Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương - Chương 24




Khi họ tới nhà Clary, trời đã ngừng mưa. Những tia nắng đan quyện đốt tan dư vị sương mù, những vũng nước trên vỉa hè đang khô lại. Jace, Alec và Isabelle bắt Simon và Clary đợi bên xe trong khi họ đi kiểm tra, như Jace nói, “kiểm tra mức độ hoạt động của quỷ.”

Simon quan sát trong khi Ba Thợ Săn Bóng Tối đi vào lối đi hai bên trồng những bụi hoa hồng dẫn lên nhà. “Mức độ hoạt động của quỷ? Họ có thiết bị đo xem quỷ có ởtrong nhà tập yoga không á?”

“Không,” Clary hỏi, kéo chiếc mũ ẩm xuống để tận hưởng tia nắng mặt trời chiếu lên mái tóc bết nước. “Máy Cảm Ứng cho họ biết những con quỷ đó mạnh như thế nào – nếu như có quỷ.”

Simon có vẻ ấn tượng. “Cái này thật sự hữu ích đấy.”

Cô quay sang. “Simon, về chuyện tối qua…”

Cậu giơ tay chặn lại. “Chúng ta không nói về chuyện đó. Thật ra, là mình không muốn nói.”

“Hãy cho mình nói một điều.” Cô nói liến thoắng. “Mình biết khi cậu nói cậu yêu mình, điều mình nói lại không phải điều cậu muốn nghe.”

“Đúng. Mình luôn hy vọng khi mình nói ‘yêu’ một cô gái nào đó, cô gái đó sẽ trả lời mình là ‘em biết’, giống như Leia đã nói với Han trong phim Return of the Jedi”

“Nghe sến quá.” Clary nói, không thể ngừng được.

Simon lười.

“Xin lỗi,” cô nói. “Nhìn này, Simon, mình…”

“Không,” cậu nói. “Cậu nhìn đi Clary. Nhìn mình, thực sự thấy mình. Cậu làm được không?”

Cô nhìn. Nhìn vào đôi mắt đen, pha trộn thêm những màu sắc tươi ở ngoài viền con ngươi, nhìn đôi lông mày có phần không đều quen thuộc, hàng lông mi dài, mái tóc đen và nụ cười trừ cùng đôi tay búp măng nghệ sĩ, tất cả những gì thuộc về Simon, người là một phần của cô. Nếu phải nói thực, liệu cô có dám nói rằng cô không hề biết Simon yêu mình không? Hay chỉ là cô không biết cô sẽ làm gì nếu cậu yêu cô nhỉ?

Cô thở dài. “Nhìn qua ảo ảnh rất dễ. Con người mới khó nhìn thấu.”

“Chúng mình đều muốn thấy thứ chúng mình muốn thấy,” cậu bình thản nói.

“Không phải Jace,” cô nói, không ngăn được mình, khi nghĩ tới đôi mắt trong sáng không hề biết nao núng kia.

“Nhất là anh ta đấy.”

Cô nhíu mày. “Cậu làm sao lại…”

“Được rồi,” giọng Jace vọng tới, ngắt lời họ. Clary vội quay sang. “Bọn anh đã kiểm tra bốn góc chung quanh rồi – chẳng có gì. Mức độ hoạt động thấp. Có lẽ chỉ có vài Kẻ Lầm Đường và chúng sẽ không làm phiền tới chúng ta nếu chúng ta không chui vào tầng trên.”

“Và nếu chúng dám,” Isabelle nói, nụ cười sáng lấp lánh hệt như sợi roi, “bọn mình cũng sẵn sàng rồi.”

Alec lôi cái túi nặng từ sau xe xuống, vứt nó lên vỉa hè. “Sẵn sàng lên đường,” anh tuyên bố. “Đi đá đít quỷ nào!”

Jac nhìn anh ta mà cảm thấy là lạ. “Cậu ổn không đấy?”

“Ổn.” Không nhìn Jace, Alec bỏ cung và những mũi tên xuống mà cầm cây gậy lông vũ sáng bóng, với hai lưỡi dao loang loáng bật ra khi anh ta chạm nhẹ ngón tay vào. “Cái này tốt hơn.”

