Mỹ Vị Sơn Trang, y như tên gọi, là một thế lực rất lâu đời ở Huyền Hoàng Giới, nổi tiếng về các món ăn ngon. Sơn trang này nằm ở đại Tề, cách ải Quan Lâm rất xa. Thế nhưng nếu dùng truyền tống trận, thì chỉ cần đi chừng vài ngày là tới.
Mỹ Vị sơn trang không chịu quản thúc của các vương triều thánh địa, siêu nhiên tại ngoại, truyền thừa hàng vạn năm. Theo như hiểu biết của Vũ Tùng Lâm, từ khi nước Việt ban lệnh cấm làm thịt trâu bò cho đến nay, chắc cũng chỉ nơi đây mới có người còn biết chế biến thịt bò thành món ăn mà thôi.
Mỹ Vị sơn trang sở dĩ có thể ngang nhiên không chịu quản thúc, ấy là do nó là nơi duy nhất cả Huyền Hoàng giới bảo tồn được Trù đạo. Sơn trang này trên dưới có sáu bảy trăm đệ tử, trưởng lão, toàn bộ đều là đầu bếp. Bọn họ lấy ngũ vị tu hành, dùng trù nghệ nhập đạo, tự thành một lối.
Nghe nói trước Phản Thiên chi chiến, trù đạo luyện đến tột cùng có thể thái trời, nướng đất, hầm núi, ninh biển, chiến lực không hề thua kém gì mấy nhà Nho, Phật, Đạo.
Đại Việt lấy nông canh làm gốc, trâu bò chính là nguồn sống của dân cày. Thành thử, kể từ khi lệnh cấm của hoàng đế được ban ra, cả nước Việt không ai dám giết mổ trâu bò trái phép. Từ đó, cũng chẳng còn mấy ai biết làm thứ thịt này cả. Cho dù trâu bò có chết già, chết bệnh, cũng chỉ có nướng muối hoặc luộc đơn giản lên ăn cầm chừng mà thôi.
Tay nghề thô thiển như vậy, Nguyễn Đông Thanh đương nhiên không thể nào chấp thuận dùng để làm món ăn tiến vua.
Vũ Tùng Lâm thân là tổng binh, phải ở lại trấn giữ ải Quan Lâm, không thể tự ý rời thành. Lão suy nghĩ mãi, bèn quyết định phái thêm hai người nữa đi theo, vừa để chỉ đường, vừa để tiện bề hộ vệ cho Đông Thanh.
Chỉ đường: ấy là do muốn đến Mỹ Vị sơn trang ắt phải dùng đến truyền tống trận.
Còn hộ vệ: Vũ Tùng Lâm thấy Bích Mặc tiên sinh bây giờ đang đóng vai phàm nhân, tu vi cao cách mấy cũng không tiện ra tay, nên mới cố tình phái thêm hai hộ vệ để giải quyết những rắc rối cắc ké trên đường.
Vũ Tùng Lâm gọi tên lính hầu bên ngoài, nói:
“Cho mời lão kiếm tiên và cái tiền bối đến đây.”
Tên lính nhận lệnh, chẳng mấy chốc đã dẫn vào phòng hai người. Đi bên trái là một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo bện từ cỏ, lưng đeo một thanh kiếm giản dị, sắc mặt đầy vẻ kiệt ngạo. Một đoạn trúc chẻ đôi làm cán, kẹp lấy một miếng sắt thô sơ không gia công mấy, mũi kiếm vuông vức không mũi nhọn. Người bên phải là một ông già ăn mày thấp lùn, áo vá giày rách, lưng đeo hồ lô, tay cầm bát mẻ. Trên người lão có một mùi hơi chua chua, song không gây mũi, trái lại phảng phất một mùi thuốc bắc.
Hai người này chính là tán tu có tiếng ở nước Việt: Kiếm Tiên Sở Tinh Hà, Cái Đế Đặng Không.
“Tướng quân cho mời hai ta đến là có chuyện gì?”
Sở Tinh Hà nhướn mày, cất tiếng.
