Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương

Vũ Khí Bóng Đêm 1: Thành Phố Xương - Chương 2




2

BÍ MẬT VÀ DỐI TRÁ

Hoàng tử bóng tối cưỡi chiến mã đen, áo choàng lông chồn bay phấp phới. Vương miện vàng ôm lấy mái tóc vàng, khuôn mặt đẹp trai lạnh băng vì hăng máu chiến, và...

“Và tay anh ta trông giống quả cà tím,” Clary bực tức lầm bầm một mình. Bức tranh hỏng rồi. Thở dài một tiếng, cô lại xé thêm một trang giấy khỏi tập phác thảo, vo viên rồi ném thẳng vào bức tường phòng ngủ màu vàng cam của mình. Giờ sàn nhà đã lổn nhổn những cục giấy vứt đi, một dấu hiệu hiển hiện cho thấy dòng sáng tạo của cô đã không tuôn trào như cô mong muôn. Cô ước lần thứ một ngàn rằng mình có thể được giống mẹ một chút xíu thôi. Mọi thứ do Jocelyn Fray sơn, vẽ hay phác thảo đều đẹp mà dường như chẳng cần bỏ chút công sức nào.

Clary bỏ tay nghe xuống – ngừng ngang bài hát của nhóm Stepping Razor – và day thái dương đang ê ẩm. Chỉ khi đấy cô mới ý thức được tiếng chuông điện thoại kêu lớn, chát chúa vọng khắp căn hộ. Ném tập phác thảo lên giường, cô nhảy bật dậy chạy vào phòng khách, nơi chiếc điện thoại kiểu cổ màu đỏ nằm án ngữ trên bàn gần cửa trước.

“Clarissa Fray phải không?” Giọng ở đầu dây bên kia nghe khá quen, dầu Clary chưa nhận ra ngay được.

Clary bồn chồn xoắn sợi dây điện thoại quanh ngón tay. “Vâââng?”

“Xin chào, tôi là một trong những kẻ quá khích cầm dao mà em gặp ở Xứ Quỷ vào đêm trước đây? Tôi sợ là tôi đã gây ấn tượng xấu nên mong là em sẽ cho tôi cơ hội sửa sai...”

“SIMON!” Clary giơ điện thoại ra xa tai trong khi cậu bạn thì bò ra cười. “Không có vui đâu!”

“Vui chứ. Chỉ là cậu không thấy vui chỗ nào thôi.”

“Mắc dịch.” Clary thở dài dựa lưng vào tường. “Cậu sẽ không cười được đâu nếu cậu có ở đây khi mình về nhà tối qua.”

“Sao lại không?”

“Mẹ mình. Mẹ không vui vì bọn mình về trễ. Mẹ tá hỏa. Kinh khủng lắm.”

“Sao cơ? Tắc đường đâu phải lỗi của chúng ta!” Simon phản đối. Cậu là em út trong hai chị em và cực kỳ nhạy cảm trước những bất công trong gia đình.

“À vâng, nhưng mẹ lại không thấy thế. Mình làm mẹ phật ý, làm mẹ thất vọng, làm mẹ lo lắng, blah blah blah. Mình là tai họa cho sự tồn tại của mẹ,” Clary vừa nói vừa nhại lại chính xác cụm từ mẹ dùng mà chỉ thấy hơi hơi có tội.

“Vậy là cậu bị cấm túc hả?” Simon hỏi, giọng hơi lớn hơn một chút. Clary có thể nghe tiếng lào xào sau lưng cậu bạn; có người đang nói chuyện với nhau.

“Mình chưa biết,” cô đáp. “Sáng nay mẹ mình ra ngoài cùng chú Luke và chưa về. Mà cậu đang ở đâu thế? Nhà Eric à?”

“Ừ. Bọn mình vừa mới dợt xong.” Có tiếng chũm chọe vang lên sau Simon. Clary nhăn mặt. “Tối nay Eric sẽ đọc thơ tại quán Java Jones,” Simon nói tiếp, nhắc tới tên quán cà phê ở góc đường nhà Clary nơi thi thoảng có biểu diễn nhạc sống. “Toàn bộ ban nhạc sẽ tới ủng hộ. Cậu muốn đi không?”

“Ừ cũng được.” Clary ngừng lại, lo lắng quấn dây điện thoại. “Đợi đã, không được rồi.”

“Này mấy cậu, im giùm chút, được chứ?” Simon hét, giọng cậu nghe xa xa khiến Clary ngờ rằng cậu đang giơ ống nghe ra xa. Ngay sau đấy Simon quay lại, nghe có vẻ không hiểu. “Vậy là có đi hay không cơ?”

“Mình không biết.” Clary cắn môi. “Mẹ vẫn còn giận mình vụ tối qua. Mình không chắc mình có muốn chọc giận mẹ bằng cách hỏi xin gì nữa. Nếu bị rắc rối gì, thì mình cũng không muốn là do trò thơ thẩn vớ vẩn của Eric đâu.”

