Vân Việt Vãng Sự

Chương 40: Khiến kẻ khác cảm thấy nguy hiểm




Thường phụ nuôi vài con gà ở hậu viện. Bệnh phong thấp của ông được điều trị hẳn hoi, sống ở đất Tề phía Nam cũng có ăn có mặc, thân thể khoẻ mạnh hơn nhiều so với ngày trước, còn được coi là càng già càng dẻo dai.

Đương lót thêm vài cọng rơm vào ổ gà để giúp chúng giữ ấm, bỗng nhiên ông nghe thấy tiếng gõ cửa ở tiền viện bèn lập tức đứng thẳng người, vô cùng cảnh giác.

Qua một lúc, người ngoài cửa lên tiếng: “Là ta.”

Nghe tiếng cũng biết là Việt Tiềm, Thường phụ lập tức ném cành rơm đi, mau chóng đi mở cửa viện.

Cửa viện mở ra, Việt Tiềm đứng ngay trước cửa, còn chưa kịp mở miệng đã nghe thấy Thường phụ nói: “Vài ngày trước không thấy ngươi tới, ta còn tưởng là người ngoài đến.”

Việt Tiềm bị Linh công tử “giam” sáu ngày trong phòng, đúng là vài lần mặt trời lặn cũng chẳng đi ra ngoài được.

Hắn ngồi lên xe ngựa, lái xe vào trong viện, nói rằng: “Mấy ngày nay có khoẻ không?”

“Lão già này rất khoẻ mạnh, ngươi không cần phải thường xuyên tới đây.” Thường phụ đóng cửa viện lại, không quên cài chốt thật kỹ.

Xe ngựa dừng bên ngoài nhà bếp, Việt Tiềm không nói gì nữa, chỉ cuốn màn xe lên cao, dời lương thực trong xe vào trong bếp. Có lương khô, có rượu, cũng có các loại thịt khô.

“Nếu thiếu thì sau này bù, đừng mua nhiều đồ ăn đến thế, nhỡ hỏng thì tiếc quá.” Thường phụ đi theo sau Việt Tiềm, cằn nhằn liên miên.

Việt Tiềm tuỳ cho ông nói. Mỗi lần ghé lại đất Tề phía Nam, hắn đều sẽ chất đầy đồ ăn vào trong bếp.

Thường phụ lấy từ trong buồng xe ra một cái giỏ trúc, trong giỏ có một miếng thịt tươi. Ông ngửi mùi thịt, nói: “Đây không phải thịt lợn, cũng chẳng phải thịt dê.”

Việt Tiềm nói: “Là thịt hươu, có thể làm bánh thịt hươu.”

Hắn mua một miếng thịt hươu trên con đường ven chợ.

Thường phụ vừa nghe tới bánh thịt hươu, cười đến nỗi mặt đầy nếp nhăn, nói: “Tiểu tử thối, ngươi biết cách làm bánh thịt hươu sao?”

Việt Tiềm thành thật trả lời: “Khi còn bé ta từng ăn, nhưng không biết cách làm.”

Bánh thịt hươu là một loại bánh của người Vân Việt, cách làm cũng tương đối phức tạp, mùi vị cũng là mùi vị chỉ thuộc về quê hương. Vân Việt Quốc nhiều hồ nhiều núi lắm rừng, có rất nhiều hươu hoang, thịt hươu là món ăn thường xuyên xuất hiện trên bàn ăn của từ quý tộc đến bách tính.

“Để ta làm.” Thường phụ cũng không mong chờ gì vào việc Việt Tiềm biết cách làm bánh. Khi Việt Tiềm ăn bánh thịt hươu, hắn vẫn còn rất nhỏ, lúc bị bắt tới Dung Quốc cũng chỉ mới có mười tuổi.

Trù nghệ của Thường phụ tuy không hơn là mấy, khi còn làm quan lại Vân Việt Quốc, quân tử tránh xa nhà bếp nên ông chẳng bao giờ phải làm cơm; hồi còn ở Hữu uyển, trải qua đói rét, tuy đã học được cách nấu nướng nhưng cũng không còn biết thế nào là mỹ vị nữa rồi.

