07.
Ba tháng sau, sức khỏe của chú em Nguyên Tông đã khá hơn.
Cậu ta chỉ nhỏ hơn Trình Gia nửa tuổi, là một chàng trai có vẻ ngoài tề chỉnh, nhưng tính cách lại có phần u ám. Đôi mắt đen kịt, lộ ra tia lạnh lẽo.
Trình Gia nói rằng từ nhỏ tính cách cậu ta đã vậy rồi, như ông cụ non, không thích nói chuyện. Chàng bảo tôi đừng để bụng. Đương nhiên, tôi sẽ không để bụng. Cậu ta là em họ của Trình Gia, vậy nên tôi cũng coi cậu ta như em họ của mình.
Khoảng thời gian đó, để tiện cho Nguyên Tông dưỡng thương, tôi và ông nội đưa hai người họ tới thành Hu-Nê ở Thiện Thiện.
Thiện Thiện là quốc gia có tường thành bao quanh nổi tiếng ở Tây Vực. Phía Đông thông với Dương Quan, phía Tây nối với Ô Di, mặt Nam có bộ lạc của người Khương và người Nhược. Đường lớn Nam Bắc của Trung Nguyên và Tây Vực giao nhau tại nơi này nên đây là địa phương rất nhộn nhịp sầm uất.
Xưa kia từng có rất nhiều người Trung Nguyên tới thành Hu-Nê làm ăn buôn bán, nhưng mấy năm trở lại đây đường cái hoang phế, người Trung Nguyên tới đây thưa dần.
Đối với việc này Kỳ Mạc cực kỳ tức giận: “Đều tại đám giặc cướp chết tiệt kia nên người Trung Nguyên không dám tới đây buôn bán nữa. Chúng ta muốn trao đổi hàng hóa, lá trà, đồ sứ với bọn họ lại phải đích thân mang hàng tới Trung Nguyên.”
Tôi và ông nội có một tiệm thuốc ở thành Hu-Nê. Trước kia cũng có rất nhiều người Trung Nguyên tới tìm chúng tôi để mua bán thung dung, cây đay và các loại dược liệu khác.
Về sau người Trung Nguyên tới ít dần, nhà tôi không buôn bán được nữa bèn chuyển tới sống trong nhà tròn ở gần Thiên Sơn.
Kỳ Mạc là người dân tộc Khương, là hàng xóm của chúng tôi ở thành Hu-Nê.
Cậu ta mười tám, mười chín tuổi, da ngăm đen, tướng tá khỏe mạnh, lúc cười sẽ lộ ra một hàm răng trắng. Cậu ta và chú của mình thu mua lông thú ở thành Hu-Nê. Họ am hiểu kỹ thuật dệt vải, biết làm thảm nỉ và ủng da dê.
Cha mẹ cậu ta còn nuôi mấy trăm con ngựa ở bộ lạc trên thảo nguyên.
Chú của Kỳ Mạc thường đóng rất nhiều hàng hóa và dẫn theo cậu ta tới Trung Nguyên buôn bán. Đôi khi họ cũng mang theo cả ngựa tốt qua đó.
Kỳ Mạc nói, người Trung Nguyên rất nhiệt tình, rất thích hàng hóa và ngựa của chúng tôi.
Tháng thứ ba sau khi tôi và ông nội đến thành Hu-Nê thì Kỳ Mạc và chú cậu ta trở về từ Trung Nguyên. Trông thấy tôi, cậu ta rất vui, lập tức chạy tới tán gẫu.
“A Ly, các ngươi chuyển về rồi à?”
“Ừ, chúng ta có thể sẽ ở lại đây một thời gian.”
“Tuyệt quá, ngươi chờ chút. Ta có cái này cho ngươi.”
Kỳ Mạc vui vẻ quay trở lại cửa hàng nhà mình, trong chốc lát cậu ta đi ra, tay cầm theo thứ gì đó được gói trong mảnh vải.
“A Ly, ngươi xem. Đây là khăn tay lần trước ta nhìn thấy ở Trung Nguyên. Khăn màu vàng, bên trên được thêu mẫu đơn với bươm bướm. Chẳng phải ngươi chưa bao giờ nhìn thấy hoa mẫu đơn sao? Ta đặc biệt mua tặng ngươi đó. Ông chủ tiệm người Trung Nguyên nói đây là kiểu dáng thịnh hành nhất hiện giờ. Các tiểu thư ở Trường An đều tranh nhau mua…”
Kỳ Mạc hết sức hồ hởi lấy ra một cái khăn tay từ trong tầng tầng lớp lớp vải bọc, động tác cẩn thận đưa cho tôi.
Khăn lụa có màu vàng, mặt trên thêu đóa hoa đỏ thẫm, còn có hai con bướm bay ở bên trên đóa hoa. Tôi cầm nó trong tay, nhịn không được mà “Oa” lên một tiếng: “Đẹp quá! Cảm ơn ngươi, Kỳ Mạc. Ta thích lắm.”
“Xấu chết được.”