“Thôi nào, thơ cũng đâu đến nổi,” Simon nói. Eric là cậu bạn hàng xóm của Simon, cả hai quen biết nhau gần như từ lúc lọt lòng. Không thân thiết như kiểu của Simon và Clary, nhưng cả hai đã thành lập ban nhạc rock vào đầu năm lớp 11 cùng với những người bạn của Eric là Matt và Kirk. Họ đều đặn tập với nhau tại ga – ra nhà bố mẹ Eric mỗi tuần. “Hơn nữa, cậu không phải xin,” Simon nói thêm, “chỉ là một buổi cà phê bình thơ loanh quanh gần khu nhà cậu thôi mà. Có phải mình mời cậu tới cuộc ăn chơi trác táng tại Hoboken đâu. Mẹ cậu có thể đi cùng nếu muốn.”

“ĂN CHƠI TRÁC TÁNG Ở HOBOKEN!” Clary nghe thấy tiếng ai đó, có thể là Eric, la làng lên. Thêm một tiếng chũm chọe xập xèng. Cô tưởng tượng cảnh mẹ mình lắng nghe Eric đọc thơ, và thầm rùng mình.

“Mình không biết. Nếu tất cả các cậu đều chường mặt đến đấy, mình nghĩ mẹ sẽ hoảng cho xem.”

“Vậy mình sẽ tới một mình. Mình sẽ đón cậu và chúng ta có thể cùng nhau đi bộ tới, gặp hội còn lại ở quán. Mẹ cậu sẽ không nghĩ ngợi gì đâu. Bà quý mình mà.”

Clary phải phì cười. “Là biểu hiện cái sở thích có vấn đề của mẹ mình đây, nếu mà cậu có hỏi mình ấy.”

“Chẳng ai hỏi đâu.” Simon ngắt máy, giữa những tiếng hò hét của đám bạn trong ban nhạc.

Clary ngắt điện thoại và nhìn quanh phòng khách. Mọi bằng chứng về khuynh hướng nghệ thuật của mẹ ở khắp nơi, từ những chiếc gối sa lông tự làm bọc nhung xếp trên ghế sô pha đỏ sậm, đến mấy bức tường treo đầy tác phẩm hội họa của Jocelyn được đóng khung cẩn thận – hầu hết là tranh phong cảnh: những con đường quanh co của khu Manhattan trong vàng vọt ánh đèn, những cảnh công viên Prospect trong mùa đông, những hồ nước xám xịt được viền quanh bằng mấy lớp băng trắng mỏng tang như đăng ten.

Trên bệ lò sưởi là bức ảnh bố Clary lồng khung. Một người đàn ông da trắng mặc quân phục mang vẻ mặt trầm tư, khóe mắt chan chứa ánh cười. Bố từng là lính chiến ở nước ngoài và đã được nhận huân chương. Jocelyn có giữ vài huân chương của bố trong một cái hộp nhỏ đặt đầu giường. Nhưng mấy tấm huân chương đó chẳng giúp được gì cho Jonothan Clark khi ông lao xe vào thân cây ngoài Albany và chết trước khi cô con gái chào đời.

Jocelyn sử dụng lại nhũ danh sau khi ông qua đời. Mẹ chưa bao giờ kể về bố Clary, nhưng vẫn giữ cái hộp có khắc tên viết tắt J.C. của ông bên cạnh giường. Cùng với những tấm huân chương là một hai bức ảnh, chiếc nhẫn cưới và một lọn tóc vàng. Thi thoảng Jocelyn đem hộp ra mở rồi nhẹ nhàng giữ lọn tóc trong tay trước khi đặt lại và khóa hộp cẩn thận.

Tiếng khóa lách cách ngoài cửa kéo Clary trở về thực tại. Cô vội vàng buông mình xuống ghế và cố giả vờ như thể đang mải mê đọc một trong mấy cuốn sách bìa mềm mà mẹ cô chồng cả chồng trên bàn. Jocelyn cho rằng đọc sách là một cách giết thời gian thiêng liêng và thường không phiền Clary khi cô đang đọc, kể cả khi muốn quát mắng cô.

Cửa mở đánh rầm. Là chú Luke, hai tay ôm đầy thứ trông như mấy xếp bìa các tông to vuông vức. Khi chút đặt chúng xuống, Clary thấy đấy là những hộp các tông, được xếp dẹp. Luke đứng thẳng lên quay lại cười với cô.

“Bác... à, chú Luke,” cô nói. Khoảng cách đây một năm chú đã bảo cô không được gọi chú là bác Luke, bảo rằng gọi như thế làm chú có cảm giác mình già già, hơn nữa lại khiến chú nhớ tới truyện Túp liều của bác Tom. Hơn nữa, chú đã nhẹ nhàng nhắc cô rằng, chú không thực sự là bác của cô, mà chỉ là một người bạn thân của mẹ và biết Clary từ hồi nào đến giờ. “Mẹ cháu đâu?”

“Đang đỗ xe,” Luke vừa đáp vừa rên rỉ đứng thẳng thân mình lêu nghêu gầy đét. Chú vẫn mặc bộ đồ quen thuộc: quần bò cũ, áo sơ mi sọc ca rô, cặp kính gọng vàng cong queo hơi trễ trên sống mũi. “Nhắc lại cho chú nhớ xem vì sao tòa nhà nay không có thang máy nhỉ?”

