mà để ý đến một phụ tá lắm mồm.



Biết đó là mưu kế của triều đình, cô chỉ cảm thấy bọn chúng quả là biết cách khiến người ta buồn nôn.



Mang một người phụ nữ ra công kích, chúng chỉ biết những trò mèo ấy thôi sao?



Có điều cái cách mà Sở Thừa Tắc đáp trả lại chiêu trò của chúng, cô thật sự không ngờ đến.



Y thật là thoáng, dùng thanh danh của mình để trải đường cho cô.



Tần Tranh nhớ đến cuốn truyện mà Lâm Chiêu đưa cho mình đọc, không nhịn được cười. Lúc viết thư cho y, cô tiện thể nhắc đến chuyện của vị phụ tá kia, còn khen y có tầm nhìn xa.



Vào hạ, ban đêm thường có tiếng côn trùng kêu rỉ rả. Tần Tranh viết thư xong, tắt nến trên bàn, chỉ để lại ngọn đèn trong góc phòng. Lúc đi vào nhà trong, nhìn thấy bộ giáp Sở Thừa Tắc treo trên giá, cô đột nhiên dừng bước.



Trong ánh sáng lờ mờ, bộ giáp treo trên giá gỗ như đang mặc lên người chủ nhân vậy.



Tần Tranh đi tới, chỉnh sửa lại phần cánh tay. Lúc tay chạm vào miếng sắt lạnh toát, lòng cô bất giác dâng lên nỗi chua xót. Cô đột nhiên cảm thấy mình đang hơi nhớ y.



Tính ra thì Sở Thừa Tắc rời khỏi Thanh Châu đã hơn một tháng.



Sau khi đánh được Mạnh Quận, y liên tục chiếm lấy vài tòa thành nhỏ lân cận. Vì Mạnh Quận chưa có ai có thể gánh vác, sợ có gì bất trắc, nhất thời y không thể về Thanh Châu được.



Bây giờ bốn thành Thanh Châu, Từ Châu, Hộ Châu, Mạnh Quận đều đã rơi vào tay họ. Trên tấm bản đồ, bốn tòa thành nối lại tạo thành một lãnh địa chỉ cắm toàn cờ của Đại Sở.



Thiên hạ vốn có ba thế lực lớn, bây giờ trở thành bốn.



Bắc có Liên Khâm Hầu và Lý Tín, nam có họ và Hoài Dương Vương.



Hiện nay Lý Tín và Liên Khâm Hầu đang cắn xé lẫn nhau. Trước đó thế lực của họ còn nhỏ yếu, Hoài Dương Vương không để họ vào mắt. Bây giờ họ đã trở thành một miếng thịt to, khi giao chiến với Lý Tín cũng phải đề phòng Hoài Dương Vương.



Tu sửa thành Thanh Châu xong, Tần Tranh lại bắt đầu chú ý đến nông nghiệp nơi đây. Để hiểu hơn về nghề canh tác, cô còn tìm đọc nhiều sách nông nghiệp, nếu hiệu quả không tệ thì sau này có thể thí điểm ở những châu phủ khác.



Xâu tường thật cao, tích trữ lương thực là điều không dư thừa.




Ngày thứ ba sau khi gửi thư đi, Tần Tranh đang định đi khảo sát thực địa để xác định tuyến đường đào kênh nước thì Sở Thừa Tắc đột nhiên trở lại.



Tần Tranh nhẩm tính khoảng cách giữa Mạnh Quận và Thanh Châu, giật mình phát hiện có lẽ y đã lên đường ngay sau khi nhận được thư.Hôm nay khúc sông mà họ làm trắc địa thuộc thượng du của Nguyên Giang, ngược lên phía trên nữa là đập Đại Độ.



Sở Thừa Tắc và Sầm Đạo Khê cưỡi ngựa men theo con đường nhỏ, lên núi, dừng lại ở một nơi khá cao.



Nơi Nguyên Giang chảy qua, núi non hai bên như được đao cắt gọt, lớp đá bên trong lộ ra, dốc thẳng đứng, nước bên dưới chảy xiết, cuộn reo ầm ầm.



Tuy nhiên những ngọn núi khác đều có đường để leo từ bờ lên, chỉ có Lưỡng Yến Sơn bốn mặt là nước, hoàn toàn không có đường.



Lưỡng Yến Sơn cứ như một hòn đảo nhỏ giữa lòng sông, chia tách dòng nước Nguyên Giang ra thành hai nhánh nhỏ hơn, sau khi vòng qua Lưỡng Yến Sơn, chúng sẽ hội tụ với nhau ở nhánh sông chính dưới hạ lưu.



