Sở dĩ Quỷ Môn Hiệp dễ thủ khó công, tất cả tại địa thế.
Nhưng Trần tiên sinh đã đến, vấn đề khó này đã được giải quyết dễ dàng.
Lang Vương mất một buổi tối để nghiên cứu địa thế của Quỷ Môn Hiệp, cuối cùng phát hiện, tuy Quỷ Môn Hiệp hiểm trở nhưng cũng có yếu điểm, chỉ cần dùng thang mây đi theo một đường núi bí mật, đánh tan vài chỗ thủ của người Hung Nô là có thể phá được thế giáp công của người Hung Nô.
- -----
Vì để kiểm tra xem cách tấn công của mình có hiệu quả không, hắn lệnh cho các dũng sĩ chia làm ba tổ kỵ binh vào núi sâu giả công kích, thật ra là tra xét địa thế.
Đương nhiên, kết quả của mấy lần tiến công này cũng là “đại bại mà về”.
Đến lúc vô cùng xác thực không thể nghi ngờ gì nữa, trong một buổi đêm lạnh lẽo, quân Sở gia bắt đầu tiến công ồ ạt.
Nhân bóng đêm yểm trợ, binh mã hàng dài thẳng tiến vào sâu trong núi.
Lang Vương đứng trên sườn núi nhỏ ở nơi xa, dõi mắt trông về bóng đêm dày đặc phía xa, vẻ mặt tiêu điều, hắn biết lần này là mình quyết đánh đến cùng. Nếu đắc thắng trở lại, hiển nhiên không cần phải nói; nhưng nếu chiến sự thất bại, như vậy triều đình kinh thành cũng sẽ trở thành chiến trường chém giết thảm thiết.
Ngụy gia, Lưu Hi, còn có vô số người dụng tâm hiểm ác đang chờ xem trò cười của Sở Tà hắn.
Trận này hắn chỉ có thể thắng không thể bại! Không phải vì công danh lợi lộc của chính hắn, mà là vì thê nhi con cháu an khang, triều đình núi sông bình yên.
- -----
Lại nói về binh mã vào khe núi, bởi vì vó ngựa bọc vải, miệng ngựa cũng lắp lồng sắt nên vô cùng an tĩnh. Binh mã đến nơi, leo núi mà lên, cắt cổ lấy máu lính gác Hung nô, rất nhanh đã công chiếm được mấy chỗ thủ ở sườn núi cao.
Mỗi một nơi công chiếm được, các dũng sĩ sẽ lấy túi nước lớn bên người ra, đổ nước lên lối vừa đi, nước gặp lạnh lập tức kết băng, làm trơn đường. Sáng như gương đồng, bảo đảm Hung nô muốn leo lên là sẽ ngã xuống đầu đau não trướng, cướp lại chỗ thủ cũng không có khả năng.
Lúc người Hung Nô phát hiện trong sơn cốc có quân Sở gia, quân Sở gia đã lén đi được hơn nửa chặng đường, nháo nhào thắp sáng cây đuốc, chiếu sáng khe sâu, rất nhanh ngọn lửa tận trời, chém giết một vùng…
Theo đời sau ghi lại, trận chiến này đã tiêu diệt hơn nửa liên quân các bộ lạc Hung nô, làm giảm sĩ khí người Hồ, rất nhiều năm sau đó, người Hung Nô lui đến sống ở nơi bần hàn phía bắc, không còn xâm chiếm biên giới Trung Nguyên nữa.
Lúc tin chiến thắng của quân Sở gia Lang Vương truyền đến, toàn bộ triều dã đều chấn động.
Dẫu sao chiến tích vài lần thử dụng binh rồi thất bại quay về của Lang Vương đều bị người có tâm cố tình thổi phồng, khiến cho lòng người trên dưới Nguyên Triều hoảng sợ.
Thế cho nên cả kinh thành đều cho rằng, Lang Vương thảm bại trở về là không thể nghi ngờ, nguyên khí của Nguyên Triều sẽ đại thương vì người hiếu chiến này là chuyện không thể tránh né.
Tiếng mắng của người dân ngày càng nhiều, nghiễm nhiên Lang Vương bị biếm quan lột tước là những gì người dân muốn.
Thậm chí tấu chương chủ trương giải hoà của Đại hoàng tử cũng đã trình đến trước ngự án của vạn tuế.
Nhưng chính vào lúc này, tin tức Lang Vương một đêm đại thắng, công chiếm Quỷ Môn Hiệp truyền đến không hề báo trước.
Toàn triều xôn xao, một đám quần thần đều cảm thấy mất thể diện, không biết xoay sở thế nào.
Dẫu sao một ngày trước bọn họ vẫn đang khóc lóc khuyên can vạn tuế, triệu hồi Lang Vương, dĩ hòa vi quý, ngăn chiến hưu binh. Nhưng cách một ngày đã truyền đến tin chiến thắng, làm mấy trung thần tận tuỵ bọn họ sao mà chịu nổi?