“Vì căn nhà này cũ rồi, và nó có đặc điểm riêng của nó,” Clary nói ngay. Chú Luke nhoẻn cười. “Những cái hộp này để làm gì ạ?” cô hỏi.

Nụ cười của chú biến mất. “Mẹ cháu muốn thu dọn vài thứ,” chú nói nhưng tránh không nhìn cô.

“Những thứ gì ạ?” Clary hỏi.

Luke phẩy tay. “Vài thứ thừa thãi trong nhà. Vướng chân vướng tay ấy mà. Cháu thừa biết là mẹ cháu chẳng chịu vất món gì đi cả. Còn cháu đang làm gì thế? Học à?” Chú giật cuốn sách ra khỏi tay cô và đọc lớn: “Thế giới đầy rẫy những sinh vật lòe loẹt mà những loại triết lý tỉnh táo hơn đã bác bỏ. Thần tiên và quỷ lùn, ma và quỷ, vẫn còn chờn vờn...” Chú hạ thấp cuốn sách xuống và nhìn cô qua đôi tròng kính. “Bài vở trên trường đấy à?”

“Cuốn Cành cây vàng á? Không. Hai tuần nữa bọn cháu mới đi học cơ.” Clary lấy lại cuốn sách. “Đây là của mẹ cháu.”

“Chú cũng cảm thấy vậy.”

Clary quẳng sách xuống bàn. “Chú Luke này?”

“Gì hử?” Quên béng mất cuốn sách, chú Luke giờ đang lục tìm gì đó trong hộp để dụng cụ cạnh lò sưởi. “À, đây rồi.” Chú lôi ra một súng bắn keo nhựa màu cam và nhìn nó một cách thỏa mãn.

“Chú sẽ làm gì nếu chú nhìn thấy những thứ mà không ai khác nhìn thấy vậy?”

Súng bắn keo rơi khỏi tay Luke, trúng lò sưởi lát gạch. Chú quỳ xuống nhặt lên, mà không nhìn sang Clary. “Cháu muốn nói nếu chú là nhân chứng duy nhất của một vụ án, kiểu vậy đó hả?”

“Không. Cháu muốn nói, nếu có những người khác xung quanh chú, nhưng chú là người duy nhất có thể nhìn thấy vài thứ. Như kiểu nó vô hình với tất cả mọi người, trừ chú ra.”

Luke lưỡng lự, vẫn quỳ, cái súng bắn keo bị móp nắm chặt trong tay.

“Cháu biết nói nghe có vẻ điên khùng,” Clary lo lắng đánh liều, “nhưng...”

Luke quay lại. Mắt chú, đôi mắt màu xanh da ngăn ngắt đằng sau cặp kính, nhìn chăm chắm vào cô với cái nhìn yêu thương hết mực. “Clary, cháu là một họa sĩ, giống mẹ cháu. Nghĩa là cháu nhìn thế giới theo nhiều cách mà những người khác không nhìn được. Đó là năng khiếu của cháu, năng khiếu được nhìn thấy cái đẹp lẫn vẻ kinh hoàng trong những thứ tầm thường. Năng khiếu này không làm cháu bị điên đâu – chỉ khác biệt mà thôi. Khác biệt chẳng có gì là sai cả.”

Clary co chân, gác cằm lên đầu gối, trong tâm tưởng cô trông thấy nhà kho, sợi roi vàng của Isabelle, tới cậu thiếu niên tóc xanh co giật trong cơn giãy chết, và đôi mắt nâu vàng của Jace. Cái đẹp lẫn vẻ kinh hoàng. “Nếu bố cháu còn sống, chú nghĩ bố cháu sẽ là nghệ sĩ luôn chứ?” Clary hỏi.

Chú Luke có vẻ choáng. Trước khi chú kịp trả lời, cánh cửa bật mở và mẹ Clary bước vào, đôi bốt cao gót gõ lộp cộp lên nền nhà lát gỗ bóng loáng. Bà đưa cho chú Luke chùm chìa khóa xe loảng xoảng rồi quay lại nhìn cô con gái.

Jocelyn Fray là một người phụ nữ có vóc dáng gọn gàng, thon thả, mái tóc sậm màu hơn tóc Clary một chút và dài hơn gấp đôi. Lúc này mái tóc được cuốn thành búi đỏ sậm, với một chiếc bút chì than xiên ngang cố định tóc. Mẹ mặc bộ áo liền quần vương vãi màu vẽ bên ngoài áo phong màu hoa oải hương, đi đôi bốt nâu có đế giày đóng cứng những vệt sơn dầu.

Mọi người thường nói Clary giống mẹ, nhưng bản thân cô lại chẳng thấy vậy. Họ chỉ giống nhau ở vóc người: cả hai cùng khá thon thả, ngực nhỏ, hông hẹp. Cô biết mình không xinh đẹp bằng mẹ. Nếu muốn xinh đẹp bạn phải cao ráo yểu điệu thướt tha. Nếu bạn thấp như Clary, chỉ cao có năm foot, bạn chỉ đáng yêu mà thôi. Không dễ thương cũng chẳng xinh đẹp, chỉ đáng yêu thôi. Đã thế lại thêm mái tóc màu cà rốt và khuôn mặt đầy tàn nhang, nên Clary chỉ là một con búp bê vải Raggedy Ann mũm mĩm bên cạnh bà mẹ đẹp như búp bê Barbie.

