Cái chết của Tư Không Vô Địch giống như một cọng rơm cuối cùng đè gãy lưng lạc đà.
Đúng như những gì lão sợ...
Tư Không Vô Địch vừa chết, đám trưởng lão hộ pháp trong giáo thì bị Tạ Thiên Hoa đánh chết hơn nửa, số còn lại giữ được mạng cũng trọng thương hấp hối. Tám trăm tinh anh bị ba người Đỗ, Trương, Hoàn Nhan dẫn kị binh xâu xé, đến giờ cũng chỉ còn không đến trăm người giữ lại được một hơi thở.
Ngọa Hổ bang nhao nhao đầu hàng.
Lý Thanh Vân phái một người ngày đêm chạy về Cốt Sơn, bảo Hạ Hầu Duyệt đến tiếp quản sản nghiệp Ngọa Hổ bang để lại. Bọn họ thì ở lại đại bản doanh, tọa trấn Cửu Đầu Long, tránh để thế lực khác thừa lúc vắng mà vào.
Kị binh của Bắc Lĩnh tam tộc nhanh chóng tiếp quản pháo đài nổi của Ngọa Hổ bang.
Đệ tử bình thường trong bang còn có vài kẻ muốn phản kháng, song chẳng gây nên nổi sóng gió gì. Phần lớn vừa biết Tư Không Vô Địch và đám cao tầng chết đều nhao nhao tỏ ý thần phục.
Bốn người Lý Thanh Vân thì đến chiếm Ngọa Hổ đường.
Cứ như đệ tử dẫn đường kể, thì căn nhà này là trung tâm quyền lực của Ngọa Hổ bang, nơi tông chủ Tư Không Vô Địch và các trưởng lão bàn bạc đại sự. Ngọa Hổ đường nằm ở trung tâm pháo đài Cửu Đầu Long, xung quanh có tháp cao, viện trạch tạo thành thế che chắn, quả thật là nơi an toàn nhất trong thành.
Nếu không phải hôm qua Tư Không Vô Địch khinh thường, nhảy ra tiếp chiến mà co đầu rụt cổ trong Ngọa Hổ đường cố thủ.
Ba trăm năm mươi kị binh của Bắc Lĩnh tam tộc ắt phải thương vong quá nửa mới thắng nổi.
Trương Mặc Sênh cười cười, vỗ vai Lý Thanh Vân:
“Đại sư huynh, anh thật là chẳng sảng khoái gì. Có tuyệt chiêu như chỉ kiếm kia mà giấu kỹ như bưng, lúc luận bàn cũng không lấy ra để sư đệ cọ sát một phen.”
“Không phải không muốn dùng, mà là môn này sát khí quá nặng, ta cũng chưa khống chế tự nhiên được. Nếu dùng để luận bàn giao hữu sợ là nhỡ tay làm hỏng tình nghĩa đồng môn.”
Toái Đản Cuồng Ma thở dài, thành thật đáp.
Nếu được, cậu chàng cũng muốn lấy môn chỉ kiếm này ra tập dượt với đồng môn, hoàn thiện nó trước rồi mới đem lên chiến trường. Đến lúc sinh tử mới lấy ra dùng quả thật là chuyện bất đắc dĩ.
Thứ mà Lý Thanh Vân sử dụng là Lục Mạch Cửu Kiếm.
Ở đây phải giải thích một chút, Lục Mạch Thần Kiếm thực ra không phải giống như trong phim truyền hình, bắn vèo vèo như súng liên thanh. Môn này sử dụng chỉ lực của Nhất Dương Chỉ, lợi dụng sáu mạch âm dương ở tay để phát ra sáu loại kiếm khí khác nhau, sau đó dựa vào kiếm pháp để đắp đổi qua lại.
Uy lực chưa hẳn là hơn Nhất Dương Chỉ của Nhất Đăng đại sư, nhưng thắng ở tính đa dụng.
Đáng tiếc, võ công tuy có thể nói là đứng đầu, chủ nhân lại quá kém.
Đoàn Dự không có căn cơ võ học, gọi theo kiểu của Nguyễn Đông Thanh là “hổng nặng kiến thức cơ bản”. Hơn nữa, không luyện Nhất Dương chỉ gia truyền, chỉ có cách ỷ vào nội lực cao sử dụng Lục Mạch thần kiếm.