Nhánh sông bên trái tiếp giáp Vân Châu, có đập Ngư Chủy chứa nước để tưới tiêu cho đồng ruộng trong địa giới Vân Châu. Nhánh sông bên phải thuộc về Thanh Châu, trải dài theo địa giới từ bắc xuống nam, cho tới nhánh sông chính ở hạ lưu. Mùa mưa nơi này thường xuyên bị ngập lụt, mùa khô thì lại thiếu nước nên người xưa đã xây dựng đập Đại Độ trên nhánh sông chính.



Lưỡng Yến Sơn nằm trên ranh giới giữa Thanh Châu và Vân Châu, không thuộc sự quản lý của nơi nào, đây là nguyên nhân Kỳ Vân Trại có thể sống yên ở Lưỡng Yến Sơn một thời gian dài, bởi vì châu phủ ở hai nơi đều không muốn ra sức diệt sơn tặc không nằm trong phạm vi quản lý của mình mà không được lợi lộc gì.



Sầm Đạo Khê dẫn Sở Thừa Tắc đến vách núi, từ nơi này nhìn xuống có thể quan sát cả dòng Nguyên Giang và lưu vực của nó.



Hắn xuống ngựa, chỉ vào đập Đại Độ, nói: “Hạ quan đã tra hết các ghi chép về đập Đại Độ ở Thanh Châu, nó có sức chứa để tưới tiêu cho mười vạn mẫu đất, dù lúc khô hạn thì cũng đủ để cung cấp cho ruộng đồng của cả Thanh Châu này. Sức chứa của đập Ngư Chủy ở Vân Châu không thể bằng nó.



Dưới vách núi là dòng nước xanh ngắt đang cuồn cuộn chảy. Nhờ có đập Đại Độ mà phía nam của Thanh Châu mới không gặp hạn hán vào mùa khô, Mạnh Quận nhờ thu lương thực của vùng Giang Hoài này nên mới có tiếng là kho lương của phương nam.



Sở Thừa Tắc nhìn thủy vực của con sông, không lên tiếng.



Sầm Đạo Khê nhất thời cũng không đoán được tâm tư của vị thái tử trẻ tuổi này. Nghĩ đến điều mình sắp nói, hắn nhìn gương mặt anh tuấn nhưng lãnh đạm của Sở Thừa Tắc, cố nén nổi e sợ bỗng dâng lên trong lòng, trầm tĩnh lại. “Nhưng bao năm nay, hạ lưu Nguyên Giang tích trữ không ít bùn đất khiến cho mặt sông dâng cao, thế mới dẫn đến mỗi mùa mưa gió, nước sông dâng tràn bờ, nhấn chìm nhà cửa ruộng vườn.”



“Bây giờ Mạnh Quận đã rơi vào tay điện hạ, triều đình mất đi kho lương của vùng Giang Hoài, thay vì để miếng thịt béo nào cho điện hạ ăn, ắt hẳn chúng sẽ hủy hoại nó.” Nói đến đây, Sầm Đạo Khê hơi dừng lại, quan sát phản ứng của Sở Thừa Tắc.



Sở Thừa Tắc chỉ bảo: “Nói tiếp đi.”



Tuy y chưa tỏ thái độ gì nhưng Sầm Đạo Khê cảm thấy hình như y đã phát hiện điều mình muốn nói, trong lòng ngoại trừ kinh ngạc ra còn có chút kích động như gặp được Bá Nhạc của mình.



“Nếu phía triều đình ra lệnh cho đập Ngư Chủy xả nước, cả hồ chứa nước và bùn đất trong lưu vực Vân Châu đều đồng loạt đổ vào hạ lưu Nguyên Giang rồi bị đập Đại Độ chặn lại, bùn đất trầm tích trong đập chứa nước khiến mặt nước sông dâng cao, một khi nước sông cao hơn nước từ đập Đại Độ chảy vào nhánh sông chính thì e là cả Thanh Châu và Mạnh Quân ở hạ lưu đều khó tránh khỏi kiếp nạn.”



Mùa mưa năm nay đã qua, đập Đại Độ đã tích đủ nước, nếu chứa thêm nước của cả đập Ngư Chủy thì sẽ không chịu nổi, lượng nước dư ra chỉ có thể tràn ra hai bên bờ, nhấn chìm các châu phủ lân cận.