Isabelle lo lắng nhìn ông anh. “Nhưng cây cung…”

Alec ngắt lời. “Anh biết anh đang làm gì mà Isabelle.”

Cánh cung nằm ngang ghế sau, tỏa sáng dưới ánh mặt trời. Simon cầm lấy, rồi rụt tay lại khi một nhóm thiếu phụ đang cười đùa đẩy xe nôi ngang qua, hướng về phía công viên. Họ không để ý tới ba cô cậu vũ khí đầy mình đang ngồi xổm cạnh chiếc xe tải vàng. “Sao tôi lại thấy được mấy người nhỉ?” Simon hỏi. “Chuyện gì với phép thuật tàng hình của các cậu vậy?”

“Cậu nhìn thấy chúng tôi,’ Jace nói, “vì giờ cậu biết sự thực cái cậu đang nhìn.”

“Ờ há,” Simon nói. “Tôi cũng đoán vậy.”

Simon có cự nự đôi chút khi họ bảo cậu ở lại trông xe, nhưng nếu Jace nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có một chiếc xe nổ máy đậu bên đường để tẩu thoát. “Ánh mặt trời là đòn chí từ với quỷ, nhưng nó không làm hại gì tới Kẻ Lầm Đường. Nếu chúng đuổi theo bọn tôi thì sao? Nếu chiếc xe bị kéo đi thì sao?”

Điều cuối cùng Clary thấy về Simon khi quay lại vẫy tay chào cậu lúc đứng trên hiên trước là đôi chân dài đặt trên bảng đồng hồ trong khi cậu lục tìm bộ sưu tập CD của Eric. Cô thở dài nhẹ nhõm. Ít nhất thì Simon cũng được an toàn.

Mùi hôi ập vào mặt cô ngay khi họ bước qua cửa trước. Một thứ mùi khó tả, giống như mùi trứng thối trộn cùng thịt lên giòi và tảo mục trên bãi cát nóng. Isabelle nhăn mũi và còn mặt Alec xanh lét, nhưng Jace trông như thể đang ngửi một loại nước hoa hiếm. “Quỷ ở đây,” anh nói, với niềm hân hoan lạnh lùng. “Cũng mới đây thôi.”

Clary bồn chồn nhìn anh. “Nhưng chúng không còn…”

“Không.” Anh lắc đầu. “Bằng không bọn anh đã cảm nhận thấy chúng. Tuy vậy.” Anh hất hàm về phía cửa nhà bà Dorothea, đóng kín mít không để cho lấy một tia sáng lọt qua. “Có lẽ bà ta sẽ phải trả lời vài câu hỏi, nếu hội Clave nghe tin bà ta vẫn đang tiếp vài con quỷ.”

“Em không nghĩ hội Clave thích thú bất cứ thì gì trong căn nhà này,”Isabelle nói. “Mà nghĩ kỹ lại, có lẽ bà ta sẽ thoát khỏi vụ này dễ dàng chúng ta đấy.”

“Họ sẽ không quan tâm miễn là cuối cùng chúng ta có được chiếc Cốc.” Alec liếc nhìn chung quanh, đôi mắt xanh quét qua sảnh ngoài nhỏ nhắn, cầu thang cong cong vẫn lên tầng trên, những vết ố trên tường.”Đặc biệt nếu chúng ta làm thịt vài Kẻ Lầm Đường trong khi lấy thánh vật.”

Jace lắc đầu. “Chúng ở tầng trên. Tớ đoán rằng chúng sẽ chẳng làm phiền chúng ta nếu chúng ta không cố bước vào.”

Isabelle thổi lọn tóc dính khỏi mặt và nhíu mày nhìn Clary. “Cậu còn đợi gì nữa?”

Clary bất giác nhìn sang Jace, anh cười nửa miệng với cô. Đi đi, đôi mắt anh nói.