Tôi và Kỳ Mạc đang đắm chìm trong niềm vui thì đột nhiên ở bên cạnh có người cười giễu cợt, nói xấu chết được với giọng lạnh lùng.
Mặt Kỳ Mạc tức khắc nửa đen nửa đỏ. Tôi nhìn về phía người nọ, cũng theo đó cau mày nói: “Chú em Nguyên Tông chớ nói bậy, chiếc khăn tay này rất đẹp.”
Nguyên Tông lại khẽ cười nhạt, quay mặt đi như lười nhìn chúng tôi.
Kỳ Mạc lôi kéo tôi: “A Ly, hắn là ai vậy?”
“À, quên chưa giới thiệu với ngươi. Người này tên là Nguyên Tông, là em họ bên ngoại của chồng ta. Kỳ Mạc, ta sắp kết hôn rồi. Chồng ta tên là Trình Gia.”
08.
Nguyên Tông hình như sắp quay về Trung Nguyên.
Tối hôm đó tôi đi tìm Trình Gia, nghe được bọn họ nói chuyện ở bên ngoài. Nguyên Tông nói rằng đã liên lạc được với Ngụy Danh. Hắn đang dẫn theo hộ vệ tới đây, Trường An xảy ra chuyện, giờ là lúc phải quay về.
Trình Gia trầm mặc một lát, sau đó nói với hắn: “Sau khi trở về, em cứ nói với mọi người rằng, ta đã ch.ết ở Tây Vực.”
Nguyên Tông bật cười ra tiếng: “Anh không định ở lại đây thật đấy chứ? Đùa gì thế, hai ông cháu họ đúng là có ơn lớn với chúng ta, nhưng có nhiều cách để báo ơn mà. Có thể đưa họ cùng quay về Trường An, sau này nhà cao cửa rộng, ăn sung mặc sướng, sẽ không bạc đãi bọn họ.”
“Họ không muốn tới Trung Nguyên.”
“Vậy thì điều một đội nhân mã từ Trung Nguyên tới đây. Dẫn theo cả nha hoàn, nô bộc nữa. Muốn cái gì thì cho cái đó.”
“Nguyên Tông, họ chỉ muốn bản thân ta thôi.”
Trình Gia nhìn Nguyên Tông với vẻ mặt nghiêm túc, bình tĩnh nói: “Lời nói của người quân tử đáng giá ngàn vàng, sao có thể lật lọng, thất tín với người ta? Em không cần nói nữa, ta cũng sẽ không quay về. Từ nay về sau, Trung Nguyên không còn người tên Trình Gia này nữa.”
“Anh!”
Nguyên Tông hình như nổi giận. Hắn hậm hực hồi lâu sau đó ném lại một câu “Tùy anh”, rồi xoay người bỏ đi.
Chờ cho hắn đi rồi, tôi đứng sau lưng Trình Gia, có chút thấp thỏm: “Chàng không trở về thật sao?”
Trình Gia xoay người lại.
Thành Hu-Nê vào ban đêm rất yên tĩnh. Ánh trăng chiếu xuống thành quách nối tiếp nhau, cũng chiếu vào bức tường đất bên ngoài gian phòng, phủ lên nó một lớp ánh sáng bạc rất đẹp, tôn lên dáng vóc như cây ngọc của Trình Gia.
Chàng mặc bộ áo bào kiểu cổ lật của người Hồ. Đó là cái áo choàng mà ta đã tìm người may sau khi tới thành Hu-Nê. Gấm đính hạt cườm có hoa muông thú của Tây Vực là loại gấm có chất lượng rất tốt, màu sắc cũng đẹp, nhưng mặc trên người Trình Gia, còn lâu mới sánh bằng khuôn mặt trắng nõn của chàng.
Chàng có cặp lông mày đen dày, đôi môi mỏng, thực sự nhìn rất đẹp trai.
Thấy tôi thấp thỏm, chàng cười, vươn tay về phía tôi.
“A Ly qua đây.”
Tôi lập tức tiến lên một bước, nắm lấy tay chàng.
Người dân Tây Vực cởi mở, các cô gái ở thành Hu-Nê thích mặc váy đỏ, bên trên mặc áo ngắn hở ngực với áo khoác tay lỡ.
Tôi cũng luôn mặc như vậy. Eo thì thắt đai lưng khảm đá quý, trên trán là một chuỗi trang sức bằng hạt ngọc. Chuỗi vòng hạt đá đỏ quấn quanh cổ tay, khi bước đi sẽ vang lên tiếng leng keng.
Trình Gia đã sớm biết tôi đứng ở sau lưng. Từ lúc đến thành Hu-Nê chàng đã có thói quen gọi tôi đến trước mặt, vươn tay buộc chắc sợi dây trên áo cánh của tôi, che đi chỗ bị lộ ra trước ngực.
Khi đó, chàng đã quen với việc tôi thường nắm tay chàng trước mặt mọi người. Từ ngày đầu tiên mặt đỏ ửng, dần dần mặt không đổi sắc. Thế nhưng lần đầu tiên đưa tay khép chặt áo cánh của tôi, ánh mắt chàng lại liếc sang chỗ khác cực mất tự nhiên, vành tai đỏ cả lên.
