Vết Bớt Hoa Điền

Chương 4: Vào cung




Tôn bà bà đã sợ đến mức toàn thân run rẩy: “Cô nương… đừng nói bậy…”

Trịnh Lan lại mỉm cười, quay đầu nhìn Tần Chí Thành nhàn nhạt nói: “Nơi ngươi muốn đến ta đã dẫn tới, giờ ta còn công vụ trong người, không ở lại chơi cùng ngươi được.”

Tần Chí Thanh khẽ xuỳ một tiếng: “Tử Lưu, mấy năm không gặp, huynh học được cái giọng điệu tỏ vẻ quan cách ấy ở đâu thế. Huynh thì có công to việc lớn gì? Ta từ tận biên quan xa xôi hồi kinh, huynh lại đối đãi với huynh đệ từ nhỏ lớn lên cùng như vậy sao? Tốt xấu gì…” Hắn ta liếc trộm Tử Vân xinh đẹp mỹ miều bên cạnh: “Không phải huynh luôn khen tửu lượng của Tử Vân cô nương rất tốt hay sao?”

Trịnh Lan không thèm để ý tới hắn, xoay người rời đi, chỉ là đi mấy bước lại quay đầu lại nhìn Tiểu Viện, nói: “Hậu Sơn Trà Tự lộng lẫy, xa hoa, dùng một mồi lửa thiêu cháy hết thật sự quá đáng tiếc. Vừa hay hàn xá nhiều năm chưa tu sửa, đang có dự định xây dựng lại, cô nương nếu có thời gian có thể tới hậu viện, giúp ta một tay, thả một mồi lửa, thiêu rụi tất cả, để ta xây lại một thể.”

Tiểu Viện nhìn bóng lưng đang dần mất hút trong màn đêm, nghĩ thầm người này đúng là quái gở, tư duy khác người.

Trịnh Lan rời đi, Tử Vân nhanh chóng đè sự mất mát, tủi thân xuống, lấy lại sắc mặt tươi tỉnh tràn đầy gió xuân, phong tình vạn chủng, uyển điệu tiến đến nắm lấy tay Tần Chí Thanh: “Khẩn cầu tướng quân đến Tử Trúc Viện ngồi nghỉ ngơi. Hậu viện lạnh lẽo, tịch mịch, hy vọng tướng quân không ghét bỏ.”

Tiểu Viện nhìn dáng vẻ lả lơi, tình tứ của Tử Vân, sự thê lương trong lòng càng lúc càng lớn, sau này nàng cũng phải trở thành hạng người như thế sao? Thà bây giờ đến thẳng nhà gã quái nhân kia thả một mồi lửa còn hơn.

- ---

Tần Chí Thành nhỏ hơn Trịnh Lan hai tuổi, là thư đồng của Trịnh Lan thời chàng còn là cậu thiếu niên cần cù đèn sách trong Thái học. Hai người thuở nhỏ tương đối thân thiết, vẫn quen xưng huynh gọi đệ.

Trịnh Lan dù ngoài mặt đối xử với Tần Chí Thanh hờ hững, lạnh lùng, nhưng cảm tình dành cho người này lại có phần phức tạp.

Mặc dù không yêu thích con người, nhưng bởi vì Tần Chí Thanh anh dũng thiện chiến, có thiên phú cầm quân đánh giặc, cho nên trong lòng chàng vẫn luôn rất thưởng thức tài năng của kẻ này.

Tần Chí Thành mười ba tuổi đã theo cha xuất chinh đánh giặc, năm đó đám dân tộc man rợ từ phía Tây kéo xuống tấn công Đại Trịnh, thiếu niên lang trẻ tuổi cưỡi ngựa cầm thương quét sạch kẻ thù, lập được vô số chiến công.

Gần đây tình hình biên ải nhìn chung đã ổn định, Hằng Xương Đế yêu thích nhất những thiếu niên tuổi trẻ tài cao, vì thế triệu hắn hồi kinh, muốn phong cho hắn làm Nhất đẳng Trung Dũng Bá.

Hoàng hậu nương nương còn có ý muốn đích thân tứ hôn.