Cô tiến qua sảnh tới trước cửa nhà Dorothea, bước từng bước cẩn trọng. Với phần giếng trời đen thui vì bụi bẩn và đèn ngoài hành lang vẫn hỏng, ánh sáng duy nhất đến từ ngọn đèn phù thủy của Jace. Không khí nóng nực và ngọt ngạt, những bóng đen dường như đang hiện ra trước mặt cô như những loài thực vật sinh trưởng nhanh một cách thần kỳ trong khu rừng ác mộng. Cô vươn tay gõ cửa nhà bà Dorothea, một lần nhẹ và rồi dùng nhiều lực hơn.

Cửa bật mở, để luồng ánh sáng rọi ra sảnh. Dorothea đứng đó, to lớn bệ vệ trong từng vệt vằn vện xanh xanh vàng vàng. Hôm nay bà ta đội khăn màu vàng dạ quang có đính một con chim hoàng yến được nhồi bông và viền áo chạy theo hình chữ chi. Đôi khuyên tai hình chúc đài thả lắc lư trên tóc, hai bàn chân to tướng để trần. Clary ngạc nhiên quá – trước đây cô chưa bao giờ thấy Dorothea đi chân trần, hoặc không mang gì khác hơn ngoài đôi dép lê lót nhung đã cũ xỉn.

Móng tay bà ta sơn màu hồng ngọc trai nhạt, rất hợp mốt.

“Clary!” bà ta reo lên và ôm Clary chặt cứng. Trong một thoáng Clary cố chống cự, bị lôi vào cùng mùi nước hoa nồng đượm, mớ vải nhung lòe xòe và chiếc khăn tua rua của bà Dorothea. “Lạy Chúa lòng lành, cháu gái,” bà phù thủy nói, lắc đầu tới khi bông tay lắc le như chuông gió trong ngày bão. “Lần cuối cùng ta gặp cháu, cháu đã biến mất qua Cổng Dịch Chuyển. Cháu đi tới đâu vậy?”

“Williamsburg ạ,” Clary nói và cố thở.

Đôi lông mày của Dorothea nhướn tít lên. “Và người ta nói không hề có hệ thống vận chuyển công cộng thuận tiện ở Brooklyn cơ đấy.” Và bà ta mở rộng cửa và ra hiệu cho cả bọn bước vào.

Nơi này vẫn chẳng thay đổi gì từ lần cuối Clary thấy nó: vẫn những lá bài tarot và quả cầu thủy tinh xếp trên bàn. Những ngón tay cô ngứa ngáy muốn động tới những lá bài, muốn cầm chúng lên và xem những gì giấu đằng sau những hình vẽ trơn mượt kia.

Dorothea vui vẻ ngồi xuống chiếc ghế tựa và nhìn những Thợ Săn Bóng Tối bằng đôi mắt đen như đôi mắt của con hoàng yến nhồi bông trên mũ. Mùi nến thơn cháy trên đĩa ở hai bên bàn dù sao cũng ít nhiều át đi mùi tanh hôi nồng nặc lan tới từng centimet của căn hộ. “Vậy là cháu chưa tìm thấy mẹ?” bà ta hỏi Clary.

Clary lắc đầu. “Chưa ạ. Nhưng cháu biết ai đã bắt cóc mẹ cháu.”

Đôi mắt Dorothea đảo từ Clary tới Alec và Isabelle, cô nàng đang săm soi tấm áp phích Chỉ tay Số Phận trên tường. Jace, tỏ ra cực kỳ bàng quan trong vai trò vệ sĩ, ngồi ngả ngớn trên tay ghế. Hài lòng vì chẳng có món đồ nào bị tổn hại, Dorothea quay lại nhìn Clary. “Có phải là…”

“Valentine ạ,” Clary xác nhận. “Đúng ạ.”

Dorothea thở dài. “Ta đã lo sợ điều này.” Bà ta ngồi dựa lên mấy cái đệm. “Cháu biết hắn muốn gì từ mẹ cháu không?”

“Cháu biết mẹ cháu từng kết hôn với hắn…”

Bà phù thủy làu bàu. “Yêu nhầm người.Xấu nhất rồi đấy.”

