Tống Y

Chương 235: Đức Phi nương nương




"Không có giun quấy, mà là do hư chứng, cái này e là…hứ!”



“Sao vậy?”



“Ta luôn có cảm giác là trong bụng ta có giun quấy, hồi trước thì vị đại phu kia bảo không có, sau đó lại nói là có, nhưng lại nói với cái vẻ không cam tâm, bây giờ lại đến lượt ngươi nói trong bụng ta không có giun, Ngũ Vị Đường của bọn ngươi rốt cuộc có ai chẩn đoán đúng căn bệnh của ta không?”



Hàm Đầu cũng không tức giận, đáp: “Chữa bệnh mà, làm gì có vị đại phu nào đều có thể lúc nào cũng chỉ cần cắt một bài thuốc một cái là chữa khỏi bệnh ngay cho người ta đâu, huynh đài cứ làm theo phương pháp chữa bệnh của ta xem thế nào đã, rồi tính sau, huynh đài thấy thế nào?”



“Phương pháp gì?”



Hàm Đầu cầm bút lên, vừa viết vừa đọc: “Bổ Trung Ích Khí Thang! Cho thêm nhiều Sâm vào, dùng rượu xào với Hoàng Phách cho năm phần vào bổ trợ. Uống liền ba mươi thang!”



“Á! Ta không tin, ba mươi thang thì thôi, cứ dùng tạm ba thang trước đã, nếu như vẫn không khỏi, thì ngươi phải cho ta gặp Đỗ tiên sinh, ông ấy là Thái Y, ai cũng bảo y thuật của ông ấy cao siêu, ta chỉ tin ông ấy mà thôi!”



“Được!” Hàm Đầu xoa tay nói “Chúng tôi chữa không khỏi bệnh cho huynh đài, nhất định sẽ mời Sư Tổ của chúng tôi chẩn đoán cho huynh, xin huynh đài cứ yên tâm.”



Ngày hôm sau, Trúc Can lại đến Ngũ Vị Đương, trông hắn tiều tụy hơn trước rất nhiều.



Lần này gã không gào thét cũng không làm mình làm mẩy nữa, chỉ ngồi trước tiền đường, ôm lấy hai vai, nói: “Được rồi, hai vị đại phu đều là ăn hại, bụng của ta sắp bị cắt làm đôi rồi. Ta lần này đến đây, chỉ muốn gặp Đỗ tiên sinh mà thôi, nếu Đỗ tiên sinh không chữa cho ta, thì ta biết rằng bệnh của ta đã hết thuốc chữa rồi.” Sau đó, gã rút trong người ra một sợi dây thừng, nói: “Hôm nay, ta quyết định treo cổ trước cổng Ngũ Vị Đường của các ngươi!”



Đêm hôm trước, Bàng Vũ Cầm đã đem toàn bộ sự việc ra nói với Đỗ Văn Hạo. Đỗ Văn Hạo biết được hôm nay Trúc Can sẽ đến đây tiếp, nên đã cho người đến Thái Y Viện xin nghỉ nửa ngày để chờ gã ta.



Ngô Thông chạy như bay vào trong thông báo, Đỗ Văn Hạo vội bước ra ngoài, chắp tay nói: “Vị huynh đài này, tại hạ là Đỗ Văn Hạo.”



Trúc Can vội đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Gã tiến nhanh đến trước mặt Đỗ Văn Hạo rồi nhìn ngắm hắn từ trên xuống dưới, nhưng không nói một lời nào liền vén áo lên, quỳ xuống dập đầu côm cốp xuống nền nhà: “Tiên sinh cứu tôi với!”



Đỗ Văn Hạo vội vàng đi đến đỡ gã đứng dậy: “Đệ tử của ta không chữa bệnh được cho huynh đài, làm huynh đài phải chịu khổ như vậy, thật là ngại quá.”