Suy đoán này quả thật vượt quá tưởng tượng, bởi vì nếu triều đình làm ra chuyện hoang đường như vậy tất nhiên sẽ bị người trong thiên hạ thóa mạ, ghi hận thiên thu, cho nên Sầm Đạo Khê mới luôn giữ kín miệng, không dám nói rõ.



Nhưng sự lo lắng của hắn cũng không phải không có lý. Ngay cả một nữ nhân mà triều đình cũng có thể mang ra đơm đặt thì đến lúc rơi vào đường cùng, không ai dám bảo đảm họ sẽ không giở thủ đoạn cực đoan này khi thấy thế lực của Sở Thừa Tắc ngày một lớn mạnh.



Dùng nước nhấn chìm cả mấy châu phủ, họ Lý sẽ trở thành tội nhân thiên cổ, nhưng ấy là phải có người ghi lại đoạn sử sách này thì mới có người biết. Nếu cuối cùng Lý Tín thắng lợi, lúc đó sử sách viết thế nào đều do họ Lý khống chế, đoạn sử này có được ghi lại không còn chưa biết.



Hắn chẳng qua chỉ là một mưu thần nho nhỏ, sau khi đến đây cũng chưa làm ra được công trạng gì lớn, nếu là những chủ tử khác nghe được những lời khủng khiếp này, không tức giận vì cảm thấy hắn ăn nói hoang đường thì cũng luống cuống tay chân vì e ngại nguy cơ mà hắn nói.



Nhưng Sở Thừa Tắc lại bình tĩnh đến lạ kỳ. Y quay đầu sang nhìn Sầm Đạo Khê, người toát ra một sức mạnh khiến người ta tin phục. “Ta muốn nghe thử cách phá giải nguy cơ này của tiên sinh.”



Sầm Đạo Khê hỏi ngược lại: “Hạ quan chỉ mới bày tỏ nỗi lo của mình, sao điện hạ lại chắc là hạ quan có cách phá giải nó?”



Mặt trời chói chang, đôi mắt của Sở Thừa Tắc ánh lên khiến người ta không dám nhìn thẳng. “Tiên sinh dẫn ta đến đây, nếu chỉ để báo cho ta biết mối họa này thì thật là tốn công quá.”



Nghe được những lời này, ánh mắt Sầm Đạo Khê nhìn Sở Thừa Tắc lập tức thay đổi hẳn.



Nếu trước đó hắn nói mập mờ chưa rõ ràng lắm là vì còn muốn thăm dò vị quân chủ trước mặt thì lúc này, nhìn thấy tài trí và tầm mắt của Sở Thừa Tắc, hắn đã hoàn toàn rũ bỏ e ngại trong lòng mình.



Thời ấy, mưu thần đa số là am hiểu về binh pháp, rất ít người biết xem tướng, còn biết nhìn thiên văn khí tượng thì càng hiếm hoi.



Năm ấy lúc Sầm Đạo Khê đi chu du bốn phương đã học quan sát thiên văn với một ông lão, cho nên Tần Giản thuyết phục được hắn đến đây phụng sự, ngoại trừ do Sở thái tử tập hợp phỉ tặc đánh được thành Thanh Châu khiến hắn cảm thấy bất ngờ ra thì cũng là vì quan sát thấy các chòm sao ở phía nam có sự thay đổi.



Có điều không may là lúc hắn đến Thanh Châu thì Sở Thừa Tắc đã sang Mạnh Quận. Thái tử phi tiếp đãi hắn tuy chỉ là một nữ nhi nhưng lại biết trọng người hiền tài, khiến hắn nảy sinh sự tò mò về vị quân chủ vốn đầy tiếng xấu kia.



Có thể khiến cho một đám hiền thần phò tá, lại có người như thái tử phi kề cận giúp đỡ, trong mắt hắn thái tử hẳn không giống với lời đồn đãi của người đời.



Hôm ấy thái tử khải hoàn, hắn theo mấy người Tống Hạc Khanh đi nghênh đón, từ xa đã thấy y khí chất bất phàm, phong thái hơn người, nghe y thương nghị chuyện Thanh Châu với các quan, trong lòng hắn càng thêm khẳng định phán đoán của mình.



Vì thế hắn mới quyết định sẽ nói với thái tử nỗi lo lắng của mình trong lúc đi thăm dò địa hình.



Quả nhiên thái tử không làm hắn thất vọng. Hắn chỉ nói nửa đầu, y đã đoán được nửa sau.



Bá Nhạc xem ngựa cũng chỉ như thế.



Sầm Đạo Khê xác định, nếu đi theo người trước mặt, nửa đời sau của mình sẽ không bị mai một tài năng.