Nghe thế Jace kêu lên một tiếng khe khẽ, gần như không nghe thấy – giống như một tiếng tặc lưỡi . Đôi tai Dorothea dựng lên như tài mèo. “Có gì vui sao, cậu bé?”

“Bà thì biết gì nào?” anh nói. “Ý là về tình yêu ấy,”

Dorothea đặt hai bàn tay trắng mềm mại lên lòng. “Hơn là cậu nghĩ đấy,” bà ta nói. “Không phải ta đã đọc cho cậu về lá trà sao, Thợ Săn Bóng Tối? Cậu đã phải lòng nhầm người chưa thế?”

Jace nói, “Không may là, thưa mẹ Bề Trên, tình yêu đích thực của đời con vẫn là con mà thôi.”

Nghe vậy Dorothea cười rú lên. “Ít ra thì,” bà nói, “cậu không phải lo bị từ chối, Jace Wayland ạ.”

“Không hẳn. Tôi thi thoảng cũng từ chối bản thân, chỉ cho vui ấy mà.”

Dorothea lại cười rú. Clary ngắt lời. “Bà hẳn phải thắc mắc nguyên do chúng cháu tới đây, Quý Bà Dorothea.”

Dorothea thôi cười mà lau mắt. “Làm ơn đi cháu,” bà bảo, “cứ tự nhiên gọi ta bằng daanh xưng thích hợp, như cậu kia đã làm kìa. Cháu có thể gọi ta là Phu nhân. Với lại nghĩ,” bà ta nói thêm, “cháu tới đây để cho ta bớt cô quạnh. Đúng không?”

“Cháu không có thời gian để giúp ai đó bớt cô đơn. Cháu phải giúp mẹ cháu, và để làm thế cháu cần một số thứ.”

“Và đó là gì nào?”

“Một thứ được gọi là Cốc Thánh,” Clary nói, “và Valentine nghĩ mẹ cháu có nó. Vì thế hắn bắt cóc mẹ cháu.”

Dorothea có vẻ thực sự, thực sự bị choáng. “Chiếc Cốc Thiên Thần ư?” bà ta ngờ vực hỏi lại. “Chiếc cốc của Raziel, ngài đã dùng để trộn máu của Đấng Thiên Thần và máu người rồi đưa cho một người uống, tạo ra Thợ Săn Bóng Tối đầu tiên đấy ư?”

“Chính cái đó,” Jace nói, giọng nói có chút lạnh nhạt.

“Thế quái nào hắn lại nghĩ Jocelyn có nó chứ?” Dorothea nói. “Jocelyn, chứ không phải ai khác?” Bà ta đã nhận ra trước khi Clary kịp trả lời. “Vì mẹ cháu không hề là Jocelyn Fray, tất nhiên rồi,” bà nói. “Cô ta là Jocelyn Fairchild, vợ hắn. Người mà mọi người tưởng đã chết. Mẹ cháu đã lấy chiếc Cốc và chạy trốn, đúng không?”

Có gì đó lóe lên trong mắt bà phù thủy, nhưng khi bà ta hạ mi mắt xuống rất nhanh nên Clary nghĩ chắc mình tưởng tượng ra. “Vậy,” Dorothea nói, “cháu có biết giờ mình phải làm gì không? Dù mẹ cháu giấu nó ở đâu, cũng không thể dễ mà tìm ra được – kể cả nếu cháu muốn tìm ra nó. Valentine sẽ làm nhiều điều kinh khủng khi có được chiếc Cốc.”

“Cháu muốn tìm ra nó,” Clary nói. “Chúng cháu muốn…”

Jace nhẹ nhàng ngắt lời. “Bọn này biết nó ở đâu,” anh nói. “Chỉ còn việc lấy lại nó thôi.”

Đôi mắt Dorothea mở lớn. “Vậy, nó ở dâu?”

“Ở đây,” Jace nói, giọng tự nhiên tới mức Isabelle và Alec đang đi vẩn vơ xem xét giá sách cũng phải quay lại nhìn.

“Ở đây ư? Ý cậu là cậu cầm theo nó hả?”

“Không hẳn đâu, thưa Phu nhân” Jace nói, người mà. Clary cảm thấy, đang tự thỏa mãn mình bằng thái độ thực sự đáng sợ kia. “Ý tôi chính bà đang có nó.”