Trúc Can hai mắt đẫm lệ, giọng nói nấc nghẹn, đáp: “Đỗ tiên sinh, tiên sinh mà không cứu ta nữa, thì ta chết mất!”



Đỗ Văn Hạo để gã ngồi xuống, đích thân đi rót trà cho gã, nói: “Đừng nóng vội, để ta khám cho huynh đài xem sao. Huynh đài hãy nói cho ta biết trước huynh rốt cuộc bị làm sao? Khi mới phát bệnh tình hình thế nào, từ từ bình tĩnh nói cho ta biết, càng tỉ mỉ, càng tốt!”



Trúc Can bèn đem hết đầu đuôi, ngọn ngành cơn bệnh ra nói cho Đỗ Văn Hạo nghe.



Khi gã nói Đỗ Văn Hạo cũng không chen ngang, chỉ ngồi im phăng phắc nghe gã kể lại, sau khi nghe xong, Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, nói: “Đưa ta bắt mạch cho huynh đã.”



Sau khi bắt mạch, xem lưỡi cho Trúc Can xong, Đỗ Văn Hạo trầm ngâm một lúc nói: “Huynh nói không sai, bệnh của huynh đúng là do trong bụng có giun mà ra!”



Trúc Can vỗ đùi cái đét, nói: “Đúng đó! Đỗ tiên sinh quả nhiên cao minh! Ta đã nói là có giun rồi, mà hai tên đệ tử của tiên sinh không chịu tin ta, lại còn nói ta mắc hư chứng gì gì nữa chứ!”



Đỗ Văn Hạo mỉm cười đáp: “Bọn họ biện chứng, khám không chính xác, nên không có biện pháp diệt trừ con giun trong bụng huynh được.”



“Nếu đúng là như vậy, thì tiên sinh hãy mau mau kê đơn thuốc cho ta uống, ta sắp bị mấy con giun đó hành hạ, gặm nhấm sắp chết đến nơi rồi.”



Đỗ Văn Hạo cười nói: “Không vội, không vội.”



Trúc Can nghe thế, càng nóng vội hơn, nói: “Tiên Sinh, ta sắp chết đến nơi rồi, tiên sinh vẫn nói không vội được sao?”



Đỗ Văn Hạo đứng dậy, đáp: “Ta sẽ kê cho huynh một đơn thuốc. Nhưng huynh phải nhẫn nại chờ đợi, bởi vì phương thuốc này rất đặc biệt, phải chính tay ta đi cắt thuốc mới được” Nói xong bèn rời đi.



Một lúc sau, Đỗ Văn Hạo quay lại. Đưa Trúc Can đến cửa của một căn phòng nhỏ, nói: “Viên dược hoàn này phải dùng trong căn phòng không có ánh sáng này mới có tác dụng. Huynh uống xong viên thuốc này sẽ muốn đi vệ sinh nặng, trong phòng này có một cái bô cho huynh dùng, huynh cứ thoải mái mà đi ở trong này, ta phải xem xét đám phân của huynh thì mới nắm rõ được tình hình, huynh đi vệ sinh xong rồi, thì nhớ gọi ta, ta ngồi ở phòng ngoài chờ huynh.”



Nói rồi, Đỗ Văn Hạo mở cửa, căn phòng này tăm tối vô cùng, Đỗ Văn Hạo móc trong người ra một viên dược hoàn đưa cho gã uống, sau đó đi ra ngoài chờ.



Quả nhiên, không lâu sau, trong căn phòng đó vọng ra tiếng bèn bẹt của phân, kèm theo một mùi thối đặc trưng truyền ra bên ngoài. Làm cho người ta theo phản xạ, lùi lại phía sau mấy bước và đưa tay lên bịt mũi lại.



Chỉ một lúc sau, Trúc Can từ trong phòng nói vọng ra: “Tiên sinh, trong phòng này thối quá, tiên sinh đừng vào đây, để ta tự tay đưa phân của ta ra cho tiên sinh xem.”