Cơm tối, bày lên bàn ăn có một đĩa bánh thịt hươu, nhìn vẫn tạm ổn, tới lúc cắn một miếng lại không có hương vị như trong ký ức, Thường phụ thở ngắn than dài.

Vẫn luôn cảm thấy thiếu, nhưng nhất thời lại không biết là thiếu điều gì.

Việt Tiềm cắn ba miếng đã ăn xong một cái bánh, đánh giá: “Vẫn được.”

“Ta đã nói mùi vị không đúng, hoá ra là thiếu một đĩa dưa muối chua của dân Vân Việt chúng ta! Tiểu tử này, ngươi sắp thành người Dung đến nơi rồi, khẩu vị ngày càng thanh đạm.” Thường phụ lắc đầu, vừa cắn bánh vừa nhớ nhung đĩa dưa muối chua của người Vân Việt.

Ông nói: “Người Vân Việt chúng ta, lấy vợ rồi trong nhà sẽ có vợ làm dưa muối chua cho ăn.”

Việt Tiềm không tiếp lời, tiếp tục ăn cơm tối của hắn, quả nhiên Thường phụ sâu xa cảm thán: “Nhân sinh dài dằng dặc, đâu ai nguyện ý lẻ loi mãi một mình.”

Việt Tiềm không lên tiếng, im lặng uống rượu.

“Tuy ngươi là tôi tớ, nhưng còn sống tốt hơn dân chúng bình thường. Ngươi cũng đã trưởng thành rồi, đêm đến không muốn có nữ nhân bầu bạn sao?” Thường phụ thêm nhựa thông vào bếp lò, lại lấy một cây đuốc, châm cho cháy lên.

Việt Tiềm uống rượu trong chén, không nói một lời.

Hắn không thể giải thích nổi chuyện của hắn và Linh công tử với Thường phụ được.



Đêm đến, Việt Tiềm nằm trong phòng ngủ trống rỗng của mình, ván giường cứng rắn, màn giường lẻ loi, khác biệt một trời một vực so với phòng ngủ của hắn tại Biệt đệ.

Nằm ngủ một mình, đáy lòng chẳng yên.

Hắn nhớ lại cảm giác ôm Linh công tử trong tay, nhớ lại mùi hương trên tóc Linh công tử, mùi thơm nhạt dịu vương trên da thịt, những hành vi thân mật chẳng muốn nghĩ tới tường tận, dư vị cứ vậy đọng lại giữa đêm đen.

Việt Tiềm không hề chống cự, thuận theo bản năng.

Sáng sớm, hắn bị âm giọng của một đứa bé trai đánh thức. Âm thanh ấy ở bên ngoài tường viện, gọi: “Ông lão Vân Việt! Ông lão Vân Việt! Ném cho ta trái cầu đi!”

Việt Tiềm không mặc y phục, theo tiếng đi về phía sân sau, thấy một đứa nhỏ khoảng tám, chín tuổi, hai tay khoác lên tường viện, nhô lên một cái đầu.

Quả cầu rơi xuống cạnh chuồng gà ở hậu viện. Thường phụ khom người nhặt, nắm chặt trái cầu rồi ném ra bên ngoài tường viện, cả quá trình không nói một lời.

Đứa bé kia leo khỏi tường viện, vui vui vẻ vẻ đi nhặt cầu.

Nghe tiếng bước chân, Thường phụ quay đầu lại, thấy là Việt Tiềm bèn nói với hắn: “Là đứa nhỏ nhà hàng xóm.”

Việt Tiềm nói nhỏ: “Đứa bé kia biết ngươi là người Vân Việt?”

Vỗ hết bùn đất trên tay đi, Thường phụ nói: “Trong đất Tề phía Nam này cũng có những nô bộc người Vân Việt khác, người nơi này có thể nhận ra ai là người Dung, ai không phải.”

“A Tiềm, âm giọng quê xưa khó đổi, mà người Vân Việt thì không biến thành người Dung được.”

Ở đây đã lâu, cũng sẽ có người muốn dò xét, mặc dù không lui tới cùng bọn họ, nhưng cũng không thể ngăn những người khác suy đoán được.