Vũ Tùng Lâm cười dài, nói:
“Lão phu lần này cho mời hai vị, là muốn nhờ hai vị hộ tống vị tiên sinh này đến Mỹ Vị sơn trang một chuyến.”
“Vũ tướng quân muốn hai ta bảo vệ một người phàm? Chẳng nhẽ tướng quân cho rằng lão đây già cả tay run, không còn cầm nổi thanh kiếm, nên mới ép lão làm cái chuyện trông trẻ này?”
“Vũ tướng quân. Xưa nay lão ăn mày vẫn ôn hòa hơn lão cầm kiếm, nhưng không có nghĩa lão không biết nổi nóng đâu.”
Cả Sở Tinh Hà, lẫn Đặng Không, đều tỏ thái độ không vui.
Vũ Tùng Lâm trợn măt, thầm nghĩ bình thường đã quá kính nể hai lão già này, khiến hiện giờ cả hai sinh lòng kiêu căng. Lão khó khăn lắm mới tranh thủ được cơ duyên đi theo tháp tùng Bích Mặc tiên sinh, vốn định giữ lại bồi dưỡng hai người này, nào ngờ hai lão già này không biết tốt xấu như vậy.
Nếu không phải hai người này tu vi đạt đến đệ tứ cảnh, lại là tán tu, chỉ e là lão đã sớm dùng quân pháp xử trí.
Vũ Tùng Lâm cười, quay sang chỗ Nguyễn Đông Thanh, nói:
“Tiên sinh chớ trách. Để bản tướng thuyết phục hai người này.”
“Được rồi, cảm tạ tướng quân đã lo lắng. Thế nhưng nếu hai vị tiền bối đây đã chê tại hạ là kẻ phàm phu vướng víu tay chân, thì thiết nghĩ cũng chớ nên cưỡng ép làm gì. Tướng quân phái hai binh sĩ theo hộ vệ cho tại hạ là được.”
Nguyễn Đông Thanh chắp tay, cười.
Kiếm Tiên, Cái Đế đồng thời gật đầu:
“Thằng nhóc này thế mà biết điều.”
“Xem ra cũng là dòng dõi thế gia đại tộc, hành xử cũng khiêm cung lễ độ. Chẳng qua tu vi yếu ớt một chút, khó mà được gia tộc coi trọng.”
Vũ Tùng Lâm cười lạnh.
Không được coi trọng?
Buồn cười. Lát nữa bản tướng quân xem xem mấy người các ngươi có hối hận thối ruột hay không.
oOo
Cuối cùng, thể theo yêu cầu của Nguyễn Đông Thanh, Vũ Tùng Lâm sắp xếp hai tiểu binh tháp tùng gã. Lão cố tình chọn một người trong quân hỏa tiêu, thạo đường lối, giỏi thăm dò. Người còn lại Vũ Tùng Lâm chọn một binh sĩ thuộc quân y, xưa nay quen việc chăm sóc quán xuyến cho người khác.
Xong xuôi đâu vào đấy, Vũ Tùng Lâm mới lấy một cái nhẫn chứa đồ đưa cho Đông Thanh, nói:
“Lần này tiên sinh làm việc cho ải Quan Lâm, lộ phí đi đường không thể để tiên sinh tự bỏ ra được. Ở đây có chút đỉnh, tuy không đủ thành kính ý, nhưng của ít lòng nhiều, chúc tiên sinh thượng lộ bình an, mã đáo thành công.”
“Tướng quân quá lời.”
Nguyễn Đông Thanh nhận nhẫn chứa đồ, chắp tay cảm tạ, sau đó dời bước đi về phía cửa phủ thành chủ. Vũ Tùng Lâm theo sát tiễn đưa, hành động cung kính khách sáo dị thường này của lão không khỏi khiến hai người Kiếm Tiên, Cái Đế tò mò. Thế là không ai bảo ai, hai lão cũng đi theo Vũ Tùng Lâm.
Sáu người rồng rắn ra đến cổng, thì chợt một người dáng vẻ lùn nhỏ, toàn thân nước da đỏ hồng lịch bịch chạy đến, nói: