Cứ chiếu theo tính tình thường ngày của Cảnh Thiên, hắn tuyệt đối không nguyện ý ngồi thứ lắc lư như xe ngựa.
Trời sinh tính tình tự do phóng khoáng, lý tưởng giục ngựa giang sơn, thực thi anh hùng hiệp nghĩa, đích thị là mơ ước của Du Châu Cảnh Thiên. Trong thành Du Châu nghe người thuyết thư nói hắn mi phi sắc vũ, thần thái phi dương, khiến cho hắn một phen anh hùng mộng đẹp.
Nhưng mà, tính đến nay, Cảnh Thiên thất vọng rồi.
Hắn cùng Từ Trường Khanh vẫn là ngồi xe ngựa, mà nhét đầy cái lỗ tai hắn là tiếng trẻ sơ sinh khóc mãi không ngừng, mỗi ngày đều phải tự mình giúp hài tử đại tiện tiểu tiện, nhét cháo nhét cơm, khổ sở giày vò không sao kể hết… Cảnh Thiên nghĩ đến đoạn đường giang hồ còn lại dính chặt với tiểu oa nhi này, mơ mộng triệt để tiêu tan.
Cái gì trường kiếm thiên hạ, anh hùng hiệp nghĩa, hào khí can cảm… Toàn bộ đều là gạt người, người trong giang hồ cũng tránh không khỏi vướng bận quấn thân. Thậm chí có đôi khi, hắn nhìn thấy bên ngoài xe ngựa có người đi đường kêu cứu, tiếng cãi cọ không ngừng, Cảnh Thiên nhịn không được muốn nhảy xuống “xuất thủ” một phen, ngay lúc ấy kẻ vẫn đang nhắm mắt dưỡng thần đích thị Từ Trường Khanh lập tức tỉnh táo trở lại, mở mắt nói một câu: “Cảnh huynh đệ, chớ để tục trần tạp sự làm chậm trễ đại sự của chúng ta.”
Cảnh Thiên ngực bị đá đè.
Lão tử đây là bước chân vào giang hồ hay là ngồi tù a?
Được rồi.
Đi qua Tung Sơn, mắt thấy non sông mỹ cảnh như họa, Từ Trường Khanh ngươi làm như không thấy – Ta nhẫn!
Đi qua Nam Triệu, mắt thấy lầu Như Ý mỹ nữ như vân, Từ Trường Khanh ngươi làm như không thấy – Ta nhẫn nữa!
Xe qua Nhữ Dương, tai nghe giữa chợ tiếng người nháo hét không ngừng, Từ Trường Khanh ngươi cư nhiên có tai như điếc – Ta… Cảnh Thiên ta không nhẫn được thứ không thể nhẫn này!
Vì thế, Cảnh Thiên nổi giận đùng đùng vén rèm lên, nhảy khỏi xe ngựa, sau một lúc ôm về một đống đồ ăn vặt, lương khô, nước uống, tạp vật chất đầy xe, lúc này, oán khí bốc tận đỉnh đầu cuối cùng cũng tiêu thất. Hắn vừa cắn mấy hạt dưa vừa hát một tiểu khúc Du Châu, roi ngựa trong tay vung mạnh mấy phát, một đường đi tiếp.
Từ Trường Khanh vạch mành vải lên, vươn đầu ra ngoài nhắc nhở, “Cảnh huynh đệ, chúng ta đã chậm trễ hành trình, nhanh lên một chút…”
“Đậu Phụ Trắng, người là sắt cơm là thép, một khi thiếu ăn người sẽ oải. Ta là người, không phải cái gì Thục Sơn kiếm tiên kỳ hiệp, nếu đền miếu thiếu khói hương, thần tiên cũng sẽ phát hỏa. Huynh yên tâm đi, tiểu tử Thường Dận trông được Tần Vương, chẳng có chuyện gì đâu.”
“Sa trường thay đổi trong chớp mắt, chỉ cần sơ ý một chút sẽ gặp họa sát thân. Thường Dận tuy rằng pháp thuật, võ công đều là cao thủ nhất lưu, nhưng dù sao sức một người không chống được thiên đao vạn mã, nếu chúng ta không kịp thời tiếp ứng, sợ rằng sẽ có biến cố.”
