Chuẩn bị xong xuôi đâu đấy, Cố Tiểu Ngũ và Tạ Thiên Hoa bắt đầu vào mỏ Cô sơn. Lối vào khu mỏ quặng là một cửa động cao khoảng hai trượng, rộng nhõn một trượng, hai bên cửa hang để la liệt một đống quặng đá chưa kịp tinh luyện và mấy cái xe đẩy gỗ nằm chỏng chơ. Đường dưới chân được ghè phẳng, lấy ván gỗ trải ra thành hai con đường riêng biệt, ngăn cách nhau bằng hàng rào.
Tiểu Ngũ giải thích rằng một bên là lối ra, dựng hàng rào là để đẩy xe chở quặng ra khỏi mỏ cho đỡ tròng trành rơi đổ. Hai người một trước một sau, kẻ cầm bó đuốc, người sử dụng Thanh Sắc thần quang soi đường, lặng lẽ tiến vào khu hầm mỏ đã không người lui tới đến cả tháng nay.
Hai bên lối đi, cỡ khoảng hai trăm thước đầu tiên tính từ chỗ cửa hầm mỏ là khu sinh hoạt. Ở đây có những căn thạch thất vuông vức được khoét vào vách đá, sâu độ hai ba mươi xích, trần cao chỉ vừa một người trưởng thành đứng lom khom, trước sau chỉ có một lối ra vào duy nhất, đủ thấy lúc chưa bị bỏ hoang nơi đây bí bách tới nhường nào.
Phòng trải đệm cỏ dưới sàn chắc hẳn là phòng ngủ của thợ mỏ, phòng kê một chiếc bàn dài và độ hai chục cái ghế gỗ đẽo gọt thô sơ từ khúc cây chắc hẳn là phòng ăn. Lại có một căn phòng lớn, trên tường có vẻ từng treo đèn dầu, dưới sàn là la liệt những thùng gỗ. Một cái mùi thối rữa và ẩm mốc bốc lên, kèm theo những tiếng lạo xạo của chân đám côn trùng chuột bọ, không khó để đoán nơi đây từng là nhà kho chứa lương thực của cả khu mỏ.
Tạ Thiên Hoa và Cố Tiểu Ngũ thăm từng căn phòng một, kiểm tra không bỏ sót một góc tường, một tấc đất.
Thế nhưng tiếc thay, mặc cho hai người Tạ, Cố chú ý cẩn thận đến mức nào thì cũng không phát hiện được bất cứ thứ gì các thợ mỏ từng ở đây lưu lại. Không thư từ, không chữ viết, cũng chẳng có đồ vật cá nhân nào. Nếu không phải Cố Tiểu Ngũ khăng khăng khẳng định khi sự việc xảy ra đã có một toán nhân công chạy được khỏi mỏ Thiết Sơn, và những thức ăn mắm muối bị hư thối phát hiện trong nhà kho khi nãy, Tạ Thiên Hoa có lẽ còn nghĩ nơi đây đã bỏ hoang cả năm trời rồi.
Toàn bộ khu sinh hoạt chìm trong sự tĩnh lặng đầy tử khí.
Cố Tiểu Ngũ hít sâu một hơi, nói:
“Đào đặc sứ, chuyện này...”
“Ừ. Xem ra trường hợp hai chúng ta sợ nhất đã xảy ra rồi. Mấy tên thợ mỏ chạy được đều nhanh chân chuồn trước, bỏ lại những người khác. Lời khai của chúng có vẻ không tin được đâu.”
Tạ Thiên Hoa thở dài.
Trước khi xuống hầm mỏ, đương nhiên là cô nàng đã nhờ Kiều tri huyện và thuộc hạ đến nhà từng thợ mỏ cũ một để lấy lời khai. Mới đầu những thợ mỏ nọ biết Tạ Thiên Hoa là người đã bắt Thẩm Tam Vạn thì rất không muốn hợp tác, bởi nhẽ trong số các hộ ở trấn Thiết Khanh, bọn họ là người chịu ơn Thẩm viên ngoại nhất. Nếu không có Cố Tiểu Ngũ đi cùng, có lẽ cô nàng phải dùng đến cách bức cung tra khảo mới cạy nổi miệng bọn họ,
Người nào người nấy đều quả quyết nói khi đó quái vật tràn ra ngoài khủng khiếp ra sao, những người đã chết liều mình cản chân để bọn họ chạy thoát thế nào. Cố Tiểu Ngũ thu lại lời khai mà vừa nghe vừa khóc, còn Tạ Thiên Hoa thì bán tin bán nghi, song không nói câu nào, chỉ âm thầm nhớ kỹ điểm chung nhất trong câu chuyện của bọn họ: tiếng kêu khàn khàn vang lên từ sâu bên trong lòng núi, không rõ là của con gì hay thứ gì.