Bắc Minh thần công là võ công đạo gia, vốn thiên về âm nhu, võ nghệ Tiêu Dao lại chưa đạt tới cảnh giới tột đỉnh Nho Đạo Phật quy về một mối. Thành thử, lấy chân khí Bắc Minh sử dụng Lục Mạch thần kiếm chẳng khác nào dùng Tiểu Vô Tướng Công sao chép võ học Phật môn. Tuy là miễn cưỡng đánh ra được, nhưng hiệu quả kém cỏi.
Kiếm khí của Đoàn Dự đâm vào tường thì bật ra, gặp Hỏa Diệm đao của Cưu Ma Trí thì bị gạt đi như đuổi ruồi. Lý Thanh Vân nếu sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm nguyên bản như trong truyện, chỉ sợ sẽ gặp phải cái phiên bản lúc linh lúc không, uy lực có hạn của Đoàn Dự.
So với Nhất Dương Chỉ có thể đánh trực diện với Hàng Long, Long Tượng của Nhất Đăng thì quả thật là khác biệt như trời với vực.
Lý Thanh Vân trước là lấy chỉ lực của Nhất Dương Chỉ làm căn cơ, sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm ra đánh theo biến hóa của Độc Cô Cửu Kiếm. Độc Cô Cửu Kiếm chỉ tiến không lùi, chỉ công không thủ, bây giờ lại có thể xoay chuyển sáu loại kiếm khí đắp đổi cho nhau, chẳng khác nào cầm một thanh kiếm có thể biến đổi giữa sáu loại thuộc tính khác nhau.
Song...
Cũng vì Độc Cô Cửu Kiếm có lối đánh như vũ bão, sát khí quá nặng, nên cậu chàng mới không dám lấy ra dùng với đồng môn.
Bốn người nhắm mắt dưỡng thần một canh giờ, định bụng chờ Hạ Hầu Duyệt đến tiếp quản sản nghiệp của Ngọa Hổ bang xong sẽ quay về Cốt Sơn, bàn tính bước tiếp theo của kế hoạch.
Nào ngờ...
Chưa được một canh giờ, cửa phủ đã gần như bị người ta đạp nát.
Lý Thanh Vân thấy bên ngoài huyên náo, bèn vời một quân kị vào hỏi rõ nguyên do. Người kia mặt nhăn mày nhó, hệt như người táo bón đứng trước cửa cầu tiêu bị khóa. Nếu không phải trong phòng tối đen, bốn người Lý Tạ Đỗ Trương vừa đánh nhau xong còn mỏi mệt, chỉ sợ là lại phải kinh ngạc một phen trước “biểu cảm biết nói” của quân kị nọ.
Y chắp tay, nói:
“Bẩm bốn vị tướng quân, ngoài cửa có một đám thương nhân đứng chờ.”
Tạ Thiên Hoa nhíu mày, hỏi:
“Có phải là khách muốn qua Cửu Đầu Long?”
“Chuyện này tiểu nhân không rõ. Bọn hắn có tiêu ký của thế lực Nhất Phẩm, chúng ta cũng không dám tra hỏi quá phận.”
Trương Mặc Sênh khịt mũi, cười lạnh:
“Ha ha, thường nghe Nho môn vẫn sủa cái gì mà quân tử không gần nhà bếp, tẫn kê ti thần, cái gì mà Thất Khoa Trách... Chẳng phải vẫn không dám động đến Đại Hàn, đến Hữu Tiền Liên Minh hay sao? Rặt một bọn đạo đức giả.”
Ở Huyền Hoàng giới, Thất Khoa Trách là “quốc sách” được Thư Sơn dâng lên Đại Sở sáu ngàn năm trước. xưng là có thể khuyến nông ức thương, củng cố biên phòng.
Ý tứ đại khái, là trong thiên hạ có bảy loại người thấp hèn, nếu cần phái binh đến trú đóng ở biên ải thì nên chọn trong bảy loại này.
Thất Khoa Trách bao gồm: lại có tội, kẻ lưu vong, người ở rể, thương nhân, kẻ có người quen là thương nhân, kẻ có cha mẹ là thương nhân, kẻ có ông bà là thương nhân.
(Lại trong quan lại, là chức sắc làm việc cho quan nhưng không có phẩm giai cụ thể, thí dụ như nha sai, cai ngục)