“Không sao, huynh cứ mở cửa cho ta.”



Cửa được hé mở với một cái khe khá nhỏ, chỉ nhìn thấy Trúc Can đang bịt mũi, mặt ngượng đỏ tía tai.



Đỗ Văn Hạo không hề ngần ngại, mở toang cái cửa đi vào nhìn cái bồn toàn phân, quay đầu lại nói với Trúc Can: “Huynh lại đây mà xem xem trong đó có gì?”




Trúc Can lắc đầu nguầy nguậy, đáp: “Chỉ là những đám phân hôi thối bẩn thỉu mà thôi, có gì đáng xem cơ chứ?”



Đỗ Văn Hạo cười chỉ vào đám phân bẩn thỉu đó nói: “Huynh nhất định phải xem đấy.”



Trúc Can không thể hiểu nổi Đỗ Văn Hạo muốn gì, chỉ thấy hắn cứ muốn bắt mình đến xem, nên cũng đành phải che mũi ngó đầu đến xem xem, không ngờ trong cái đám phân bẩn thỉu này, hắn trông thấy vô vàn những con dòi nhỏ, lổn nhổn ngoằn nghoèo, nhung nhúc trong đó.



Trúc Can mừng rỡ: “Ối dà! thì ra là mấy con giun này đã bị thải ra ngoài rồi! Đỗ Đại Nhân ngài đúng thật là Thần Y đương thời!”



Trúc Can đi ra sảnh ngoài, trả tiền thuốc xong, vẫn quay ra rối rít tạ ơn Đỗ Văn Hạo.



Từ đó trở đi, căn bệnh đau bụng của Trúc Can được chữa khỏi hoàn toàn.



Sau khi Trúc Can dời đi, Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu vội đi vào căn phòng tối đó, nhìn vào đám phân trông bồn, vô cùng kinh ngạc, bọn họ hồ nghi đáp: “Sư tổ, trong bụng người này đúng là có giun thật sao?”



Hàm Đầu cũng chen vào nói: “Đúng đó sư tổ, đệ tử nghĩ gã chắc là mắc phải hư chứng, nhưng không ngờ, đệ tử cứ nghĩ trong bụng hắn không có giun, nhưng hắn lại thải ra cả đống giun ở đây, đúng là đệ tử học nghệ không được tinh thông, thật đáng hổ thẹn!”



Đỗ Văn Hạo cười lớn: “Các ngươi không cần phải hổ thẹn, bởi vì các ngươi không hề chẩn đoán sai chút nào, trong bụng hắn không hề có giun.”



Hai người đều hỏi: “Không có giun? Thế cái đống giun màu đỏ ở trong đám phân là gì thế ạ?”



“Hai đứa các ngươi cứ mở cửa sổ ra, để phòng sáng hơn rồi nhìn xem, nó là cái gì. Nhìn kỹ vào nhé, đừng có ngại mùi thối của phân đấy.”



Hai người vội vàng mở tất cả các cửa sổ của phòng này ra, rồi bịt mũi ngó vào trong cái bồn đựng phân, quan sát cẩn thận, một lúc sau, Hàm Đầu ngập ngừng nói: “Hình như không phải là giun thì phải, nó không động đậy gì cả.”



Diêm Diệu Thủ cũng nói: “Đúng rồi đó, nó giống sợi chỉ màu đỏ hơn.”



“Không sai! Chính là dây chỉ đỏ.”



Hai người cùng kinh ngạc hỏi: “Sư tổ, thế chuyện này rốt cuộc là như thế nào ạ?”