Tần Chí Thành nhiều năm bôn ba ngoài biên ải, trong nhà lại chưa có thê thất, vừa trở lại kinh thành việc đầu tiên chính là tìm Trịnh Lan, muốn chàng dẫn tới nơi tất cả nam nhân trong thiên hạ đều yêu thích để mở mang tầm mắt.

Dù hắn ta ở biên cương đã lâu, nhưng cũng nghe được vài lời đồn đại, nói Trịnh Lan những năm gần đây tâm trí không đặt ở triều đường, lại say mê chốn tường hoa ngõ liễu, cuộc sống tiêu diêu tự tại, phóng khoáng đa tình.

Trịnh Lan lười giải thích với hắn, hôm nay chưa tới chạng vạng tối đã cưỡi ngựa dẫn hắn tới Hậu Sơn Trà Tự.

Hôm nay chàng quả thực có việc, vì thế mới vội vàng từ biệt Tần Chí Thành, cưỡi ngựa không ngừng trở lại vương phủ, thay đổi xiêm y, mũ miện, mang theo vài tùy tùng thân tín nhanh chóng rời đi -- Lão hoàng đế đột nhiên truyền lệnh triệu kiến chàng.

Trịnh Lan đi xe ngựa đến cửa cung thì đổi ngự liễn.

Tiểu thái giám Hải Thăng được lệnh hộ tống Trạm Vương, nhìn Trịnh Lan uy nghi ngồi trên ngự liễn, tiểu thái giám thầm cảm thấy chỉ khi vào cung Cửu Điện Hạ mới giống một Vương gia đích thực.

Ở bên ngoài, vị điện hạ này luôn độc lai độc vãng (*), cũng không mặc y phục có long văn, nhìn qua chẳng khác nào những quý công tử bình thường nhà thế gia, thậm chí vương phủ mà người đời cho rằng xa hoa, lộng lẫy, cũng tan hoang, tịch mịch, cỏ dại mọc đầy, rách nát, cũ kỹ.

(*) 'Độc vãng độc lai' (một mình đến, một mình đi) ý chỉ sự cô độc.

Bởi thế tuỳ tùng bên cạnh y cũng không giống các tâm phúc theo hầu các vương gia khác, luôn làm bộ làm tịch cáo mượn oai hùm, lên mặt với kẻ khác.

Nhìn cảnh này trong lòng Hải Thăng không tránh khỏi những cảm xúc bồi hồi khó nói thành lời.

Tẩm cung của Hằng Xương đế là điện Giao Thái, từ cửa cung đến điện Giao Thái phải đi ngang qua Đông Cung.

Từ xa Trịnh Lan đã thấy Tiền Trọng Mưu một thân triều phục từ Đông Cung đi ra. Bước chân vững vàng nhưng sắc mặt lại tái mét.

Đã là chạng vạng tối, ánh trăng non nhú lên từ phía rặng mây xa xa, chỉ sợ Tiền đại nhân không phải muốn tới thăm hỏi Thái tử, mà là nhớ nhung nữ nhi bị Thái tử giấu ở Đông Cung. Trịnh Lan còn đang trầm ngâm nghĩ ngợi, Tiền Trọng Mưu đã đi tới.



“Lão thần tham kiến Trạm Vương điện hạ.”

Thấy ngự liễn của Trạm Vương, Tiền Trọng Mưu lập tức đè nén những cảm xúc không vui xuống, quy củ hành lễ.

“Đô đốc đại nhân miễn lễ.” Trịnh Lan khẽ nhếch khóe miệng, nói tiếp: “Ngay mai đổi thành Tả tướng đại nhân rồi. Lễ này miễn cũng không sao.”

Ngày mai Tiền Trọng Mưu chính thức nhận thánh chỉ sắc phong Tả thừa tướng, mà chiếu theo Đại Trịnh Quan Lễ, quan nhất phẩm gặp chư vương có thể không cần quỳ gối hành lễ, chỉ cần cúi đầu là đủ.

“Nghe nói Trạm Vương điện hạ chỉ yêu thích vi hành dân gian, không ngờ đối với sự vụ triều chính cũng nắm rõ như lòng bàn tay!”