Điều này là thật, Linh công tử cũng đã từng nói, người Vân Việt có thói quen cài trâm từ bên trái qua, còn người Dung Quốc lại ngược lại. Những điều nhỏ bé như vậy, y cũng chú ý tới được.

Vân Việt Quốc và Dung Quốc, chữ viết của hai nước khác nhau, tập tục sinh hoạt cũng có vô số điểm khác biệt.

***

Giữa ngày đông, Linh công tử không thường ra khỏi cung, cũng rất ít khi sai bảo Việt Tiềm. Ban ngày Việt Tiềm ở Biệt đệ, sau giờ Ngọ lại về nhà bên đất Tề phía Nam. Chuyện hàng ngày cũng chỉ có luận bàn võ nghệ với Doãn thị vệ, đến học viện trong thôn nghe Phu tử giảng bài mà thôi.

Một ngày, Vệ Hoè đưa một xe đầy đồ tới, nói ấy là những thứ Quốc quân ban thưởng cho Linh công tử, Linh công tử để ông vận chuyển chúng về Biệt đệ.

Nô bộc dỡ những thứ trên xe ngựa xuống. Việt Tiềm cầm một chiếc rương gỗ, đứng bên cạnh kiểm kê, ghi chép từng món đồ. Hắn và quản gia cùng nhau chưởng quản chìa khoá của kho hàng, những ghi chép ký nhận thường ngày phần lớn đều là của hắn.

Vệ Hoè chuyển một chiếc bàn dài sơn son từ trên xe ngựa xuống, cẩn thận từng li từng tí mới đặt xuống đất. Ông ngồi dậy, nói với Việt Tiềm: “Những thứ này để trong Biệt đệ trước, chờ xuân tới, công tử sẽ chuyển vào Phủ đệ trong thành, cũng đưa những thứ này đi, bớt phần dằn vặt chuyển qua chuyển lại.”

Việt Tiềm dừng động tác ghi chép lại, ngẩng đầu hỏi: “Xuân tới công tử không ở lại Vương cung sao?”

Vệ Hoè trả lời: “Không ở, công tử đã trú trong cung đủ lâu rồi. Rất nhiều công tử chỉ mới mười lăm, mười sáu tuổi đã phải chuyển ra ngoài lập Phủ đệ.”

Việt Tiềm lại hỏi: “Quốc quân ban cho công tử toà Phủ đệ nào?”

Việt hầu thường ngày ít lời không nói, cũng không phải người thích hóng hớt đào sâu vào bất cứ điều gì, không hiểu sao hôm nay lại khác thường đến thế, Vệ Hoè cảm thấy vô cùng ngạc nhiên. Nếu Việt Tiềm đã hỏi, Vệ Hoè liền báo cho hắn: “Còn có thể là toà Phủ đệ nào nữa, đương nhiên là Phủ đệ của Mạc Ngao! Bây giờ Mạc Ngao đã bị trục xuất rồi, Phủ đệ của gã cũng bị Quốc quân tịch thu, ban thưởng cho công tử của chúng ta.”

Vừa nhắc tới Phủ đệ của Mạc Ngao, giọng điệu của Vệ Hoè cũng có phần kích động: “Toà Phủ đệ ấy toạ ở Nam thành, rất gần Vương cung, vị trí tốt, phòng ở cũng lớn, rất nhiều gian phòng. Đặc biệt trong phủ còn có một toà Nguyệt các, còn cao gấp rưỡi cửa cấm cung, leo lên trên là có thể nhìn được toàn bộ kinh thành.”

Việt Tiềm thầm nghĩ, Quốc quân Dung Quốc thật sự đã ban thưởng Phủ đệ của Mạc Ngao cho Linh công tử, đúng như lời của tên thái giám kia từng nói.

Thái giám ấy còn bảo nhi tử của Mạc Ngao tính tình tàn bạo độc ác, hơn nữa còn ghi hận trong lòng với Thái tử và Linh công tử, vậy hẳn phần lớn cũng là thật.