Miệng Dorothea ngậm chặt lại. “Không vui đâu,” bà ta nói, quá dữ dội khiến Clary lo rằng mọi chuyện đang diễn biến theo chiều hướng xấu đến tồi tệ. Vì sao Jace luôn thích đi chọc giận người khác chứ?

“Đúng là bà đang giữ nó,” Clary vội vàng xen vào, “nhưng không…”

Dorothea từ ghế tựa đứng thẳng dậy vươn hết chiều cao lừng lững của mình, quắc mắt trừng trừng nìn xuống cả hai. “Các cháu nhầm rồi,” bà ta lạnh lùng cất tiếng. “Nhầm chuyện tưởng tượng rằng ta có nó, và nhầm vì dám tới đây và bảo ta là kẻ dối trá.”

Tay Alec đưa lên thanh trượng. “Ôi trời,”anh lầm rầm.

Bối rối, Clary lắc đầu.“Không,” cô nói liến thoắng, “cháu không bảo bà nói dối, cháu thề. Cháu chỉ nói chiếc Cốc ở đây, nhưng bà không hề hay biết.”

Quý Bà Dorothea nhìn cô. Đôi mắt, gần như khuất dưới những nếp nhăn của khuôn mặt, cứng ngắc như đá cẩm thạch. “Giải thích đi,” bà nói,

“Cháu đang nói mẹ cháu giấu nó ở đây,”Clary nói. “Nhiều năm về trước. Mẹ cháu chưa bao giờ nói với bà vì mẹ cháu không muốn liên lụy tới bà.”

“Vậy có thể cô ấy đưa nó cho bà, nhưng dưới dạng một vật khác,” Jace giải thích, “như một món quà.”

Dorothea ngơ ngác nhìn anh.

Bà ta không nhớ sao? Clary bối rối nghĩ. “Bộ bài Tarot,” cô nói. “Những lá bài mà mẹ cháu vẽ cho bà.”

Ánh mắt bà phù thủy chiếu đến những lá bài được gói trong lớp khăn lụa đặt trên bàn. “Những lá bài ư?” Trong lúc cái nhìn của bà ta lớn dần, Clary bước tới bàn và cầm bộ bài lên. Chúng ấm và khá trơn. Giờ đây, vì trước kia cô không thể làm được, cô cảm nhận được năng lượng từ những chữ rune vẽ ở mặt sau đập dồn qua dầu ngón tay mình. Cô tìm lá bài Ace of Cups và lôi ra, đặt những lá bài còn lại xuống bàn.

“Nó đây,” cô nói.

Tất cả đang nhìn cô, chờ đợi, im lặng tuyệt đối. Cô chầm chậm lật lá bài lại và nhìn lại những nét vẽ của mẹ: hình hai bàn tay thon thon, những ngón tay năm quanh chiếc Cốc Thánh bằng vàng.

“Jace,” cô nói. “Đưa thanh stele cho em.”

Anh ấn thanh stele vào lòng bàn tay cô, cảm giác âm ấm và sống động. Cô lật lá bài lại và lần theo những chữ rune trên mặt sau – chỗ này một đường xoắn chỗ kia một đường thẳng và chúng mang ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. Khi cô quay lá bài lại, bức hình có chút thay đổi: Những ngón tay đã thả chân Cốc, và bàn tay dường như đang dâng chiếc Cốc cho cô mà nói, Đây, cầm lấy đi.

Cô nhét thanh stele vào túi. Rồi, dù phần tranh vẽ trên lá bài không lớn hơn tay cô, cô nhét vào như thể nhét vào một khe hở rộng. Tay cô cầm chặt lấy chân Cốc - những ngón tay nắm chặt lấy – và khi rút tay lại – chiếc cốc nằm gọn trong tay, cô nghĩ đã nghe thấy những tiếng thở dài thật khẽ trước khi lá bài, giờ trống không và trắng tinh, biến thành tro bụi và cháy qua kẽ ngón tay cô xuống sàn nhà trải thảm.