Cái gì mà ‘vi hành dân gian’, Tiền Trọng Mưu này đang cố tình châm chọc chàng cả ngày chỉ biết lưu luyến chốn Tần lâu Sở quán, phẩm hạnh không đoan chính, Trịnh Lan đương nhiên nghe hiểu lời mỉa mai này.

“Đại nhân chê cười rồi, bản vương quả thật là kẻ đa tình, bận rộn thưởng thức mỹ nhân. Cảm tạ đại nhân đã lên tiếng can gián, có một đại thần đắc lực như ngài đây, Đại Trịnh chắc chắn sẽ ngày một vững mạnh, hùng cường, tiểu vương gia như ta cũng có thể an ổn sống cuộc đời vinh hoa phú quý, nhàn nhã yên bình.”

Thái độ Trịnh Lan khách khí, khiêm tốn lại càng khiến sắc mặt xám xanh của Tiền Trong Mưu thêm phẫn nộ, bực dọc. Nhưng ngoài miệng chỉ có thể nhàn nhạt đáp: “Điện hạ quá khen.”

Trịnh Lan mỉm cười nói: “Có điều, bản vương là kẻ nông cạn, cho nên xưa nay không hề có hứng thú với tiểu thư thế gia danh giá, đoan trang. Chỉ yêu những nữ tử phong trần, phóng khoáng. Đã cô phụ sự dạy bảo của Thánh thượng rồi. Thực lòng hổ thẹn.”

Tiền Trọng Mưu ngày thường luôn bình tĩnh thong dong, không bao giờ để tâm tình lộ trên mặt, vậy mà nhất thời cũng không kìm được tức giận, lạnh lùng “Hừ” một tiếng, phất tay áo xoay người bỏ đi.

Hải Thăng đứng một bên u u mê mê như lạc vào sương mù, hoàn toàn chẳng hiểu cuộc đối thoại giữa Tể tướng và Điện hạ, chỉ biết chủ từ vừa thành công chọc tức Tiền đại nhân. Lại không hiểu vì sao Tả tướng đại nhân lại giận dữ.

Trịnh Lan nhìn theo bóng lưng Tiền Trọng Mưu, trong lòng thầm tự giễu.

Xem ra ông ta cũng đã nhận được tin mật báo, Thánh thượng muốn ban nữ nhi bảo bối của ông ta cho chàng. Chàng vốn không muốn làm con rể ông ta, cho nên cũng chẳng cần lên giọng mỉa mai như thế, mặc dù chàng thực sự chán ghét một số tiểu thư thế gia hợm hĩnh, nông cạn, luôn coi mình là cái rốn của vũ trụ. Nhưng nói một cách công bằng chàng chưa từng gặp gỡ Tiền Thục Viện, không rõ con người nàng ta, chỉ là Trịnh Lan bực mình phụ hoàng dùng hôn nhân đại sự của chàng như công cụ thao túng quyền lực cho nên muốn tìm người trút giận mà thôi.

Nghĩ tới Tiền Thục Viện, chàng lại nhớ đến nữ tử gặp tại Hậu Sơn tối nay. Nàng ta cũng có một vớt Hoa Điền giữa trán, thậm chí so với Tiền Thục Viện hình như còn đẹp hơn vài phần?

Chàng tự ngẫm, lại tự thầm kinh ngạc, từ khi nào lại thật sự để tâm đến mỹ mạo của nữ nhân? Cũng có thể vì vết bớt kia cho nên chàng mới để ý nàng ta.

Người ngoài có lẽ không tin, hai năm nay dù bị đồn thổi là kẻ háo sắc, mê đắm trong nhuyễn ngọc ôn hương, nhưng Trịnh Lan chỉ thưởng thức vẻ đẹp của giai nhân một cách vô cùng ‘đơn thuần’, như ngắm nghía một món đồ sứ hảo hạng, một bức tranh chữ tinh xảo. Chàng xem ‘mỹ nhân’ như ‘vật’ để thưởng thức, chưa từng khinh thường, cũng không hề có ý định chiếm hữu. Mỹ nhân chàng đương nhiên thích, nhưng chàng coi thường quan hệ nam nữ dung tục, đặc biệt ghét bỏ đám nữ nhân vì danh lợi, hoặc vì mục đích sinh tồn mà dùng thân nịnh nọt, vỗ về nam nhân.