Thực ra tôi có chút khó hiểu, cô nàng A Tang làm nhạc cụ bên đường vẫn thường mặc váy ngắn hơn một chút, để lộ cả nửa bắp chân cơ.
Về sau tôi với Trình Gia thành hôn, có lần tôi hỏi chàng vì sao phải buộc áo của của tôi lại, rõ ràng tất cả mọi người đều mặc như vậy mà. Trình Gia không nhịn được cười, ánh mắt phản chiếu trong mắt tôi: “Vẫn nên để lộ ít một chút thì hơn. Thời tiết thất thường, ta sợ nàng sinh bệnh.”
Tôi biết ngay chàng quan tâm tôi mà. Tuy rằng ban đầu chàng bị tôi và ông nội giữ lại bằng giao dịch, thế nhưng chàng nhất định sẽ thích tôi.
Kỳ Mạc từng nói, ai ai cũng sẽ thích cô gái hay cười giống như tôi.
Được rồi, thực ra cũng không hẳn vậy. Chí ít thì chú em Nguyên Tông không thích tôi.
Sau lần cậu ta nói chuyện với Trình Gia ở bên ngoài, cậu ta có tới tìm tôi một lần.
Cậu ta hỏi tôi có muốn tới Trung Nguyên không. Cái khăn tay mà Kỳ Mạc tặng tôi, thực ra rất xấu, Trung Nguyên có nhiều khăn lụa và xiêm áo đẹp hơn nhiều.
Tôi lắc đầu, nghiêm túc nói với cậu ta: “Tôi hiểu ý cậu. Tôi không tới Trung Nguyên đâu, chồng tôi cũng sẽ không đi.”
Nguyên Tông mím môi, vẻ mặt hơi khó coi: “Cô có biết không, ở Trung Nguyên anh ấy đã có người thương, đã hứa hôn rồi?”
Đương nhiên là tôi không biết. Hơn nữa, bất ngờ nghe được chuyện này, tôi ngây ra một lúc lâu.
Sau khi hoàn hồn, tôi thở dài: “Chịu thôi, lúc trước hai người không nói. Hơn nữa, đây là lựa chọn mà chàng tự mình quyết định, hối hận cũng không còn kịp nữa rồi. Chàng chỉ có thể là của tôi thôi.”
“Ép buộc người khác thú vị lắm hả? Sao cô cứ phải như vậy? Cô không thích đàn ông Tây Vực thì chờ ta về Trung Nguyên, ta sẽ tuyển chọn ra trai tráng tốt nhất Trung Nguyên cho cô chọn. Chỉ cần cô buông tha cho Trình Gia, để anh ấy theo ta quay về Trường An.”
Nguyên Tông nói giọng không dễ nghe. Lòng tôi vốn đã hơi khó chịu, nghe vậy cũng theo đó mà nổi giận. Tôi vỗ bàn, nhìn cậu ta nói: “Tôi nói rồi không còn kịp nữa. Cậu muốn để chàng quay về Trung Nguyên. Được thôi. Đem mạng của cậu trả lại đây!”
Tôi nhìn cậu ta chằm chằm: “Ông nội tôi ghét nhất là người Trung Nguyên không giữ chữ tín, cho nên mấy lời này cậu đừng để cho ông nghe được. Mặc kệ người của cậu dẫn theo bao nhiêu hộ vệ tới. Dám đem chàng đi thử xem. Cậu có bản lĩnh lớn hơn nữa, cũng không ra khỏi Tây Vực đâu.”
Nguyên Tông cau mày, nét mặt lạnh lùng.
Tôi cười khẩy: “Người Trung Nguyên mấy người, đúng là điển hình của cái kiểu đã được hời còn khoe mẽ. Ông nội tôi có lòng tốt, cậu mới có cơ hội đứng ở chỗ này nói chuyện với tôi. Tôi có lòng tốt, Trình Gia mới có cơ hội ở lại Tây Vực. Bằng không các người đã sớm chôn xác ở Thiên Sơn rồi, có tư cách gì để ra điều kiện.”
“Tôi thích Trình Gia, được tôi để mắt tới chàng là may mắn của chàng. Chuyện đã thế này, người thương hay chuyện hứa hôn gì đó ở Trung Nguyên, chàng tốt nhất nên quên hết đi. Tôi cũng chẳng phải không có chàng không được.”
Mạnh miệng là thế nhưng nước mắt tôi đã đảo quanh trong hốc mắt. Trước khi nước mắt rơi xuống, tôi đứng dậy chạy ra khỏi tiệm thuốc.
Ngoài cửa, Trình Gia vừa vặn đi vào, bất thình lình va phải tôi. Chàng giữ lấy vai tôi: “Sao thế, A Ly?”
Tôi đẩy mạnh chàng ra, tức giận nói: “Chàng nghe thấy hết rồi, đúng không? Muốn đi thì đi đi, còn diễn với em họ chàng làm gì? Ta bây giờ rất ghét chàng, không thích chàng nữa.”