Jocelyn thậm chí còn có cách bước đi uyển chuyển khiến mọi người phải ngoái đầu nhìn. Clary thì ngược lại, cứ hay vấp ngã. Lần duy nhất mọi người quay lại nhìn cô là khi cô lăn đùng đùng ngang qua họ do ngã cầu thang.

“Cám ơn đã mang giúp mấy hộp lên nhé,” mẹ Clary vừa nói vừa mỉm cười với chú Luke. Chú không cười đáp. Dạ dày Clary dâng lên cảm giác khó chịu. Rõ là đang có chuyện gì đây. “Xin lỗi, em mất một lúc lâu mới tìm được chỗ đỗ xe. Chắc trong công viên hôm nay phải có tới cả triệu người quá...”

“Mẹ ơi?” Clary cắt ngang. “Những cái hộp này dùng làm gì ạ?”

Jocelyn cắn môi. Chú Luke đánh mắt về phía Clary, câm lặng giục Jocelyn tiến lên phía trước. Jocelyn vén tóc ra sau tai bằng một cử chỉ lóng ngóng hất cổ tay, rồi ngồi xuống bên cô con gái trên chiếc ghế dài.

Ngồi gần thế này, Clary mới thấy mẹ mình mệt mỏi ra sao. Mắt mẹ thâm quầng, mí mắt trĩu nặng vì thiếu ngủ.

“Có phải vì chuyện tối qua không ạ?” Clary hỏi.

“Không,” mẹ vội nói rồi lại chần chừ. “Có thể là một chút. Lẽ ra con không được làm chuyện như tối qua. Con phải hiểu chứ?”

“Và con đã xin lỗi rồi. Chuyện này là thế nào ạ? Nếu mẹ định cấm túc con thì mẹ cứ nói luôn đi.”

“Không,” Jocelyn nói, “mẹ không định cấm túc con.” Giọng mẹ căng như dây đàn. Bà liếc sang chú Luke, chú lắc đầu.

“Cứ nói cho con bé nghe đi, Jocelyn,” chú bảo.

“Hai người có thể đừng nói chuyện như thể con không hiện hữu ở đây không?” Clary giận dữ. “Và chú có ý gì khi bảo là nói với cháu? Nói với cháu cái gì?”

Jocelyn thở dài. “Chúng ta sẽ đi nghỉ.”

Vẻ mặt chú Luke trơ ra trống rỗng, giống như một bức tranh bị xóa sạch.

Clary lắc đầu. “Chuyện này là thế đấy à? Mẹ định đi nghỉ?” Cô dựa lưng vào chồng đệm. “Con không hiểu. Thế sao mẹ phải làm nghiêm trọng thế?”

“Mẹ không nghĩ con hiểu. Mẹ muốn nói là tất cả chúng ta sẽ cùng đi nghỉ. Cả ba chúng ta – mẹ, con và chú Luke. Chúng ta sẽ tới trang trại.”

“À,” Clary liếc nhìn chú Luke, nhưng chú chỉ khoanh tay trước ngực và nhìn ra cửa sổ, cơ hàm căng cứng. Cô thắc mắc không biết chuyện gì đang làm chú bực mình đây. Chú rất yêu cái trang trại cũ kỹ tại vùng thượng New York – mười năm trước chú đã tự mua rồi sửa sang lại, và chú lại về đấy mỗi khi có thể. “Bao lâu ạ?”

“Tới hết mùa hè,” Jocelyn đáp. “Mẹ mang hộp lên đây phòng khi con muốn mang theo vài cuốn sách, vài món đồ vẽ...”

“Hết mùa hè cơ ạ?” Clary phẫn nộ ngồi thẳng dậy. “Không được đâu mẹ. Con có kế hoạch – Simon và con sẽ đi dự bữa tiệc mừng năm học mới, và con sẽ có cả đống cuộc gặp gỡ cùng nhóm vẽ, và có thêm mười lớp học nữa tại Tisch...”

“Mẹ xin lỗi về vụ Tisch. Nhưng những thứ khác có thể hủy được. Simon sẽ hiểu, và nhóm vẽ của con cũng thế.”

Clary nghe thấy sự chắc chắn không thể lay chuyển trong giọng nói mẹ và nhận ra bà rất nghiêm túc. “Nhưng con đã đóng tiền học cho từng lớp học rồi! Con đã tiết kiệm cả năm nay! Mẹ đã hứa mà.” Cô quay phắt lại phía Luke. “Nói với mẹ cháu đi! Nói với mẹ cháu rằng thế là không công bằng đi chú!”

Chú Luke không rời mắt khỏi cửa sổ, dù một thớ thịt trên má chú giật giật. “Jocelyn là mẹ cháu. Mẹ cháu mới có quyền quyết định.”