Đến hôm nay xuống tận nơi xem xét, cô nàng mới dám khẳng định suy đoán khi trước của mình là chính xác. Những thợ mỏ sống sót đều là những người đang ở khu sinh hoạt, vừa nghe tiếng động lạ một cái là bỏ chạy về trấn ngay. Câu chuyện mà họ nói với hai người Tạ, Cố chẳng qua là thêm mắm dặm muối để đỡ áy náy trong lòng mà thôi.
Tạ Thiên Hoa hít sâu một hơi, nhìn về phía cuối con đường dẫn xuống khu khai quáng, nói:
“Tiểu Ngũ này, bây giờ nếu như cậu muốn về thì tôi cũng không nói gì đâu.”
“Thế... thế còn cô?”
Giọng Cố Tiểu Ngũ đã nghe hơi run run, chẳng qua là gắng gượng tỏ vẻ bình tĩnh mà thôi. Phản ứng này của cậu chàng há lại có thể qua mắt được Tạ Thiên Hoa? Cô nàng thở dài, nói:
“Cậu có sợ tôi cũng hiểu được. Bây giờ cũng không phải lúc để mà sính cường, làm anh hùng hảo hán. Lấy thực lực của cậu, có xuống hầm điều tra cũng chỉ tổ khiến bản thân gặp nguy mà chẳng hỗ trợ được gì. Thậm chí có thể còn khiến tôi phản phân tâm...”
“Đào đặc sứ, đừng nói nữa. Tôi tự hiểu sức mình đến đâu. Nếu cô sợ tôi sẽ liên lụy đến cô, tôi sẽ chờ ở đây chi viện. Nhỡ may mà có chuyện gì, thì cô cứ hét lên một tiếng là được.”
Cố Tiểu Ngũ gật đầu, sự sợ hãi ban nãy đã dần dần bị cái nét kiên nghị quật cường lấn át. Tạ Thiên Hoa trông thấy biểu cảm này của cậu ta, bất giác nhớ đến ông đại sư huynh nhà mình, thầm nghĩ:
“Nếu là sư huynh thì có nghe lời mình không, hay sẽ bất chấp mọi lời khuyên can mà xuống đồng sinh cộng tử với mình?”
Cố Tiểu Ngũ thấy cô nàng nghĩ ngợi linh tinh, ánh mắt là lạ, má hơi hồng lên, thì hắng giọng một cái:
“Đào... Đào đặc sứ. Cô quả thực là quốc sắc thiên hương, nhưng... nhưng tại hạ đã có người trong lòng rồi. Hai chúng ta không thể nào đâu?”
“Phì. Đừng tự đa tình. Ai thèm tranh tình nhân với A Bích? Tôi... tôi... tôi cũng có người trong lòng rồi.”
Tạ Thiên Hoa nói được câu này ra miệng, mặt càng đỏ chín hơn, quay phắt lại nhìn về phía con đường dẫn vào khu khai quáng trong lòng núi. Cô nàng hít sâu một hơi, bình tâm tĩnh khí, rồi nói:
“Không nói chuyện này nữa. Tôi đi đây.”
“Bảo... bảo trọng...”
Có lẽ do ngượng nghịu vì “ăn dưa bở”, nên ngữ khí của Cố Tiểu Ngũ cũng trở nên lí nha lí nhí, nghe cứ vo ve như muỗi kêu.
oOo
Ngăn cách giữa khu sinh hoạt và khu khai khoáng của mỏ Thiết Sơn là một cánh cửa gỗ dày chừng hai gang tay, nặng không biết bao nhiêu mà kể.
Tương truyền cái cửa phụ của mỏ Thiết Sơn này thực ra vốn là một phần của địa đạo do Hàn gia tạo nên. Sử gia đoán ba ngàn năm trước, khi Hàn gia mới bị đuổi đánh đến nước Yến đã vào mỏ Thiết sơn, khoét một đường xuyên núi đề phòng đế hậu Đại Hàn kéo quân đến truy sát thì sẽ dùng lối này để rút chạy từ Bằng Sơn Quan vào rừng núi Cô sơn, kế thì theo hướng bắc dùng đường thủy thoát đến quốc đô đại Yến – Phượng Tường thành.
