Tiểu Thư Và Gia Phó - Tô Nhục Khúc Kì

Chương 50




Mùa xuân phía Nam đến sớm, Đào Tương và Cố Sơn đã trải qua hơn một tháng mùa đông trong hang động, khi thời gian bước sang tháng Ba, như thể chỉ trong một đêm liền đông qua xuân đến.

Băng trong dòng sông và tuyết trên ghềnh đá nhanh chóng tan chảy, bờ sông dần mọc lên những mầm cỏ xanh tươi mới, rừng cây vốn tĩnh lặng trơ trụi suốt mùa đông cũng bắt đầu xanh biếc, một khung cảnh tràn đầy sức sống.

Thịt heo và rau mùa đông trong hang đã tiêu thụ gần hết, gạo và các loại ngũ cốc thì còn lại nửa bao, nhưng không có món ăn kèm, ăn vào vẫn thấy quá đơn điệu.

Mùa xuân còn se lạnh, thời tiết vẫn còn mát mẻ, nhưng mỗi khi trời nắng đẹp, Cố Sơn thường dẫn Đào Tương ra ngoài đi dạo, vừa để vận động gân cốt, vừa đợi lái buôn đến làng để anh mua sắm.

Tương tự, những người dân trong Bản làng ven sông cũng không còn co đâu rụt cổ trong mùa đông, từng người mặc áo cũ, mang theo nông cụ ra khỏi nhà, có người xới đất trên ruộng bậc thang, có người chèo thuyền ra vùng đất hoang ở thượng nguồn để cày cấy.

Trong thôn làng ở nông thôn, đàn ông là lực lượng chính trong công việc nông nghiệp, đặc biệt là lúc này khi nông dân đang ở giai đoạn chuyển giao, đất trên núi đều phụ thuộc vào họ để cày xới cho mềm, thuận tiện cho việc gieo hạt và bón phân sau này.

Mỗi lần Đào Tương và Cố Sơn đi dạo trên bãi đá đã thu hẹp một nửa do nước dâng, vẫn luôn thấy bóng dáng người dân trong làng chèo thuyền qua lại, trong đó phần lớn là nam giới.

Người dân trong bản làng chăm chỉ chịu khó, chỉ vài ngày là đã dọn dẹp đất đai đông cứng trong ruộng gọn gàng, sau đó lại gieo hạt lúa, ngô và các loại lương thực chính đã được giữ lại từ năm trước.

Đối với người nghèo, lương thực có thể chắc bụng, trong khi rau củ chỉ là thứ thêm vào, Đào Tương và Cố Sơn cũng từ bỏ ý định mua rau từ những người dân trong làng.

Vào thời điểm này, người bán hàng quen thuộc lại chèo thuyền chở đầy hàng hóa đến Bản làng ven sông.

Đào Tương lần đầu tiên thấy con thuyền chở hàng từ bên ngoài, cô ôm bụng đã lớn hơn rất nhiều, chăm chú xem nhóm dân làng mua sắm, cuối cùng cũng tranh thủ lúc ít người tiến lên chọn vài món đồ mình thích trên boong thuyền.

Cố Sơn luôn bảo vệ bên cạnh cô, tách cô ra khỏi đám đông người dân trong làng.

Khi đến lượt Đào Tương chọn đồ, anh vừa đỡ cô, vừa thì thầm trao đổi với người bán hàng, tiếp tục hỏi han về tình hình ở huyện Quế.

Cố Sơn là khách hàng lớn, lại có vợ mang thai bên cạnh, nên người bán hàng rất nhiệt tình và đặc biệt nói nhiều hơn: “Aiz, đừng nhắc đến nữa, bây giờ trong thành phố càng hỗn loạn hơn, nghe nói bên ngoài lại có chiến tranh sắp xảy ra, mấy ông lính đang gấp rút đi tuyển quân đấy!”

Những người dân bản địa đứng gần đó cũng nghe thấy, không khỏi lo lắng: “Sao lại phải tuyển quân nữa?”

“Liệu có tuyển đến chúng ta không…”

“Chiến tranh này sẽ kéo dài đến bao giờ mới hết đây!”

Mọi người ồn ào bàn tán, không khí trở nên hỗn loạn không thôi.