Gia Khang Đế mặt rồng hớn hở, sau khi mỉa mai thần tử cả triều đui mù, trước mặt quần thần, ông ném tấu chương giải hoà của Đại hoàng tử lên mặt hắn, mắng cho một trận, làm mặt Lưu Hi hết xanh lại trắng, không thể nói tiếp.
Hoàng đế cũng hạ lệnh khao thưởng ba quân, cũng truyền thánh chỉ, thu xếp chuyện biên quan xong, Lang Vương Sở Tà có thể về triều tiếp nhận ngợi khen.
Còn Quỳnh Nương đang ở kinh thành cũng cảm nhận được vinh quang mà quân công của phu quân đem đến.
Nhưng có lẽ là trải qua nhiều rồi, Quỳnh Nương không muốn ra phố để mọi người và hoa tươi vây quanh, chiêng trống vang trời chúc mừng giành lại được ba đất Thường Châu nữa.
Đối với nàng mà nói, biên cương đắc thắng có nghĩa là trượng phu của nàng sắp trở về, người một nhà có thể đoàn tụ trước tháng chạp, cùng nhau ăn tết vui vẻ thoải mái.
Hi Hoà và Nhược Hoa cũng tung tăng nhảy nhót khi biết phụ vương có thể trở về. Sáng sớm tinh mơ đã leo lên giường lột tỏi với mẫu thân, tự tay làm tỏi để ăn tết.
Trẻ con lớn lên rất nhanh, Hi Hoà càng ngày càng giống Sở Tà, ngay cả dáng vẻ nhếch mày thiếu đánh lúc nói chuyện cũng như khắc ra từ một cái khuôn mẫu.
Quỳnh Nương cười nhìn nhi tử chơi đùa, không nhịn được ôm lấy thơm mấy cái.
Tuy Hi Hoà cảm thấy thân là tiểu tướng quân, để mẫu thân thân cận sẽ làm giảm uy phong, nhưng mẫu thân đẹp như vậy, thơm như vậy, nhào vào ngực mẫu thân rồi bị thơm cũng không phải chuyện không chịu đựng được.
Nhưng phải tìm về chút mặt mũi, bèn nói: “Nương, con biết người nhớ cha, mà con lớn lên lại giống cha nên con sẽ cho người thơm mấy cái, để hoá giải nỗi khổ tương tư.”
Quỳnh Nương nhìn gương mặt bánh bao nhếch mày của nó, không nhịn được nhéo mặt nó nói: “Học được mấy lời này ở đâu? Cái gì gọi là nỗi khổ tương tư hả!”
Nhược Hoa vừa lột vỏ tỏi bằng tay nhỏ vừa bỏ đá xuống giếng: “Ca ca vào cung, nghe thấy phi tử trong cung nói về nỗi khổ tương tư, đêm không thể ngủ gì đó với hoàng đế gia gia. Ca ca hỏi, hoàng đế gia gia liền giải thích cho huynh ấy nghe, nói là mẫu thân nhớ phụ hoàng, đó là nỗi khổ tương tư. Mẫu thân, con thích ăn kẹo mạch nha nặn được thành đồ chơi, nhưng người không cho con ăn, con cũng tương tư kẹo mạch nha, người có thể cho con và kẹo mạch nha đoàn viên để hoá giải nỗi khổ tương tư không?”
Nói xong lời này, đôi mắt tròn của Nhược Hoa nhanh chóng lóng lánh ánh nước, đúng là tương tư khổ cực!
Quỳnh Nương dở khóc dở cười nhìn đôi nhi nữ, lại thầm cảm thấy may mắn khi Sở Tà được công công Sở Quy Nông nuôi lớn. Nếu không, chẳng phải loại phong lưu kia được chân truyền hết từ hoàng đế sao? Nếu đúng là trêu ong ghẹo bướm, tương tư khổ cực mọi lúc, nàng sẽ không thể sống với Vương gia phong lưu này.
Hi Hoà không hiểu phong tình, cười hì hì nói với muội muội Nhược Hoa: “Sâu đường cũng tương tư muội đấy, muội còn ăn kẹo nữa, tối nay sâu sẽ khoan hỏng răng muội!”
Nhược Hoa không chịu, đuổi theo ca ca bắt đầu đùa giỡn. Quỳnh Nương chỉ cười nhìn chúng, xoa cái bụng hơi phồng lên của mình, thầm nghĩ: Chỉ mong đứa này an tĩnh, đừng là một đứa nghịch ngợm nữa.
Đúng lúc này, đại Tẩu Trần Kiếm thu cũng dẫn hài tử nhà mình qua phủ nói chuyện phiếm.
Hôm qua, Trần gia nghênh đón thánh chỉ, bởi vì phụ thân Trần Viễn Tu của nàng ấy có công giúp Lang Vương giành lại đất mất đất, vạn tuế rũ ân, giải tội cho Trần gia, khôi phục phong vị Trần gia vốn được thừa kế.
Nói thật, lúc nghe thánh chỉ, Trần Kiếm Thu giật nảy mình, không thể tưởng được nhà mình vốn là nhà công hầu nhất đẳng. Miệng phụ thân kín như vậy, chưa từng để lộ ra quá nửa phần.