Đỗ Văn Hạo đáp: “Khi nãy hắn ta thuật lại sự tình rất tường tận, nhưng hai người bọn ngươi sợ bị người ta mắng, nên trốn đi chỗ khác, do vậy mới không nghe thấy. Hắn nói cho ta biết, có một thời gian, hắn uống rượu say bét nhè ở nhà nhạc phụ, nhạc mẫu. Đến nỗi nhạc phụ, nhạc mẫu của hắn ta phải bảo nha hoàn đưa vào trong phòng nằm nghỉ. Nửa đêm hắn ta khát nước, tỉnh dậy tìm nước uống. Không ngờ, nha hoàn của nhà nhạc phụ, nhạc mẫu ngủ say quá, nên đành phải tự mình mò ra ngoài cổng để tìm nước, nhìn thấy có nước trong cái máng nước mưa, nước mưa dưới ánh trăng bạc ánh lên trong suốt, hắn ta do khát quá, nên không thèm suy nghĩ gì cả, uống no cả một bụng nước. Khi trời sáng, mới phát hiện ra, trong cái máng nước mưa đấy, bọ gậy nhung nhúc, hắn sợ quá, cứ lo mình uống bao nhiêu con bọ gậy màu đỏ đấy vào bụng, cộng thêm hôm đó, lại ăn uống vô độ nên bụng có phần khó chịu, bèn nghĩ ngay mình đau bụng là do bọn giun đỏ đó gây ra. Hắn ta càng nghĩ vậy, nên càng thấy bụng mình càng lúc càng đau.”




Hàm Đầu lúc này mới ngã ngửa người hiểu ra sự việc: “Thì ra là vậy, đây là một bệnh tâm lý, trong lòng lo lắng nên mới sinh ra bệnh.”



Diêm Diệu Thủ lúc này mới gấp quạt vào, cười nói: “Ha ha, thật không ngờ việc lại như vậy. Nếu biết sớm hắn ta có tâm lý lo sợ như vậy, thì ta cũng có thể chữa được!”



Đỗ Văn Hạo cười nhạt nói: “Ngươi đã trị cho người ta hai lần rồi, sao vẫn không chữa khỏi cho người ta?”



Diêm Diệu Thủ cảm thấy hổ thẹn, vội vã thu quạt lại, cúi người đáp: “Đồ tôn biết tội, đồ tôn không cẩn thận nghe ngóng bệnh nhân nói về bệnh tình của mình, nên mới không biết nguyên nhân của bệnh là gì, đồ tôn quả là sơ sẩy quá.”



“Đây không chỉ là sơ sẩy đơn giản như vậy!” Đỗ Văn Hạo ngắm nhìn hai người bọn họ một lúc, rồi lên tiếng nói: “Một đại phu giỏi, trước hết phải thông thạo vấn chẩn, không những biết hỏi mà còn phải biết lắng nghe người ta nói! Không chỉ có vậy, khi lắng nghe bệnh nhân nói thì có những tình tiết tưởng như không quan trọng, nhưng chỉ cần bệnh nhân nói cho ngươi nghe, thì chắc chắn là họ cho rằng điều đó có liên quan đến căn bệnh của họ, nên ngươi phải tập trung vào mà nghe! Có rất nhiều đại phu không biết lắng nghe bệnh nhân nói! Tự cho mình là thần y, chỉ cần bắt mạch của người ta xong, rồi lúc lắc cái đầu đoán người ta mắc bệnh này bệnh nọ, mà không hề chịu lắng nghe bệnh nhân rốt cuộc là bị bệnh gì. Phán không đúng bệnh, thì ỷ mình hiểu chút y thuật mà đi cãi lý với người ta, coi khám bệnh cứ như bói toán vậy, chỉ cần một tuần trà là chữa trị xong cho mấy người rồi, như vậy thì còn chẩn đoán chính xác bệnh được nữa không?”



Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu đều hổ thẹn cúi đầu đáp: “Đồ tôn nguyện ghi nhớ lời sư tổ chỉ dạy.”