“Con không hiểu.” Clary quay lại với mẹ. “Vì sao?”

“Mẹ phải đi, Clary ạ,” Jocelyn nói, khóe môi hơi run run. “Mẹ cần sự yên bình, tĩnh lặng để vẽ. Và ngân quỹ của chúng ta giờ khá eo hẹp...”

“Vậy bán vài món đồ của bố đi,” Clary giận dữ nói. “Mẹ vẫn thường làm vậy, phải không nào?”

Jocelyn quát lại. “Thế là không công bằng.”

“Mẹ này, mẹ cứ đi nếu muốn. Con không quan tâm. Con sẽ ở lại đây một mình. Con có thể làm việc; con sẽ kiếm việc làm tại Starbucks hay chỗ nào đó. Simon nói họ lúc nào cũng cần người. Con đủ lớn để tự lo cho mình...”

“Không!” Sự sắc lạnh trong giọng nói mẹ khiến Clary nhảy dựng lên. “Mẹ sẽ trả lại tiền học vẽ cho con, Clary. Nhưng con phải đi cùng mẹ và chú. Con không có quyền lựa chọn. Con còn quá nhỏ để ở lại đây một mình. Có thể sẽ có chuyện xảy ra.”

“Như là chuyện gì? Chuyện gì có thể xảy ra chứ?” Clary gặng hỏi.

Có tiếng răng rắc. Clary quay lại ngạc nhiên thấy chú Luke đụng trúng một bức tranh lồng khung đang dựa vào tường. Chú nhặt tranh lên, trông bực bội hết sức. Khi đứng thẳng dậy, miệng chú đã mím lại thành một đường khắc nghiệt. “Tôi về đây.”

Jocelyn cắn môi. “Đợi đã.” Mẹ vội vàng đi theo chú Luke tới lối ra, bắt kịp ngay khi chú chạm tới nắm đấm cửa. Xoay người trên ghế sô pha, Clary chỉ nghe loáng thoáng được tiếng thì thầm liến thoắng từ mẹ. “...Bane,” Jocelyn đang nói. “Đã ba tuần liền em liên tục gọi cho anh ta. Hộp thư thoại nói anh ấy đang ở Tanzania. Em phải làm gì đây?”

“Jocelyn.” Chú Luke lắc đầu. “Em không thể cứ mãi tìm tới anh ta được.”

“Nhưng Clary...”

“Không phải Jonathan,” chú Luke rít lên. “Từ khi chuyện đó xảy ra, em không còn là em nữa, nhưng Clary không phải là Jonathan.”

Bố thì có liên quan gì chứ? Clary bối rối nghĩ.

“Em không thể nhốt con bé ở nhà mãi, không cho nó ra ngoài được. Con bé không chịu đâu.”

“Tất nhiên là không rồi!” Chú Luke đã nổi sung. “Con bé không phải vật nuôi, nó là một đứa mới lớn. Gần là người lớn rồi.”

“Nếu chúng ta rời thành phố...”

“Nói chuyện với Clary đi, Jocelyn.” Chú Luke quả quyết nói. “Thực sự đấy.” Chú với lấy nắm đấm cửa.

Cánh cửa bật mở. Jocelyn hét lên khe khẽ.

“Chúa ôi!” chú Luke kêu lên.

“Thực ra, chỉ là cháu thôi,” Simon nói. “Mặc dù cháu cứ được bảo cháu giống Chúa tới mức đáng ngạc nhiên.” Cậu đứng ở ngưỡng cửa và vẫy tay Clary. “Cậu sẵn sàng chưa?”

Jocelyn bỏ tay đang che miệng ra. “Simon, nãy giờ cháu nghe trộm à?”

Simon chớp mắt. “Không, cháu mới tới thôi.” Cậu nhìn gương mặt trắng bệch của cô Jocelyn và khuôn mặt u ám của chú Luke. “Có gì không ổn ạ? Cháu nên đi ạ?”

“Không có gì đâu,” chú Luke nói. “Chú nghĩ bọn chú nói xong rồi.” Chú lách người qua Simon, rảo bước thình thịch xuống cầu thang. Tiếng cửa chính đóng sầm lại từ dưới vọng lên.

Simon lóng ngóng đứng ngoài lối vào, trông không biết nên đi hay ở. “Tí mình quay lại cũng được,” cậu nói. “Thật đấy. Không vấn đề gì đâu.”

“Thế có lẽ...” Jocelyn mở lời, nhưng Clary đã đứng dậy.

“Khỏi đi, Simon. Chúng ta đi thôi,” cô nói và với lấy cái túi treo trên móc gần cửa. Cô vừa quàng túi qua vai vừa trừng mắt nhìn mẹ. “Gặp lại mẹ sau.”

Jocelyn cắn môi. “Clary, con không nghĩ chúng ta nên nói về chuyện này sao?”

“Chúng ta sẽ có nhiều thời gian để nói khi ‘đi nghỉ’ đấy.” Clary cay nghiệt đáp, hả lòng hả dạ khi thấy mẹ rúng động. “Mẹ không cần đợi con đâu,” cô nói thêm, và, chộp lấy tay Simon, gần như lôi bạn ra ngoài cửa trước.