Một xe đồ đạc được dời vào kho hàng, sau khi đăng ký xong xuôi, Vệ Hoè không vội vàng trở về thành nữa. Lúc này đã là hoàng hôn, đành phải để mai quay trở về, khi trời tối cửa thành sẽ đóng lại.

Ban đêm, Vệ Hoè ngồi uống rượu với Việt Tiềm. Ông nói: “Nếu Mạc Ngao không bốc đồng tới nổi bị đuổi đi, Phủ đệ tốt đến thế làm gì có nước rơi vào tay công tử nhà chúng ta. Muốn chiếm được một toà Phủ đệ tốt gần Vương cung cũng khó vô cùng, những vị trí tốt cũng bị người ta chiếm hết cả rồi.”



Những Phủ đệ phụ cận Vương cung, chủ nhân không phải quan lớn thì cũng là người trong Vương tộc, hoặc là ngoại thích, ai cũng có địa vị rất cao.

Việt Tiềm nhấp một ngụm rượu, hỏi: “Ta nghe nói Mạc Ngao có con trai, gã không theo cha trở về quê nhà mà vẫn còn ở lại trong thành?”

Vệ Hoè gắp một miếng thịt gà ăn, vừa nhai vừa nói: “Đúng là Mạc Ngao có một nhi tử, tên Cừ Uy, cũng chẳng tốt lành gì, ngày nào cũng qua lại với phường vô lại, tính tình tàn bạo, thấy ai cũng không phục. Có điều cả nhà bọn họ đều được xá tội, cha có tội, nhi tử được khoan thứ, Quốc quân cho phép gia đình bên ấy lưu lại Đô thành.”

Chén rượu của Vệ Hoè đã cạn, Việt Tiềm châm rượu cho ông, nói: “Mạc Ngao bị Dung Vương trị tội, thân là nhi tử khó tránh khỏi chuyện mang lòng oán hận, sao lại để Cừ Uy ở lại trong thành?”

Vệ Hoè ghé vào bên tai Việt Tiềm, thấp giọng nói: “Thái tử là ai chứ, Cừ Uy dù có ôm hận cũng phải thu mình, kín tiếng hơn.”

Nghĩa bóng mặc dù ghi hận trong lòng, Cừ Uy cũng tuyệt đối chẳng dám xuống tay với Thái tử. Ngẫm lại, bên người Thái tử luôn có một đám thị vệ, người khác dù muốn báo thù cũng chẳng có cơ hội.

“Phải rồi, ngày mai Việt hầu theo ta vào thành, công tử cho gọi ngươi. Ngày mai công tử muốn xuất cung, tham quan nhà mới.” Vệ Hoè thả cửa nâng chén uống rượu, bên khoé miệng còn đọng lại hơi rượu chưa tan.

Việt Tiềm gật đầu: “Sáng mai ta đi cùng ngươi.”

Sáng sớm hôm sau, Việt Tiềm và Vệ Hoè đánh xe ngựa tới bên ngoài cửa cung, chờ đợi Linh công tử. Linh công tử thong thả đi ra ngoài, đồng hành cùng y còn có Thất công tử Chiêu Thuỵ.

Hôm nay Linh công tử mặc quan phục, y quan trang nghiêm hơn so với thường ngày, bên hông còn đeo một thanh bảo kiếm.

Nam tử bình dân mười sáu tuổi coi như đã thành niên, nhưng quan lại, quý tộc phải hơn mấy tuổi mới tính là thành niên. Tập tục của mỗi quốc gia cũng khác nhau, ví như ở Vân Việt Quốc, nam tử mười bảy tuổi đã có thể làm quan rồi.

Chiêu Thuỵ ngồi chung với Chiêu Linh, hắn còn là người nói nhiều, suốt một đường không ngừng líu ríu, còn hưng phấn hơn cả Chiêu Linh.

“Nhất định ngày sau Bát đệ có thể đương chức thừa tướng, nếu không làm thừa tướng, ắt sẽ phải là tả tướng! Sau đó ở lại Đô thành, phụ tá Quốc quân, lưu danh sách sử!”