“Đây không phải là ta dạy cho các ngươi, mà là muốn nói cho các ngươi biết rằng, tất cả các đại phu nên có trái tim nhân từ của bậc cha mẹ, nói câu này thì dễ lắm, nhưng làm được chuyện đó thì có được mấy người! Tại sao lại như vậy? Bởi vì đối với quyền uy, tình thân, bệnh tình nghiêm trọng có lẽ người ta sẽ có trái tim nhân ái đó trong người, nhưng đối với những bệnh nhân bình thường thì sao chứ? Bọn họ rất dễ dàng khám qua loa cho xong chuyện, bởi bọn họ nghĩ, dù gì cũng chẳng phải bệnh gì ghê gớm, việc gì phải nghiêm túc chữa bệnh cho mệt sức cơ chứ. Nhưng ai ngờ, khi các ngươi cho đó là căn bệnh tầm thường thì người bệnh lại coi bệnh của họ nghiêm trọng, và to lớn như trời vậy! Y đức như từ mẫu, ý câu đó chính là phải coi người bệnh như người thân của mình, chăm sóc người bệnh như cha mẹ chăm sóc con mình vậy. Cần phải tỉ mỉ, cẩn thận kiểm tra bệnh tình của bệnh nhân, tuyệt nhiên không được lạnh lùng, vô tình, càng không được qua loa cho xong chuyện. ”



Những lời nói này của Đỗ Văn Hạo, làm cho Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu hai người toát mồ hôi lạnh, cúi người lắng nghe, gật đầu tán đồng liên tục.



“Được rồi! Ta phải vào trong cung xem bệnh cho các nương nương đây. Hy vọng rằng ca bệnh vừa rồi có thể thức tỉnh y đức trong người của hai ngươi!” Đỗ Văn Hạo nói xong khoát khoát tay đi vào trong hậu đường. Sau khi vào hậu đường, hắn được Anh Tử và Bàng Vũ Cầm mặc giúp quan phục, đội mũ quan lên kiệu đi vào trong cung. Kiệu rời khỏi cửa trong sự cung kính, e dè tiễn đưa của Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu, lắc lư một lúc thì thấy Thái Y Viện ở trước mắt.



Vừa đến cổng của Thái Y Viện, người gác cổng liền gập bụng thông báo: “Đỗ đại nhân, Đức Phi nương nương sai người đến mời đại nhân đến khám bệnh, giờ đang ở trong hoa phòng chờ đại nhân đó.”



“Đức Phi nương nương?” Đỗ Văn Hạo chưa gặp nàng bao giờ cả, bèn ngẩng đầu lên trời ngẫm nghĩ những sở thích của các Phi Tần nơi hậu cung, Tiêu công công đã nói cho hắn biết hết rồi, Đức Phi nương nương vốn là một thường dân, từ một Ngự Thị biến thành một Phi Tử, mang trong người rất nhiều yếu tố truyền thuyết. Ngày trước nàng rất được Hoàng Thượng cưng chiều, làm cho rất nhiều Phi Tần và nương nương nơi hậu cung cũng phải ghen tị. Nhưng về sau cũng vì mắc bệnh, nên mới bị Hoàng Thượng lạnh nhạt. Người ta hay nói cây đổ rồi thì lá cũng rơi theo, nhớ hồi trước cung Thánh Thụy đông vui tấp nập bao nhiêu, giờ thì tiêu điều, lạnh lẽo bấy nhiêu.



Nhưng có một điều phải khẳng định là Đức Phi nương nương vô cùng xinh đẹp. Nếu không phải vậy thì làm sao mà hậu cung bao nhiêu giai nhân mỹ nữ như vậy, nàng ta vốn chỉ là một Ngự Thị mà được như ngày hôm nay chứ. Có rất nhiều mỹ nữ xinh đẹp được thi tuyển chọn vào hậu cung, đến tận bây giờ cũng còn chưa biết Hoàng Thượng trông như thế nào nữa cơ.



Đỗ Văn Hạo hỏi: “Đức Phi nương nương bị làm sao vậy?”



“Nương nương bị bệnh, cụ thể là bệnh gì, thì nô tài cũng không biết.”