“Ở đây thì không nên lo, chỉ cần đừng đi ra thành phố mà bị bắt là được.” Người bán hàng lớn tuổi vẫy tay, an ủi những người trong làng, “Hơn nữa, nếu thật sự có lính đến, các người chỉ cần trốn vào núi là ổn thôi!”

Bản làng ven sông gần nước cận núi, chỉ cần bước ra khỏi nhà đi lên đỉnh núi là đã có những dãy núi sâu thẳm, lúc đó chỉ cần chui vào rừng già, trốn một hai tuần, ra ngoài sẽ không có chuyện gì cả.

Đây quả thật là một cách hay, nhưng người trong làng vẫn không yên tâm.

Mọi người đứng trên bến nước, mỗi người một câu lo lắng về việc nếu trốn vào núi thì nhà cửa ruộng đất không thể di dời thì sẽ ra sao.

Đào Tương và Cố Sơn không phải là người ở đây, tài sản của họ đều ở trên thuyền, nếu không kịp rời đi bằng đường thủy, cũng có thể mang theo chiếc vali quý giá nhất để trốn vào núi, đợi khi mọi chuyện qua đi lại ra ngoài.

Với suy nghĩ này, hai người không lo lắng như những người dân xung quanh, trên thuyền đã chọn mua nhiều đồ cần thiết và trả tiền bằng đồng bạc.

Cố Sơn còn đặt với người bán hàng một số món ăn kèm, dù là dưa muối hay rau tươi, chỉ chờ lần sau giao hàng rồi thanh toán.

Sau khi mua sắm xong, Đào Tương và Cố Sơn không ở lại lâu trong đám đông, nhanh chóng mang theo một đống đồ đã mua và mấy tờ báo mới từ người bán hàng trở về hang động.

Trong hang đã có nhiều chỗ trống, củi đã dùng hết nửa, mấy giỏ đựng rau và thịt mùa đông cũng đã rỗng, chỉ còn lại một nửa bao gạo, bột mì và đậu.

Cố Sơn không nỡ thấy Đào Tương ăn cơm thô cả ngày, trong lòng suy tính muốn vào núi bắt một số động vật hoang dã hoặc hái ít rau dại, về cải thiện bữa ăn cho cô.

Tuy nhiên, anh chưa kịp tìm thời gian ra ngoài, bầu trời phía nam đã vang lên tiếng sấm rền, ngay sau đó mưa xuân quý giá như dầu bắt đầu tí tách rơi xuống.

Cơn mưa này đến thật đúng lúc, tưới tiêu cho những cánh đồng trong làng vừa được gieo hạt, giúp người dân không cần tốn công mỗi ngày mang nước đi tưới, có thể ở nhà nghỉ ngơi một chút để tích lũy sức lực.

Ngày mưa ẩm ướt khiến mọi thứ trở nên khó chịu, dòng nước trong sông lại dâng cao thêm một đoạn lớn, diện tích bãi bồi bị ngập càng nhiều hơn.

Cố Sơn lo lắng về mực nước sông dâng lên, không dám rời khỏi hang, luôn ở bên cạnh Đào Tương, thỉnh thoảng ra cửa hang quan sát tình hình nước dâng.

Còn Đào Tương thì thoải mái hơn nhiều, cô mặc đồ rộng rãi nhẹ nhàng nằm trong chiếc chăn mềm ở đầu thuyền, bên cạnh đống lửa trong hang luôn sáng rực, lười biếng đọc những tờ báo mới mà người bán hàng vừa mang đến.

Tin tức trên báo rất mới, có nhiều bài viết về tình hình kinh tế và đời sống của người dân cũng như sự hỗn loạn do chiến loạn từ đầu năm đến nay, trong đó nhiều nhất là về đồng kim viên bản đã từng rất phổ biến.

Đồng tiền mới là kim viên bản được phát hành chưa đầy nửa năm, giờ giá trị đã giảm sút, mệnh giá tiền giấy không ngừng tăng lên, từ ban đầu là một trăm đã lên đến một nghìn, một vạn và thậm chí cao hơn.

Cùng lúc đó, giá cả cũng tăng như ngựa hoang thoát cương, những người dân trước đây đã đổi hết tài sản còn lại thành kim viên bản giờ đây muốn tố cáo cũng không có chỗ, tài sản ít ỏi của họ gần như đã bốc hơi, cuộc sống trở nên cực kỳ khó khăn, uy tín của quốc khu đang trên bờ vực sụp đổ.