Mà lúc niên thiếu, phụ thân xuất thân Trạng Nguyên lang, có điều làm người than tiếc chính là, đến thế hệ huynh trưởng của nàng lại không có mấy bút mực.
Quỳnh Nương gọi bà vú dẫn ba đứa trẻ đi chỗ khác chơi, cười nói: “Tuổi tẩu còn nhỏ, bây giờ có học cũng vậy, còn về huynh trưởng thông gia, ta thấy dáng vẻ cũng thông minh, đến lúc đó mời tiên sinh dạy học vào phủ, dạy từ căn bản rồi vào thư viện cũng vẫn kịp.”
Trần Kiếm Thu hết sức gật đầu: “Trước kia thấy Vương phi hiểu biết chữ nghĩa, viết sách lưu loát là đã hâm mộ, nhưng đến lúc học lại thiếu chút quyết tâm. Bây giờ mới biết tổ tông hiển quý như vậy, nếu không quyết tâm học tập, thật sự là có lỗi với tổ tiên.”
Nói đến đây, nàng ấy lại nhớ đến một chuyện: “Dạo gần đây luôn có người đưa thiệp đến nhà, đều là mấy phu nhân không quen biết, tuy rằng trước kia ta cũng có thấy Vương phi xã giao, nhưng hôm nay là mình làm, lại thiếu quy củ, không biết mức độ, mong Vương phi giúp đỡ, xem nên ứng đối thế nào.”
Quỳnh Nương cười: “Đây là giàu nơi núi thẳm cũng có khách tìm, nghèo ở chợ đông lại không người hỏi. Nếu sau này ông thông gia kế tục tước vị, tẩu phải giúp đỡ phụ thân huynh trưởng, nếu tin tưởng ta thì mang bái thiếp đến, ta sẽ phân nặng nhẹ nhanh chậm cho tẩu. Chính tẩu cũng đắn đo chừng mực, dần dà sẽ biết làm.”
Trần Kiếm Thu tin tưởng gật đầu, nói: “Không phải đạo lý này sao? Trước kia lúc mới gả đi, ta từng theo Vương phi đi xã giao, những quý phu nhân đó nể ta là đại tẩu của Vương phi nên mới nặn ra vài nụ cười, nhưng sau lưng lại tán gẫu về ta không ít. Nói thật, lúc đó thấy rất hối hận, cảm thấy mình suy nghĩ không chu toàn, để Vương phi có tẩu tử xuất thân ti tiện, vô cớ khiến người chê cười.”
Lúc này Quỳnh Nương mới hiểu, vì sao lúc nàng gọi đại tẩu đi tham gia yến hội, nàng ấy luôn thoái thác có việc không đi.
Nàng chỉ cười nói: “Miệng mọc trên mặt các nàng ta, thích nói cái gì, không cần đặt trong lòng mình. Nếu luận xuất thân cao thấp, nữ thương hộ như ta thì cao quý hơn nhà nông ở chỗ nào? Sở dĩ ta nhận định tẩu là đại tẩu, đó là cảm thấy tẩu sẽ làm Thôi gia chúng ta thịnh vượng hòa thuận, chắc chắn là vậy, sau khi tẩu gả tới, cha nương ta chưa từng nói nửa chữ “không” với tẩu, từ trong ra ngoài, chuyện gì không phải do tẩu lo liệu? Vài ngày trước cha ta bị bệnh gan, cũng là tẩu kịp thời nhìn ra sắc mặt ông ấy vàng vọt, kịp thời mời lang trung bốc thuốc chẩn trị, rồi tẩu lại thuốc thang hầu hạ hàng ngày.”
Lời nói dịu dàng của Quỳnh Nương hoá giải khúc mắc của Trần Kiếm Thu.
Còn các quý phụ nhân trong kinh thành lại nhận định Lang Vương phi biết nhìn người, biết oan tình của Trần gia nên nâng một thị nữ làm đại tẩu, giúp phu quân lập nên kỳ công vĩ thế.
Cũng có người truyền, nói Quỳnh Nương là phúc tinh chuyển thế. Số mệnh trời sinh vượng phụ mẫu, vượng phu quân. Nếu luận về khả năng nhìn người, vậy cũng phải khen Lang Vương, sao trước đó lại tuệ nhãn anh minh như vậy, cưới kiều thê thương hộ toả ra ánh sáng vàng may mắn này vào cửa chứ?
Có điều Lang Vương đắc thắng về triều lại không cảm thấy lão bà kim quang lấp lánh, hắn bôn ba một đường, cuối cùng cũng dẫn đội nhân mã lớn đến trước cửa thành, những gì hắn nghĩ đến là thịt thơm ngào ngạt của tiểu Quỳnh Nương nhà mình.
Nghĩ vậy nhưng không làm được, Sở Tà ngồi trên lưng ngựa không yên, hận không thể lập tức phi ngựa về phủ.
Đáng giận là, ngoài cửa thành, một khoảng đen nghìn nghịt, đều là văn võ bá quan đến đón chào.