Đỗ Văn Hạo bảo tên gác cửa gọi tên thái giám của Đức Phi nương nương vào hỏi chuyện, tên thái giám cũng không thổ lộ cho hắn được điều gì cả, nên bèn bảo ông ta dẫn mình vào cung.




Đỗ Văn Hạo vốn muốn dẫn theo Hạ Cửu Bà, nhưng Hạ Cửu Bà lại có một ca khám bệnh nên đã ra ngoài từ sớm, đến giờ vẫn chưa quay về. Thế nên, hắn đành một mình cắp theo hòm thuốc đi theo tên thái giám vào Hoàng Cung đến cung Thánh Thụy của Đức Phi nương nương.



Đi đến cổng, tên thái giám cung kính nói với hắn: “Đỗ đại nhân xin chờ trong giây lát, nô tài vào bẩm báo một tiếng.” Đỗ Văn Hạo được cung nữ mang trà đến hầu, được một lúc sau, tên thái giám đó quay lại, dẫn Đỗ Văn Hạo vào trong.



Trên một chiếc sạp mềm phía sau rèm che, có một người đang ngồi trên đó.



Đỗ Văn Hạo vội tiến tới, cúi mình thi lễ nói: “Vi thần Đỗ Văn Hạo, tham kiến Đức Phi nương nương.”



“Đỗ đại nhân vất vả quá, mời Đỗ đại nhân ngồi” Giọng nói của Đức Phi nương nương mềm mại bay vào lỗ tai của hắn, dễ nghe vô cùng.



“Tạ ơn nương nương!”



“Đỗ đại nhân. Đại nhân xem bệnh cho ta qua tấm rèm che này, liệu có được không?”



“Cái này, thực ra trong bốn kỹ năng nhìn, nghe, hỏi và bắt mạch, thì nhìn là quan trọng hơn cả, nếu như nhìn không tốt thì chẩn đoán sẽ không chuẩn xác.”



“Vậy thì kéo rèm lên.” Giọng Đức Phi nương nương mềm mại nói.



Cung nữ đứng ngay cạnh đấy liền vội vàng tiến đến kéo tấm rèm che lên.



Đỗ Văn Hạo hướng mắt nhìn lên, chỉ thấy Đức Phi nương nương chạc tầm ngoài hai mươi tuổi, khuôn mặt như hoa Phù Dung, lông mày lá liễu, làn da trắng hồng như phấn, răng trắng đẹp đều, cánh tay nõn nà mềm mại. Mái tóc đen dài vấn cao, khắp đầu cài rất nhiều chân châu, lấp lánh trông rất bắt mắt. Đức Phi nương nương bận một chiếc váy đào hồng, cổ áo viền hoa sen gấp khúc, lộ ra chiếc cổ trắng ngần, trên cổ còn đeo một chuỗi hạt chân châu màu hoa đào lóng lánh chói lọi. Đúng là làn thu thủy nét xuân xanh, làm cho hoa ghen thua thắm, tuyết nhường màu da.



Từ bề ngoài mà nói, thì vóc người của Đức Phi nương nương rất đẫy đà. Nhưng eo của nàng rất nhỏ, nếu như nàng mà bước đi thì chắc chắn chiếc hông nàng lắc sẽ rất đặc biệt. Chiếc eo nhỏ đó ẩn chứa biết bao trái tim rung động của đa số nam nhân khi được chiêm ngưỡng nó.



Đỗ Văn Hạo chỉ liếc nhìn một cái, rồi lại vội vã cúi đầu xuống, không dám nhìn lâu, sợ phạm tội vô lễ.



Giọng nói êm ái của Đức Phi nương nương: “Đỗ đại nhân, bổn cung rất xấu phải không? ”



Đỗ Văn Hạo giật thót mình, không biết Đức Phi nương nương nói câu này với dụng ý gì, càng không biết nên trả lời ra sao.



Đức Phi nương nương lại cười nói: “Ngươi ngẩng đầu lên, để bổn cung nhìn ngươi cái nào.”