“Bây giờ Bát đệ có một toà đại phủ thế này, lại mua thêm hai mươi, ba mươi mỹ nhân, sau đó nuôi bốn mươi, năm mươi môn khách…”

Chiêu Thuỵ không ngừng lải nhải, nhưng Chiêu Linh thật sự chẳng có hứng thú gì với mỹ nhân, chỉ cười nói: “Thất huynh tính xa quá rồi, ta đâu muốn những thứ ấy. Ta chỉ muốn ghé qua xem toà nhà kia có nơi nào không ổn, có thoáng đãng hay không, có cần sửa sang lại gì không thôi.”

“Ngẫm lại cũng thật là đáng thương, bây giờ Mạc Ngao bị trục xuất khỏi thành, chỉ có thể về quê hương Trừng thành của gã. Nghe đồn Trừng thành khô nóng, ngư dân toàn đào giun dưới bùn ăn, làm sao so được với Đô thành chứ.” Chiêu Thuỵ không khỏi sinh lòng cảm thông.

Chiêu Linh chữa lại: “Thất huynh đừng nghe người ta nói bậy. Nơi ấy có vựa muối, vô cùng đông đúc và giàu có. Gã phải vui mừng mới đúng, mừng vì có thể về nhà dưỡng lão, chứ không phải trở thành tù nhân.”

Trong lúc trò chuyện, xe ngựa đã dừng trước một toà Phủ đệ rộng lớn bên Nam thành. Quả thật nơi đây rất gần Vương cung, mỗi ngày vào triều cũng vô cùng thuận tiện.

Nơi này đã từng là Phủ đệ cực kỳ nháo nhiệt của cả nhà Mạc Ngao, lúc này người đi nhà trống, những vật không kịp mang đi bị quăng loạn giữa căn nhà rộng lớn, bừa bộn khắp ơi. Trước cửa phủ có vài binh sĩ trông coi, vừa thấy Linh công tử liền dồn dập hành lễ.

Chiêu Linh đi vào trong viện, nhìn quanh bốn phía, cau mày lắc đầu. Cửa sổ hệt như bị người ta cố tình phá hoại, cửa lớn cũng sứt mẻ, trên cửa còn có vết kiếm chém sâu vào.

Chiêu Thuỵ lên tiếng: “Xem ra rất không cam tâm, trước khi đi còn phải phá hoại mới chịu.”

Hắn nhanh chân đi về phía những phòng đầu tiên, lại rảo bước xung quanh như cưỡi ngựa xem hoa. Chiêu Linh đi phía sau, y đi thẳng về phía chủ viện, nơi ấy sẽ là phòng ở của y ngày sau, phải xem xét thật kỹ, xem những nơi nào cần sửa sang lại.

Trước mắt là một cánh cửa viện, sau khi đi qua sẽ tiến vào chủ viện. Chiêu Linh quay đầu nhìn về phía sau, vừa định gọi Việt Tiêm tới, lại thấy hắn theo sát phía sau, từng bước như rập khuôn.

Hôm nay hắn không giống với ngày thường. Trước đây nếu không có mệnh lệnh, hắn có thể trốn xa bao nhiêu sẽ trốn xa bấy nhiêu, chưa bao giờ tích cực đến thế này.

Sóng bước đi qua cửa viện cùng Linh công tử, Việt Tiềm tiến vào trong sân, đánh giá xung quanh, vô cùng cảnh giác.

Dường như hắn cũng không cần quá lo lắng, bởi bên cạnh Linh công tử còn có hai tên thị vệ.

Chiêu Linh ngẩng đầu lên, nhìn về phía Nguyệt các. Sau khi đích thân tới đây, y mới phát hiện ra toà tháp này rất cao, còn tạo cảm giác hiểm trở cho người nhìn.

Chỉ cần đứng ở phụ cận cũng có thể thấy Nguyệt các cao hơn những toà tháp khác một đoạn, nhưng cũng bình thản không thấy gì lạ, tới giờ đứng ngay bên dưới mới ý thức được nó đồ sộ đến thế nào.

“Bát đệ, chúng ta lên lầu đi!” Chiêu Thuỵ cũng chú ý tới toà tháp cao này, rục rà rục rịch.