Cảnh Thiên nghe đến đây, xua tay cười, “Đậu Phụ Trắng, huynh không phải dài dòng. Tần Vương là ai? Ta nghe người thuyết thư nói qua, hắn mười tám tuổi đã theo lão tử hắn khởi binh tại Sơn Tây Thái Nguyên, một đường chinh chiến, giết người nhiều hơn chúng ta ăn cơm nữa. Người ta chẳng phải vẫn êm đẹp sống đến bây giờ, trên người không một lỗ thủng hay sao? Huynh một ngày không nhìn thấy hắn, hắn cũng không đến nỗi thiếu đi một sợi tóc, tổn hại đến đại nghiệp Thục Sơn, thiên hạ an nguy của các người.”
Hai người đi thẳng về hướng Tây, đã gần đến dải đất Quan Trung bình nguyên, nhìn thấy ven đường vô số dân chúng lưu lạc, dìu dắt nhau mà kêu khóc. Những người này mặt mũi xanh xao, tinh thần uể oải, tình cảnh đáng thương vô cùng.
Màn đêm buông xuống, hoàng hôn nặng nề bao phủ thiên địa.
Xa xa là một tiểu trấn tan hoang, xe ngựa gần đi đến mới phát hiện đền thờ trước mặt viết mấy chữ, “Phục Ma Trấn”. Tuy rằng gần đến lúc lên đèn, nhưng thôn trấn vẫn lặng ngắt như tờ, không khí trầm lặng, toàn bộ con đường không thấy một bóng người, chỉ lác đác vài căn nhà nhỏ, thấp thoáng đèn dầu.
Can qua liêu lạc, chiến loạn chưa bình, thôn trấn đổ nát. Cảnh Thiên nhớ tới Du Châu thành nội Ba Sơn Thục Địa cảnh tượng phồn hoa, lại nhìn mảnh đất Trung Nguyên dân sinh khó khăn, tình hình thê thảm, thầm nghĩ, thầy đồ giảng “Một tướng công thành vạn cốt khô”, trong chiến họa tàn sát, đáng thương nhất vẫn là dân chúng.
Hắn đánh xe ngựa đến vùng đất trống ở phía Đông tiểu trấn, cùng Từ Trường Khanh xuống ngựa đi vào một quán trọ mang tên “Hối Phong”.
“Cút cút cút… Mau cút ra ngoài… hết người này đến người khác xin ăn, nói cho mấy người, chúng ta không phải nơi từ thiện, các người đến chỗ khác mà xin.”
“Lão bản à, xin ông thương xót, chúng ta một đường chạy nạn, sớm đã chẳng còn lộ phí, ông…” Một bà lão gầy yếu dắt theo hai cháu nhỏ, khép nép cầu xin tiểu nhị đang trừng mắt hầm hầm…
Hai bên vang lên vài tiếng nghị luận, “Ngươi xem trên tay bà ta còn có một chiếc Ngọc Ban Chỉ, vẫn có thể đổi lấy tiền, bà lão này có phần cứng nhắc quá!”
“Ai nha, người kia đâu phải lão bản, hắn chỉ là một tiểu nhị thôi. Mấy người cầu xin cũng vô dụng.”
Điếm tiểu nhị vung khăn mặt lên giục mấy bà cháu rời đi. Mắt thấy ba người họ đã ly khai, hắn mới quay ra nhiệt tình nghênh đón Cảnh Thiên, “Khách quan, ăn cơm hay nghỉ trọ?”
“Trời đã muộn thế này, đương nhiên là ở trọ. Mang ra đây ba suất ăn, mặt khác làm thêm một suất ăn chay ngon nhất, chuẩn bị một gian phòng.”
“Dạ! Ai nha, các ngươi thế nào lại vào nữa? Không phải vừa đuổi các ngươi ra rồi sao?” Nguyên lai ba bà cháu khi nãy lại rụt rè bước vào quán trọ.