Hắn chắp tay nói: “Không dám giấu điện hạ, những ngày qua hạ quan đã đi xem xét những nơi mà Nguyên Giang chảy qua trong địa phận Thanh Châu, thấy những nơi bị nước nhấn chìm là đọc theo vùng Đại Khảm Thôn, nguyên nhân là vì lòng sông nơi này rất rộng, tốc độ dòng nước chậm lại, bùn đất trôi đến đây làm nước sông dâng cao. Cách mà hạ quan nghĩ ra không hẹn mà trùng hợp với việc đào kênh ngầm của thái tử phi.”



Sở Thừa Tắc hỏi: “Ý của Sầm tiên sinh là đào kênh ngầm ở khúc sông qua Đại Khảm Thôn?”



Mắt Sầm Đạo Khê ánh lên vẻ mừng rỡ. “Đúng vậy. Có điều không phải đào kênh ngầm mà là mượn cái cớ đào kênh tưới tiêu đồng ruộng để mở rộng nhánh sông con, dẫn bớt nước sông Nguyên Giang đi.”



Sở Thừa Tắc nói: “Dẫn bớt thế nào? Nói ta nghe xem.”



Sầm Đạo Khê bước nhanh tới, lấy tấm bản đồ Thanh Châu giắt trên lưng ngựa xuống, mở ra cho Sở Thừa Tắc xem.



“Để đào kênh, thái tử phi từng đề xuất một phương án là vét sạch bùn đất tích trong lòng NGuyên Giang ở khúc Đại Khảm Thôn làm cho nước sông chỗ này hạ xuống, tạo thành một nơi tích trữ nước tự nhiên rồi đào một con kênh dẫn nước ở Bảo Thụ Thôn – nơi có địa thế thấp hơn. Nước sông Nguyên Giang bị nơi có mặt nước cao chặn lại thì sẽ tạo thành sức đẩy khiến nước dẫn vào kênh. Nếu đào kênh rộng và sông, nó sẽ trở thành một nhánh sông nhỏ, lượng nước mà đập Đại Độ không chứa nổi sẽ từ đây dẫn vào lưu vực sông Xích Thủy.”



Nghĩ đến giả thuyết này có thể thành công, Sầm Đạo Khê không nén được kích động. “Người xưa có kế dương đông kích tây, ngày nay thái tử phi đào kênh tưới tiêu đồng ruộng nhưng âm thầm mở rộng lòng sông, như thế sẽ không khiến triều đình sinh nghi.”



Còn có một việc Sầm Đạo Khê không nói, đó là nếu Vân Châu xả nước thì đồng nghĩa với việc hy sinh lương thực hoa màu trong một năm, chưa nói tới việc Lý Tín có thể áp chế tiếng xấu nghìn đời này hay không, chỉ việc vân Châu hạn hán mất mùa, dân nổi dậy làm loạn đã đủ khiến triều đình đau đầu.



Sở Thừa Tắc trịnh trọng chắp tay với Sầm Đạo Khê. “Ta được tiên sinh tương trợ coi như là được nửa thiên hạ rồi.”



Lời này rất có sức nặng, Sầm Đạo Khê vội chắp tay đáp lễ, eo cúi còn thấp hơn Sở Thừa Tắc. “Được phụng sự minh chủ như điện hạ là may mắn của Sầm mỗ.”



Sở Thừa Tắc đỡ hắn dậy, nói: “Nghe nói tiên sinh hai mươi sáu mà vẫn chưa lập gia đình, nếu tiên sinh nhìn trúng quý nữ nhà nào thì ta có thể làm mối cho.”



Sầm Đạo Khê tuy có danh tiếng nhưng xuất thân bần hần, người ngoài bình phẩm về hắn khen chê có đủ, lúc hắn làm quan trong triều các thế gia quý tộc còn không coi trọng hắn, đừng nói hiện nay chỉ là một mưu thần.



Những lời này của Sở Thừa Tắc đại khái là muốn quan tâm chung thân đại sự của hắn, hơn nữa mở miệng là quý nữ nhà nào, ai nghe cũng sẽ cảm thấy y coi trọng Sầm Đạo Khê.



Sầm Đạo Khê cũng cảm thấy vị thái tử này ngoài lạnh trong nóng, trông có vẻ lãnh đạm thế thôi nhưng ngay cả chung thân đại sự của thuộc hạ mà cũng quan tâm, nhất thời trong lòng hắn càng cảm động, càng thêm kính trọng y.