Về sau cửa chính khu mỏ bị sập, người ta mới nghĩ ra cách khai thác Linh Thiết ngược từ cửa ra địa đạo này vào. Vốn cánh thợ mỏ thấy cái cửa to tổ chảng này vừa cồng kềnh vừa vướng víu, kéo xe chở sắt cũng bất tiện, mấy bận muốn phá quách đi cho rồi. Thế nhưng học giả của thành Phượng Tường liều chết ngăn cản, nói là cánh cổng này có giá trị lịch sử rất lớn, không thể phá hủy. Đặc biệt là cánh sử gia còn dọa quốc quân sẽ tự thiêu cùng cổng gỗ mỏ Cô Sơn, cánh cửa này mới thoát khỏi cái số phận hẩm hiu.
Tạ Thiên Hoa sử dụng Thanh Sắc thần quang rọi một lượt, thì phát hiện cửa gỗ này không dùng đinh đóng, mà dùng dây chằng của dã thú ngâm nước buộc chặt lại rồi hong khô.
Chất gỗ dùng cũng không phải thứ gỗ thường thấy trong kiến trúc của Huyền Hoàng giới bây giờ, mà là loại gỗ tuyết tùng có mùi thơm mọc ở phương nam, nơi bây giờ là cái Đình Chiến trạch trong Lục Trúc Hải. Loài tuyết tùng cổ này kể từ một vạn năm trước đã tuyệt tích, đến nay các thế lực lớn lắm mới có thể có một đoạn độ hai trượng. Chỉ riêng cánh cổng này thôi cũng đã bằng toàn bộ lượng tuyết tùng của ngũ đại thánh tộc cộng lại.
Tạ Thiên Hoa càng kiểm tra lại càng lấy làm tò mò, cảm thấy cánh cổng gỗ này có vẻ không phải được tạo ra từ ba ngàn năm trước như những gì sử sách ghi chép, lại càng không thể là tác phẩm của Hàn gia Đại Yến.
Phải biết cho dù có là ba ngàn năm trước, vào cái thời của Phạt Hải Kiếm Thánh đi nữa thì tuyết tùng cổ cũng là vật cực kỳ quý giá, có giá trị liên thành. Chưa nói đến độ cứng cáp dẻo dai, khả năng hàm chứa linh lực tốt chẳng kém gì Ngọc Trúc, chỉ riêng cái mùi hương đặc trưng của tuyết tùng phương nam cũng đủ khiến toàn bộ cường giả đại lục phải phát rồ. Hương tuyết tùng cổ ngoại trừ giúp tĩnh khí an thần, thì còn có tác dụng nhất định với người vừa vào Vụ Hải, giúp bọn họ có thể lờ mờ thấy được tiến cảnh của bản thân.
Kể từ sau Phản Thiên Chi Chiến, Vụ Hải mênh mang không thấy bốn phương, chẳng rõ tiến cảnh. Tu hành bên cạnh tuyết tùng cổ có thể bớt được cả chục năm mò mẫm không phương hướng, há có thể không khiến kẻ khác điên cuồng?
Một Hàn gia vừa thua trận, bị hoàng thất Đại Hàn đánh cho bỏ chạy biệt xứ, có thể nói là giật gấu vá vai, đang lúc cần dùng tiền. Nếu như có một lượng tuyết tùng cổ lớn đến thế này mà lại mang đi đóng cái cổng thì quả thực là thần kinh không bình thường. Thành thử, Tạ Thiên Hoa dám khẳng định, cánh cổng quái lạ ngăn cách khu sinh hoạt và khu khai khoáng của mỏ Cô Sơn phải là vật từ hơn vạn năm trước, một cổ vật của thời đại trước Phản Thiên Chi Chiến.
Tuyết tùng cổ quý giá đến vậy, thế mà cánh cổng này vẫn chưa bị phá ra đem bán mua biếu tặng, thì chứng tỏ vật này đang giấu một bí mật gì đó.
Một bí mật kinh thiên động địa còn đáng giá hơn giá trị của đống tuyết tùng cổ.
Và cánh sử gia của Đại Yến có vẻ đã cố tình bịa đặt, nói láo về niên đại và gốc tích của cổng gỗ, chắc hẳn là đang muốn che giấu chuyện này.