“Chủ quán, là ta mời bọ họ vào!” Thanh âm Từ Trường Khanh từ cửa truyền đến, “Bữa cơm này ta mời họ, chắc sẽ không làm khó chủ quán chứ?”
Tiểu nhị quan sát Cảnh Thiên, Từ Trường Khanh, mắt thấy hai người khí độ ngay thẳng không giống tục nhân, không biết làm sao đành nói, “Tất nhiên là không!” Hắn vội vã lui xuống, miệng vẫn thán mấy câu, “Khách quan, Thái Lão Tam ta cũng không phải nhẫn tâm, chỉ là bây giờ loạn lạc lưu dân khắp nơi, ông chủ mở cái quán này cũng không dễ dàng, đâu có dư lương thực mà cấp cho những lưu dân này.”
Hai đứa trẻ có lẽ đói đến không chịu nổi nữa, ngấu nghiến ăn không để ý bất cứ thứ gì.
“Ăn từ từ, tất cả đều là của đệ, cẩn thận nghẹn…” Cảnh Thiên đẩy bát canh đến trước mặt hai đứa trẻ.
Lão phụ nhân tay run run cầm đôi đũa, gắp miếng rau chưa kịp đưa vào miệng, nước mắt đã cuồn cuộn chảy ra, “Nhị vị, các tôn tử ta không hiểu lễ nghĩa, chưa kịp hướng nhị vị nói lời cảm tạ, lão phụ tạ tội trước.”
Cảnh Thiên, Từ Trường Khanh hai người liếc mắt nhìn nhau, lòng đều nghĩ, bà lão này ăn nói tựa hồ không giống thôn phụ nơi thôn dã, chẳng lẽ là gia đạo sa sút nên mới lưu lạc đến đây?
“Ai, Ân huynh, huynh tuy rằng mất đi một phần gia nghiệp, nhưng giữ lại được tính mệnh của mình, cũng coi như là lão tổ tông phù hộ.” Bàn ăn gần cửa sổ, một bố y nam tử lưng đeo trường đao lên tiếng khuyên giải đồng bạn.
“Đúng vậy! Hầu huynh, thực không dám giấu, ta thấy sự việc không ổn nên đã sớm chuẩn bị chu đáo, nếu không, khẳng định hiện tại đã bị Đường quân vây khốn, chết trong thành Lạc Dương. Chỉ thương cảm cho cô cô cùng cô đa [dượng, chồng của cô] hiện đang chịu khổ trong thành, sống chết không rõ.” Nam tử dáng dấp thư sinh, thân khoác trường sam cẩm y đáp lại.
Cảnh Thiên nhìn thấy nam nhân mặc cẩm y được gọi là “Ân huynh” kia bất quá chỉ hơn hai mươi tuổi, thanh gầy nho nhã, dáng vẻ rất giống thư sinh, chỉ là nét mặt có vẻ sầu khổ. Mà nam tử thân đeo trường đao niên kỷ cũng không quá ba mươi.
“Ân huynh am hiểu sách vở, lại từ Lạc Dương mà đến, không biết với thiên hạ đại thế có kiến giải thế nào?”
“Trong trăm thứ, vô dụng nhất chính là thư sinh, Ân Kiệu ta thuộc kinh sử tử tập, mưu lược an bang trị quốc thì có tác dụng gì? Nay hỗn chiến khắp nơi, các phiến quân đều lấy việc luyện binh làm trọng, thiên hạ chiến loạn liên tục, bách tính có ngày nào an cư lạc nghiệp được đây? Ta kể có đầy bụng sách lược trị quốc cũng…” Thư sinh họ Ân liên tục lắc đầu, nhấp một chén rượu, chỉ cảm thấy miệng đầy cay đắng.