“Đa tạ ý tốt của điện hạ, nhưng Sầm mỗ nhàn tản đã quen, một không công danh, hai không tài sản, cưới ai cũng chỉ là khổ người ta. Vẫn cứ đợi ngày công thành danh toại rồi hãy nghĩ đến chuyện chung thân.”



Hắn đã nói đến nước này, đương nhiên Sở Thừa Tắc cũng không cưỡng ép.



Trên đường về, Sầm Đạo Khê thấy Sở Thừa Tắc không quá vui, cứ tưởng là y đang lo lắng chuyện nối liền hai con sông Nguyên Giang và Xích Thủy nên bèn chủ động bàn luận về việc này. Trải quan bàn luận, hắn phát hiện Sở Thừa Tắc rất có kiến thức, càng cảm thấy mình theo Tần Giản đến Thanh Châu là đúng.



——



Tần Tranh xong việc mới phát hiện Sở Thừa Tắc không thấy đâu, hỏi người bên dưới mới nghe nói y và Sầm Đạo Khê cưỡi ngựa lên núi. Nhớ lại những lời Sở Thừa Tắc nói hôm qua, lòng cô thấy chột dạ vội sai người đi tìm, còn tự an ủi mình là Sở Thừa Tắc làm việc công tư phân minh, hẳn sẽ không cố tình làm khó Sầm Đạo Khê.



Các tướng sĩ vẫn không có tin tức gì, Tần Tranh tưởng tượng ra đủ mọi tình huống, tốt có xấu có. Đang lúc cực kỳ lo lắng thì thấy hai người vui vẻ trở về, trông ra dáng quân thần hòa thuận thì không khỏi trố mắt nhìn.



Lẽ nào hôm qua cô làm công tác tư tưởng thành công đến thế?



Nhà bếp đã chuẩn bị cơm nước xong, chỉ đợi Sở Thừa Tắc về là động đũa.



Các quan viên đều không dám ngồi chung mâm với Sở Thừa Tắc, buổi trưa trời lại nắng nóng nên Tần Tranh bèn cùng y vào trong xe ngựa dùng cơm.



Lúc gắp thức ăn, cô nghi hoặc nhìn Sở Thừa Tắc vài lần, đang định hỏi y và Sầm Đạo Khê đã làm gì thì y lên tiếng trước. “Ngày mai ta sẽ đi Hộ Châu một chuyến.”



Bàn tay đang gắp thức ăn của Tần Tranh khựng lại. “Đi Hộ Châu làm gì?”



Sở Thừa Tắc gắp thức ăn vào chén cho cô. “Khố phòng của Thanh Châu đã cạn sạch ngân lượng rồi, nàng đào kênh chẳng phải rất cần bạc hay sao?”



Tần Tranh càng thêm không hiểu. Hộ Châu nơi ấy còn nghèo khó hơn cả Thanh Châu, ngân lượng có thể mang ra dùng được bao nhiêu chứ?



Nếu y nói về Mạnh Quận chuyển ít ngân lượng sang đây thì cô còn tin.



Tuy nhiên ngân lượng của Mạnh Quận còn phải để dành phát lương cho binh sĩ.



Vừa nghĩ đến ngân lượng là Tần Tranh lại nhớ đến chuyện Lâm Nghiêu không ngừng khóc than với mình việc thiếu bạc, cô thở dài. “Cũng được, đến Hộ Châu chuyển vài trăm vài ngàn lượng về đây, tốt xấu gì cũng đủ đào một con kênh.”



Nếu không nghĩ đến chuyện lúc đánh trận, lương thực còn quan trọng hơn bạc thì cô đã mang ít lương thực đi bán lấy tiền.



Sở Thừa Tắc nghe cô nói cần vài trăm vài ngàn lượng thì cau mày. “Đào kênh mà cần nhiêu đó thôi sao?”



Tần Tranh suýt nữa là bị nghẹn. Cái người này đúng là không xme sổ sách nên không biết đang kẹt tiền cỡ nào.



Cô nói với giọng bất đắc dĩ. “Vậy phía Hộ Châu có thể chia sẻ được bao nhiêu ngân lượng thì chàng cứ mang về hết đi.”



Thấy Sở Thừa Tắc cau mày càng chặt hơn, cô thầm nghĩ: biết khó rồi chứ.



Cô đâu ngờ trong đầu Sở Thừa Tắc đang nghĩ: Hộ Châu có ba hoàng lăng, y vốn chỉ định đào một cái để giải nguy trước, nhưng nếu Tần Tranh đã bảo mang hết ngân lượng về thì đào hết luôn vậy, tốn công thêm tí thôi mà.