Cậu luống cuống đi theo, ngoái lại nhìn mẹ Clary với vẻ xin lỗi. Mẹ đang đứng trông thật nhỏ bé và khổ sở, hai tay đan chặt lấy nhau. “Cháu chào cô, cô Fray!” cậu nói vói ra sau. “Chúc cô một buổi tối vui vẻ!”

“Thôi, im đi, Simon,” Clary gắt và đóng sầm cửa lại, cắt ngang lời mẹ đang đáp.

“Trời đất, cô ơi là cô, đừng có giật đứt tay tôi ra chứ,” Simon cự nự khi Clary lôi xềnh xệch cậu xuống cầu thang, đôi giày Skechers nện thình thình xuống cầu thang trong cơn tức giận. Cô liếc nhìn lên, nửa mong sẽ thấy mẹ đứng trên đầu cầu thang nhìn xuống, nhưng cánh cửa căn hộ vẫn đóng chặt.

“Xin lỗi,” Clary lầm bầm, thả tay bạn ra. Cô dừng lại ở chân cầu thang, túi xách nảy trên hông.

Khu nhà đá cát kết nâu của Clary, giống hầu hết các khu nhà khác tại khu Park Slope, từng là nơi ở của một gia đình giàu có. Bóng dáng của lối sống vương giả trước đây vẫn còn hiển hiện trên cây cầu thang cong cong, trên sàn nhà lối vào bằng đá cẩm thạch đã sứt sẹo, và trên một vuông giếng trời bên trên đầu. Giờ khu nhà bị chia thành nhiều căn hộ nhỏ, Clary cùng mẹ ở chung trong tòa nhà ba tầng này cùng một người thuê nhà ở tầng dưới. Bà ta ít khi ra ngoài, dù khách hàng cũng hiếm khi lui tới. Một tấm bảng vàng gắn cố định vào cửa cho biết bà ta là QUÝ BÀ DOROTHEA, THÀY BÓI VÀ NHÀ TIÊN TRI.

Mùi hương trầm nồng ngọt qua cánh cửa khép hờ tràn ra sảnh ngoài. Clary có thể nghe ra nhiều tiếng thì thào nho nhỏ.

“Mừng là bà này vẫn làm ăn phát đạt,” Simon nói. “Thời buổi này khó mà kiếm ra chỗ nào bói toán chính xác đáng tin được lắm.”

“Cậu có cần phải chuyện gì cũng mỉa mai hết à?” Clary gắt.

Simon chớp mắt, rõ là ngạc nhiên vô cùng. “Mình nghĩ cậu lại thích mình châm biếm dí dỏm chứ.”

Clary định trả lời thì cánh cửa nhà quý bà Dorothea mở toang và một người đàn ông bước ra. Ông ta dong dỏng cao, mang nước da nâu hồng, đôi mắt xanh vàng như mắt mèo và mái tóc rối bù. Ông ta cười xạo xạo với cô, phô ra hàm răng trắng sắc nhọn.

Một đợt sóng choáng váng tràn qua Clary, một cảm giác cực kỳ mạnh mẽ rằng cô sắp ngất.

Simon lo lắng liếc qua Clary. “Cậu ổn không? Cậu trông như sắp ngất ấy.”

Cô chớp mắt nhìn Simon. “Gì cơ? Không, mình ổn mà.”

Cậu bạn không muốn bỏ qua chuyện này. “Trông cậu như vừa gặp ma ấy.”

Clary lắc đầu. Ký ức rằng mình đã nhìn thấy gì đó cứ như đang trêu đùa cô, nhưng khi cô cố tập trung, thì ký ức ấy lại trôi tuột đi như nước. “Không có gì. Mình nghĩ mình nhìn thấy con mèo của bà Dorothea, nhưng chắc là quáng gà do ánh sáng thôi mà.” Simon nhìn cô chằm chằm. “Qua nay mình đã không ăn gì cả,” Clary nói thêm vẻ bào chữa. “Chắc là mình hơi đói thôi.”

Simon choàng tay lên vai cô an ủi. “Đi nào, mình mua chút gì cho cậu nhé.”

“Mình không thể tin mẹ mình lại như thế,” Clary đá nói đến lần thứ tư, tay cầm một mẩu nacho di di tí salad guacomole quanh đĩa. Họ đang ở khu người Mexico gần nhà, một nơi bé tí tên là Nocho Mama. “Cứ như kiểu tuần nào cũng cấm túc mình là chưa đủ tệ ấy. Giờ thì mình sẽ bị đày suốt mùa hè.”

“Ừm, cậu biết đấy, mẹ cậu thi thoảng lại thế mà,” Simon nói. “Như khi cô ấy hít vào thở ra ấy.” Cậu ngoác mồm còn đầy món burrito rau mà cười với Clary.

“Ồ, chắc rồi, cậu cứ làm như là buồn cười lắm ấy nhỉ,” Clary nói. “Cậu không phải người bị lôi đến cái chỗ khỉ ho cò gáy mà chỉ có Chúa mới biết là trong bao...”