Đang suy tư nghĩ ngợi, ngự liễn đã dừng trước cửa điện Giao Thái, Trịnh Lan thong thả đi vào, nhìn thấy Hằng Xương Đế đang ngồi trước án chăm chú vẽ một bức tranh sơn thuỷ.

“Tử Lưu, tới xem nét vẽ của cô đi, có phải lại tinh tiến hơn rất nhiều rồi không.” Không chờ chàng hành lễ, Hằng Xương đế đã gọi nhi tử đến bên mình. Phụ từ tử hiếu, bầu không khí hoà hợp, gắn bó ập đến quá mức đột ngột. Trịnh Lan chỉ biết bất đắc dĩ lắc đầu.

“Muộn như vậy rồi còn triệu kiến nhi thần, chỉ để ngắm bức họa này thôi sao? Hoạ sư của Viện hoạ, các thái phó ở Thái học đều nghỉ hưu hết rồi ư?”

“Hừ, ngày thường muốn cũng không gặp được con, vừa thấy mặt một chút đã xưng xưng xỉa xỉa!” Hằng Xương Đế lườm hắn một cái nói: “Cô là phụ hoàng của con, ngay cả hai tiếng phụ hoàng cũng không chịu gọi. Suốt ngày chỉ biết lêu lổng bên ngoài. Con còn định lông bông đến bao giờ?”

Trịnh Lan đứng một bên, giả bộ kính cẩn nghe dạy bảo, trong lòng lại cười thầm. Tiết mục phụ từ này quả nhiên diễn được không quá một khắc, kéo dài thêm một chút cũng không kiên nhẫn nổi.

Như những lần trước, Hằng Xương Đế hoặc là cho chàng hai cái bạt tai, hoặc vừa chửi vừa mắng đuổi ra khỏi điện, nhưng lần này ông ta lại chơi chiêu bài khác, sắc mặt chỉ thoáng nghiêm khắc, lại nhỏ giọng an ủi, dỗ dành: “Triệu kiến con tới, đúng là có chút chuyện. Nữ nhi của Tiền Trọng Mưu trẻ trung mỹ mạo, ngày mai ta sẽ ban thánh chỉ ban hôn cho hai con. Chiếu thư Lễ bộ đã soạn thảo xong. Ngày mai ngay khi đọc xong thánh chỉ thăng chức, trước triều đường ta sẽ tuyên cáo thiên hạ mối hôn sự này. Vấn đề này không cần phải thương lượng thêm nữa, con cũng không còn nhỏ, nên thành gia lập thất rồi.”

Thấy Trịnh Lan trầm mặc không đáp, Hằng Xương Đế lại thành tâm nói thêm: “Tiền Trọng Mưu cầm đầu đám tài phiệt và thân sĩ ở Nam Hàng, hiện tại biên quan chiến sự liên miên không dứt, quốc khố trống rỗng, triều đình đang rất cần tiền! Đương nhiên ta cũng muốn con thay ta kiềm chế lão cáo già này.”

“Lần đầu nghe đến việc Hoàng đế vì lợi ích mà bán nhi tử.” Giọng điệu Trịnh Lan mỉa mai, chàng vừa nói vừa xoay gót, đi đến bên ghế hoa hồng (1) gần cửa ngồi xuống. Dáng vẻ cực kỳ không kiên nhẫn.