Ối trời đất ơi! Lẽ nào Đức Phi nương nương muốn ngắm mặt mình sao? Hay là lại có âm mưu gì đó giống Thái Hoàng Thái Hậu? Người ta hay nói câu một lần bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng. Đỗ Văn Hạo vừa nghe cái giọng có tình ý như vậy, thì trong lòng đã thấp thỏm bất an. Hắn từ từ ngẩng đầu lên, bốn mắt nhìn nhau, hai người dường như có đôi chút sửng sốt.



Đức Phi nương nương bật cười, nụ cười giòn tan như muôn hoa đua nở: “ Ha ha ha. Trong cung đều tương truyền, nói có một tiểu sinh anh tuấn ở Thái Y Viện, là Thái Y Viện Viện Phán gì đó. Phụng chỉ vào hậu cung khám bệnh, bổn cung cũng thấy kỳ lạ, tuổi của mấy ông lão trong Thái Y Viện cộng lại cũng gần nghìn năm rồi, làm gì có tiểu sinh anh tuấn nào cơ chứ? Nên nghĩ rằng, mấy tiểu ny tử, thèm nam nhân quá, thèm đến hóa điên cả rồi, hôm nay gặp măt, quả nhiên danh bất hư truyền, ha ha ha. ”



Mặt của Đỗ Văn Hạo nóng bừng bừng như phát sốt, trong bụng thầm nghĩ, lẽ nào Đức Phi nương nương gọi hắn đến đây chỉ là để xem hắn có phải là cái tên tiểu sinh anh tuấn đó không hay sao? Tiểu sinh anh tuấn, lại còn danh bất hư truyền, từ trước tới giờ, đây là lần đầu tiên có người phụ nữ nói mình như vậy. Nói thế làm cho Đỗ Văn Hạo cũng có ý muốn cầm lấy gương đồng soi lại xem, hắn thật sự có được coi là anh tuấn hay không.



Đỗ Văn Hạo cúi người đáp: “Bẩm nương nương, xin được để vi thần khám bệnh cho nương nương.”



Đức Phi nương nương hé miệng cười nói: “Không vội! Đỗ đại nhân, đại nhân có biết rằng, bổn cung đã lâu chưa có khách đến đây không, bổn cung ngày nào cũng phải đối mặt với các cung nữ và thái giám, buồn chết đi được, hôm nay lại có một tiểu sinh anh tuấn như Đỗ đại nhân đến chơi, thảo nào mấy con chim hỷ tước cứ kêu chí cha chí chóe trên cành cây. Bổn cung đã dặn dò người ở bày tiệc rượu trong vườn hoa trong viện Vãn Quân rồi, mời Đỗ đại nhân cùng bổn cung đối ẩm vài chén, chờ tiệc rượu tan rồi mới khám bệnh, đại nhân thấy thế nào? ”



Đỗ Văn Hạo lấy làm kinh hãi, nữ nhân của Hoàng Thượng muốn uống rượu cùng mình? Nàng ta không phải thèm nam nhân đến phát cuồng rồi chứ? Hay là cũng say mê mình, tên thư sinh này rồi? Mẹ kiếp, ngồi tiếp rượu nữ nhân của Hoàng Thượng, việc này không ổn chút nào, nếu mà Hoàng Thượng mà biết tin, thì mình chết chắc rồi, từ chối lời mời này là thượng sách, nghĩ vậy Đỗ Văn Hạo bèn ấp úng nói: “Cái này...,Vi thần đa tạ ý tốt của nương nương, chỉ là vi thần còn phải đi khám bệnh cho Hoàng Thái Hậu nữa, nên thịnh tình của nương nương vi thần khó mà đáp lại.”