“Clary.” Simon cắt ngang tràng đả kích cô. “Mình có phải là người cậu giận đâu nào. Hơn nữa, cậu có đi mãi đâu.”

“Sao cậu biết?”

“Thì vì mình biết mẹ cậu,” một lúc sau Simon đáp. “Ý mình là, cậu và mình đã là bạn bao lâu rồi nhỉ, mười năm à? Mình biết đôi khi mẹ cậu có như thế. Rồi mẹ cậu sẽ nghĩ thông suốt thôi.”

Clary nhặt miếng ớt ra khỏi đĩa và trầm ngâm nhấm nhá. “Nhưng mà cậu có thế không?” cô hỏi. “Ý là, cậu có hiểu mẹ mình không ấy? Đôi lúc mình tự hỏi liệu có ai hiểu mẹ mình không nữa.

Simon chớp chớp mắt nhìn cô. “Mình bắt đầu không hiểu cậu nói gì.”

Clary há hốc mồm hớp không khí để hạ hỏa cho miệng mồm bỏng rát. “Ý mình là, mẹ chưa bao giờ nói về bản thân. Mình không biết gì về cuộc đời trước kia của mẹ, về bên đằng ngoại, hay làm sao mẹ gặp bố. Mẹ không có lấy một tấm ảnh cưới. Cứ như thể cuộc đời mẹ bắt đầu từ khi có mình vậy. Mẹ luôn nói vậy mỗi khi mình hỏi.”

“Ôi.” Simon nhăn mặt với cô. “Yêu chưa kìa.”

“Không, không có yêu gì sất. Kỳ quặc thì có. Thật kỳ quặc khi mình không biết chút gì về ông bà mình. Ý mình là, mình biết rằng ông bà nội không đối tốt với mẹ, nhưng họ có thực sự tệ thế không? Làm gì có thể loại ông bà nào lại không thèm nhìn mặt cháu chứ?”

“Có thể do mẹ cậu ghét họ. Có thể họ đã lăng mạ hoặc làm gì mẹ cậu,” Simon gợi ý. “Mẹ cậu quả là có mấy vết sẹo mà.”

Clary nhìn chằm chằm Simon. “Mẹ mình có gì?”

Simon nuốt một mồm đầy burrito. “Mấy vết sẹo nhỏ xíu ấy. Trên khắp lưng và tay. Mình đã thấy mẹ cậu mặc đồ tắm, cậu biết rồi mà.”

“Mình chẳng bao giờ để ý thấy sẹo siếc gì hết,” Clary nhất mực. “Mình nghĩ cậu toàn tưởng tượng không thôi.”

Cậu bạn trợn mắt nhìn cô, và dường như định nói gì đó thì điện thoại của cô, đang bỏ trong túi, bắt đầu rung bần bật. Clary lục lôi điện thoại ra, nhìn những con số nhấp nháy trên màn hình và nhăn mặt. “Mẹ mình gọi.”

“Nhìn mặt cậu là mình biết rồi. Cậu có nói chuyện với mẹ không?”

“Giờ thì không,” Clary nói, đột nhiên cảm thấy nỗi cắn rứt lương tâm quen thuộc trong bụng khi điện thoại ngừng rung và hộp thư thoại được kích hoạt. “Mình không muốn tranh cãi với mẹ.”

“Cậu luôn có thể ở tạm nhà mình,” Simon nói. “Bao lâu cũng được.”

“Ừ, đợi mẹ mình bình tĩnh cái đã.” Clary ấn nút hộp thư thoại. Giọng mẹ có vẻ căng thẳng, nhưng rõ ràng bà đang cố gắng nói cho nhẹ nhàng: “Con yêu, mẹ xin lỗi vì đã áp đặt kế hoạch nghỉ hè cho con. Về nhà và chúng ta sẽ nói chuyện.” Clary ngắt điện thoại trước khi tin nhắn kết thúc, cảm thấy cắn rứt hơn, nhưng vẫn giận. “Mẹ mình muốn nói chuyện.”

“Cậu có nói chuyện với mẹ không?”

“Mình không biết.” Clary dụi mu bàn tay lên mắt. “Cậu có định tới buổi đọc thơ nữa không?”

“Mình hứa là có rồi.”

Clary đứng dậy, đẩy ghế ra sau. “Vậy mình sẽ đi cùng cậu. Mình sẽ gọi cho mẹ sau khi xong.” Quai túi xách tuột xuống tay cô. Simon vô thức đẩy quai túi lên, những ngón tay cậu nán lại trên bờ vai trần của cô bạn.

Không khí bên ngoài khá ẩm ướt, hơi ẩm làm tóc Clary xù lên còn chiếc áo phông của Simon dính sát vào lưng cậu. “Vậy, ban nhạc thế nào rồi?” cô hỏi. “Có gì mới không? Có rất nhiều tiếng la hét lúc mình nói chuyện với cậu.”

Gương mặt Simon bừng sáng. “Mọi chuyện tuyệt lắm,” cậu nói. “Matt bảo cậu ấy biết vài người có thể giúp bọn tớ biểu diễn tại quán Scrap Bar. Bọn mình cũng lại đang bàn lại về tên ban nhạc.”