Ngoài dự đoán, Hằng Xương Đế không nổi giận, mà lại có vẻ xấu hổ, chậm rãi nói: “Con cho rằng làm hoàng đế thì muốn làm gì là làm sao? Bây giờ nhìn qua cảm thấy bốn bể thái bình, nhưng xung quanh đều có các thế lực ngầm mai phục, chờ thời cơ nuốt chửng chúng ta. Phía Nam các gia tộc quyền thế dã tâm bừng bừng, dẫn quân riêng thôn tính các vùng đất nhỏ cát cứ do lưu dân tự làm chủ, phía Bắc, phía Tây các bộ tộc du mục, Tây Man, Đông Nhung như hổ rình mồi thèm khát, hiếu chiến luôn nhìn chằm chằm vào Đại Trịnh với vẻ thèm thuồng. Nào tả hữu thừa tướng, rồi thân sĩ Hàng Nam, đám thổ phỉ Tào Bang, thậm chí cả những huynh đệ ngang hàng với con, các thúc bá thân thuộc của con, có kẻ nào không ôm ấp tâm tư riêng, mỗi kẻ ngáng chân một cái, Cô lại phải phí tâm tư phá giải cục diện, ngay cả Thái tử cũng ôm dã tâm của nó… Phụ hoàng ở nơi cao không tránh khỏi lạnh giá!...” Giọng nói của ông dần mệt mỏi, như thể đang kể lể, thở than.

Trong khoảnh khắc, chàng cảm thấy vị cha già ngồi trên ngôi vị Cửu Ngũ Chí Tôn cao quý kia như già đi chục tuổi. Trước khi vào cung, chàng đã nghĩ ra vô số cách chọc tức lão cha già, dù cuối cùng vẫn không chịu tiếp nhận cuộc hôn nhân hoang đường này, thì chàng cũng phải khiến lão hoàng đế nổi trận lôi đình mới cảm thấy hả lòng hả dạ.

Không ngờ rằng lão hoàng đế - phụ hoàng của chàng đã già thật rồi. Đây là lần duy nhất trong hơn hai mươi năm qua Hằng Xương Đế móc phổi mổ tim tâm sự chân thành với nhi tử là chàng, thậm chí còn đề cập đến cả Thái tử.



Nháy mắt, Trịnh Lan thoáng mềm lòng. Thế nhưng chàng vẫn như cũ không muốn bị cuốn vào vòng xoáy tranh đấu quyền lực. Bốn bể có phục tùng hay không liên quan gì tới chàng?

Bởi vì xuất thân tương đối đặc biệt, từ đầu đến cuối chàng luôn cảm thấy xa cách với hoàng cung, càng chẳng có chút hứng thú ngôi vị trữ quân.

Hằng Xương Đế bắt được tia do dự ngắn ngủi trong mắt nhi tử, muốn thừa thắng xông lên phản kích, nhưng Trịnh Lan đã nhanh tay mở lời trước:

“Con đã xem chân dung nữ nhi của lão. Quá xấu. Thấy vương phi khó nhìn như thế, nhi thần chẳng có cảm tình nổi.” Trịnh Lan lạnh lùng từ chối.

“Vậy sau này lấy thêm vài vị Trắc phi dung mạo xinh đẹp là được. Mỹ nhân cũng được, tài nữ cũng được. Không thành vấn đề. Đường đường là hoàng tử một nước sợ gì không có mỹ nhân hầu hạ?” Hằng Xương Đế nói.

“Thật ư? Kể cả nhi thần đến Giáo Phường ty tuỳ ý chọn vài người cũng không sao chứ? Nhưng nhi thần chỉ muốn cưới người mình thích làm chính thê, một đời chung thuỷ, quyết không hai lòng. Phụ hoàng chắc không hiểu.”

Ba chữ “Giáo Phường ty” thành công khiến không khí giữa hai người nháy mắt đông cứng, ngột ngạt.

Ba chữ này cơ hồ là cấm ngữ giữa hai phụ tử họ nhiều năm qua.

Mẹ đẻ Trạm Vương, theo như lời đồn thổi là một ca kỹ xuất thân từ Giáo Phường ty. Vì mang tiện tịch, thân phận thấp hèn nên không có tư cách vào cung.

Trịnh Lan vừa ra đời, đã bị bế tới hậu cung được chính Hoàng Đế tự mình dưỡng dục.

Khi chàng còn bé, vô số kẻ đàm tiếu, nghi ngờ sự thuần chủng trong huyết mạch của chàng.