Đức Phi nương nương u sầu thở dài, não nề nói: “Ồ vậy sao! Cũng chả trách, Hoàng Thái Hậu tôn quý vô cùng, ta chỉ là một nữ nhân cô đơn nơi hậu cung bao năm vô phúc không được gặp Hoàng Thượng mà thôi, có ai còn để ý quan tâm đến một người thảm thương như ta nữa!” Nói xong Đức Phi nương nương đưa vạt áo lên che mặt, khóc thút thít, còn tay kia vẫy vẫy ra hiệu: “Ngươi đi đi.”



Đỗ Văn Hạo nghe thấy giọng Đức Phi nương nương thê lương như vậy, liền nhớ đến Tiêu công công từng nói đến chuyện Đức Phi nương nương bị thất sủng, nàng đã mấy năm rồi không gặp được Hoàng Thượng, chứ đừng nói đến chuyện được Hoàng Thượng yêu quý lại nữa, điều này đồng nghĩa là nàng đã làm quả phụ mấy năm nay rồi. Hậu cung mỹ nữ nhiều vô kể, Hoàng Thượng đêm nào cũng làm chú rể, bận không xuể, e rằng đã sớm quên vị Đức Phi nương nương này từ lâu rồi. Nghe Đức Phi nương nương than vãn thảm thương như vậy, Đỗ Văn Hạo cũng bất giác mủi lòng, nên nghĩ, cũng chỉ là uống rượu ở vườn thôi mà, cũng có phải trốn vào trong phòng làm chuyện bậy bạ gì đâu, có gì mà ghê gớm chứ! Đi! Đi uống rượu, sợ cái đếch gì!



Đỗ Văn Hạo nghĩ vậy, bèn cúi người đáp: “Đức Phi nương nương ưu đãi vi thần như vậy, thế nên cung kính không bằng tuân lệnh, vi thần xin tiếp nương nương uống vài chén.”



“Thật không?” Đức Phi nương nương bỏ vạt áo xuống, nước mắt đẫm nhòe hết đôi mắt phượng của nàng, nhưng vẫn ánh lên niềm vui sướng tột độ, “Thế còn Hoàng Thái Hậu nương nương thì ngươi tính sao?”



“Bẩm, bệnh của Hoàng Thái Hậu nương nương cũng không gấp lắm, nên vi thần tiếp rượu nương nương và xem bệnh cho nương nương xong rồi mới đi cũng không muộn.”



“Vậy thì tốt, chúng ta đi thôi.”



Đỗ Văn Hạo đi theo Đức Phi nương nương và chúng cung nữ thái giám đi ra khỏi tẩm cung, xuyên qua một cái lầu các và một hành lang ngoằn nghèo của lầu rồi đến một vườn hoa bên cạnh một cái hồ nhỏ. Nơi này hoa tươi nở rộ, Đức Phi nương nương đến một cái đình nhỏ bên cạnh hồ ngồi xuống, trên cái bàn trong cái đình nhỏ đó, đã bày sẵn những món cao lương mỹ vị rồi.



Có hoa, có nước, có món ăn ngon, có gió mát, có mỹ nhân ngồi tiếp, cho dù Đỗ Văn Hạo có ý ngồi tiếp rượu với Đức Phi nương nương, nhưng dù thế nào đi nữa nàng vẫn là vợ của Hoàng Thượng, không cẩn thận là cũng mất đầu như chơi, nên hắn cảm thấy không thoải mái được như ở ngoài. Hắn cũng chẳng có tâm trí tận hưởng cảnh đẹp, người đẹp, mà chỉ lo sợ mình nói gì sai đắc tội với mỹ nhân bị Hoàng Thượng thất sủng từ lâu này.



Nữ nhân sợ nhất là bị hắt hủi, lạnh nhạt nơi thâm cung lạnh lẽo này, chỉ có mỗi một trái tim cô độc vò võ nơi đây, thế nên đừng có dại mà đi đắc tội với họ, bởi vì bọn họ có thể bộc phát bất cứ lúc nào, gặp người giết người, gặp quỷ giết quỷ, gặp phật cũng giết nốt