“Ồ vậy à?” Clary cố giấu nụ cười. Ban nhạc của Simon thực ra chưa chơi được bản nào. Hầu hết thời gian, bọn họ ngồi trong phòng khách nhà Simon, tranh cãi về những cái tên tiềm năng và logo cho ban nhạc. Thi thoảng cô còn thắc mắc liệu có ai trong số họ biết chơi nhạc cụ không nữa. “Thế giờ tới đâu rồi?”

“Bọn mình đang chọn giữa tên Sea Vegetable Conspiracy và Rock Solid Panda.”

Clary lắc đầu. “Toàn tên nghe mà kinh.”

“Eric muốn dùngtên Lawn Chair Crisis.”

“Có lẽ Eric nên chuyên tâm vào chơi game thì hơn.”

“Nhưng thế thì bọn mình phải tìm tay trống mới.”

“Ơ, đó không phải việc của Eric sao? Mình nghĩ cậu ta chỉ moi tiền từ chỗ các cậu rồi đi khắp trường khoe khoang với đám con gái rằng cậu ta đang trong ban nhạc để làm le với bọn họ thôi.”

“Không phải đâu,” Simon hớn hở nói. “Giờ Eric đã thay đổi hoàn toàn. Cậu ấy có bạn gái. Họ đã hẹn hò ba tháng nay rồi.”

“Gần như là cưới rồi,” Clary vừa nói vừa bước vòng qua một cặp vợ chồng đang đẩy đứa bé mới lẫm chẫm biết đi ngồi trong xe đẩy: một bé gái tóc kẹp mấy chiếc kẹp nhựa màu vàng và tay đang ôm chặt một con búp bê tiên nữ mang đôi cánh màu ngọc bích sọc vàng kim. Qua khóe mắt Clary nghĩ mình thoáng thấy đôi cánh rung động. Cô vội vã quay đi.

“Nghĩa là,” Simon nói tiếp, “mình là thành viên cuối cùng trong ban nhạc không có bạn gái. Nghĩa là, cậu biết đấy, là mục đích chủ yếu khi thành lập ban nhạc. Để cua gái.”

“Mình nghĩ lập ban nhạc là để chơi nhạc chứ.” Một người chống gậy đi ngang mặt cô, hướng về phía phố Berkeley. Clary nhìn đi chỗ khác, sợ rằng nếu mình nhìn thấy ai đó lâu quá thì họ sẽ mọc cánh, thêm tay hoặc có cái lưỡi chẻ đôi như lưỡi rắn mất. “Mà ai thèm quan tâm nếu cậu có bạn gái hay không chứ?”

“Mình quan tâm,” Simon ảm đạm nói. “Rốt cuộc rồi người cuối cùng không có bạn gái sẽ là mình và ông Wendell tay lao công. Và ông này bốc mùi như thuốc chùi kiếng Windex vậy.”

“Ít nhất cậu biết cậu vẫn còn ông ấy.”

Simon lườm. “Không vui đâu, cô Fray.”

“Vẫn luôn còn có Sheila Barbarino ‘Chọc Khé cơ mà,” Clary gợi ý. Clary từng ngồi bên sau lưng cô ta trong tiết toán hồi lớp chín. Cứ mỗi lần Sheila làm rơi bút chì – chuyện khá thường xuyên – là Clary được rửa mắt với cảnh cái quần lót của cô nàng kéo lên tận eo trong chiếc quần siêu siêu trễ.

“Đấy là người Eric đang hẹn hò ba tháng nay đấy,” Simon bảo. “Giờ thì cậu ta khuyên mình là, mình chỉ việc quyết định xem cô nàng nào có thân hình bốc lửa nhất trường rồi mời cô ta đi chơi ngay ngày đầu năm học mới.”

“Eric là thằng dê cụ,” Clary nói, đột nhiên không muốn biết cô gái nào trong trường được Simon cho là có thân hình bốc lửa nhất. “Có lẽ các cậu nên đặt tên ban nhạc là Bầy Dê Cụ đi cho rồi.”

“Nghe cũng kêu lắm chứ.” Simon có vẻ tỉnh bơ. Clary bĩu môi với bạn, túi xách cô lại rung lên khi điện thoại kêu inh ỏi. Cô lục lọi lôi điện thoại ra. “Mẹ cậu nữa à?” Simon hỏi.

Clary gật đầu. Cô có thể tưởng tượng ra hình ảnh mẹ, nhỏ bé và cô đơn trên lối vào căn hộ. Cảm giác cắn rứt lương tâm bùng lên trong ngực.

Cô ngước nhìn Simon, lúc này cũng đang nhìn cô, đôi mắt sa sầm vì lo lắng. Gương mặt cậu quá quen thuộc đến mức cô có thể vẽ ra từng đường nét kể cả trong khi ngủ. Cô nghĩ tới những tuần lễ cô độc trước mắt khi không có cậu bạn và nhét điện thoại trở vào túi. “Đi nào,” cô nói. “Bọn mình tới muộn mất.”