Là chính Hằng Xương Đế nổi trận lôi đình, mạnh mẽ dùng vũ lực áp chế ngôn luận, triệt để cấm mọi lời chất vấn, nghi ngờ về xuất thân của Trịnh Lan.

Nhưng không dám nói trước mặt, không có nghĩa là sau lưng không có lời đàm tiếu, thì thầm. Cả tuổi thơ Trịnh Lan lớn lên trong ảm đạm, tổn thương, bị các huynh trưởng sỉ nhục, chèn ép, các Tần phi kỳ thị, mỉa mai.

Nếu không phải chàng thiên tư trác tuyệt, tâm tính kiên định, văn võ toàn tài giỏi nhẫn nhịn, lại thông minh lanh lợi bỏ xa tám vị ca ca, Hằng Xương Đế cũng không thiên vị chàng như ngày hôm nay.

Trịnh Lan vẫn luôn một mực cho rằng là vậy.

Chỉ vì ba chữ “Giáo Phường ty”, sắc mặt Hằng Xương Đế tức tốc biến sắc, thẹn quá hoá giận, ông đang suy nghĩ mình khúm núm nhún nhường cầu cạnh nhi tử cưới vợ đến mức này, là đáng hay không đáng. Rõ ràng một đạo thánh chỉ ban xuống là xong.

Đến cùng ông vẫn hy vọng có thể giữ lại chút tình cảm phụ tử giữa hai người, để ngày sau có thể hài hoà trò chuyện.

Trịnh Lan hiểu rõ phụ hoàng mình là người ôn hoà, hiền hậu. Đây cũng là khuyết điểm duy nhất của kẻ làm đế vương như người, đủ nhân từ nhưng lại thiếu quyết đoán.

Kẻ làm hoàng đế phải là người cô đơn, lạnh lùng nhất, quyết đoán, sát phạt chỉ bằng ý niệm.

Cuối cùng Hằng Xương Đế vẫn không trở mặt, ông chỉ chau mày, nói: “Chuyện này không thương lượng gì hết, gọi con đến đây cũng không phải để bàn bạc, chỉ muốn báo sớm cho con biết. Cô đã sai người, đưa thợ từ trong cung tới cẩn thận tu bổ, sửa chữa lại vương phủ của con, chuẩn bị cho ngày đại hỷ. Nhiều lời vô ích, sự nhẫn nại của ta cũng có giới hạn.”

Tiểu thái giám đứng ngoài tiến vào truyền tin, thông báo Du phi nương nương nấu canh tẩm bổ dâng lên thánh thượng, hiện đang chờ ngoài điện.

Tiểu thái giám còn chưa lui ra, Du phi đã chậm rãi bước vào. Toàn thân nàng khoác một bộ hoa phục đính châu ngọc dài quét đất, trên đầu cài trâm kim phượng, hào quang rạng rỡ, trang dung mỹ lệ.

“Sao chưa đợi thông truyền đã vào.” Hằng Xương Đế trầm giọng trách cứ, nhưng ngữ điệu lại không giấu được sự dịu dàng, cưng chiều. Đôi mắt ông dán trên khuôn mặt diễm lệ, ướt át của Du phi, thần sắc mê mẩn.

Hàng mày Du phi khẽ cau lại, làm ra vẻ trách cứ, giọng điệu nũng nịu, khiến người thương tiếc: “Bệ hạ đã muộn như vậy rồi còn chưa dùng bữa. Du Nhi đau lòng nên mới to gan xông vào. Bệ hạ người tuyệt đối không được trách tội Du Nhi.”

Thấy Trạm Vương cũng có mặt, nàng lập tức hời hợt thi lễ: “Cửu điện hạ cũng ở đây sao? Hữu lễ.”

Trịnh Lan đứng dậy hoàn lễ lấy lệ, sau đó gật đầu nói với Hằng Xương Đế: “Mong phụ hoàng phúc thọ an khang, nhi thần xin cáo lui.” Ghế hoa hồng: Ghế hoa hồng là một trong những đồ nội thất truyền thống của Trung Quốc, thuộc dạng ghế bành. Loại ghế này khá phổ biến vào thời nhà Minh ở Trung Quốc.

chapter content