Nhưng bố y nam tử họ Hầu đối diện lên tiếng, “Lời Ân huynh nói ta không dám đồng ý. Xưa nay “loạn thế xuất anh hùng”, mà nay thiên hạ đại loạn, Lý Đường đại quân hùng cứ một phương, Hạ Vương Đậu Kiến Đức cát cứ Hà Bắc, Trịnh Đế Vương Thế Sung dong binh Lạc Dương, Đường, Hạ, Trịnh tạo thành thế chân vạc. Loạn thế như vậy có thể so với Xuân Thu Ngũ Phách, Chiến Quốc Thất Hùng phân tranh, chính là cơ hội cho ta giục ngựa kiến công lập nghiệp. Huynh tuy là văn nhân, nhưng kinh luân đầy bụng, tìm minh chủ phụ tá gánh lấy trách nhiệm, hà tất tự coi nhẹ mình?”
Hắn cảnh giác quan sát bốn phía, sau đó đè thấp giọng, “Hiện tại Lý Đường đại quân đang vây khốn Lạc Dương, nghe nói dẫn binh chính là nhị tử Lý Thế Dân, không bằng chúng ta dọc đường chiêu binh mãi mã, tìm đến ngài ấy.”
Ân Kiện sửng sốt, do dự một lúc lâu, “Cái này… cái này… để tiểu đệ cùng người nhà thương nghị mới quyết định sau…”
Bố y nam tử họ Hầu vỗ trường đao bên hông, “Còn thương nghị cái gì, tôn phu nhân trước nay đều là huynh nói gì nghe đấy, tuyệt không hai lời. Hơn nữa, dù nàng không đồng ý cũng không làm gì được. Ân huynh, làm ca ca ta phải nhắc nhở huynh, nữ nhân xưa nay đều là tóc dài kiến thức ngắn, thấy huynh muốn đi đầu quân, tự nhiên sẽ khóc sướt mướt luyến tiếc chia lìa, đến khi phong thê ấm tử, các nàng lại ngoan ngoãn vâng lời ngay. Hầu Quân Tập ta làm việc từ trước đến nay đều là một lời lập tức quyết định, đi, hay không đi?”
Cảnh Thiên quét mắt nhìn Hầu Quân Tập, dung sắc có phần anh tuấn, chỉ là cằm nhọn mâu sắc tối tăm, lời nói ra con ngươi chuyển động liên tục, cho thấy là người rất có tâm cơ.
“Cảnh huynh đệ, làm sao vậy?”
“Không có gì, ta đang nghe hai vị sát vách nghị luận đại sự thiên hạ.”
“Đại sự thiên hạ cùng tiểu dân chúng ta có quan hệ gì, ai làm hoàng đế chúng ta căn bản không cần để ý, chỉ cần thiên hạ bình an, dân chúng ăn đủ no ngủ đủ giấc. Đúng hay không, đạo trưởng?” Vị hán tử bên cạnh mặt ngăm đen, giọng khò khè, cười ha hả.
“Thành Lạc Dương phía trước đánh đến ngươi chết ta sống, đại quân Lý Đường vây Lạc Dương chật như nêm, bên trong thành sớm muộn gì cũng cạn kiệt lương thực. Đến lúc đó, bách tính chỉ có thể chết đói đầy thành. Ngươi nói bọn họ Trịnh Vương, Hạ Vương, Đường Vương tranh thiên hạ, tranh mãi không dứt, dân chúng khổ sở cũng không dứt.”
“Bà ơi, lúc nào mới hết chiến tranh? Con muốn về nhà, con muốn gặp lại cha mẹ…” Thanh âm non nớt vang lên.
“Bà ơi, con cũng muốn quay về Lạc Dương, con không thích chiến tranh.” Hai hài tử khóc lóc ầm ĩ.
Thấy hai đứa cháu càng kêu khóc càng lớn, bà lão cuống quít dỗ hài tử, “Đừng khóc đừng khóc, đừng làm phiền hai thúc thúc dùng bữa, chúng ta mau đi thôi.”
“Lão nhân gia, khoan đã, đây là một ít bạc vụn, các người cầm lấy đi…”
Bà lão nhìn Từ Trường Khanh, nét mặt tràn đầy cảm kích. Nhưng mà sau một khắc, bàn tay khô quắt như vỏ quýt của bà đẩy bạc trả lại Từ Trường Khanh, “Đạo trưởng, ngài cũng là phương ngoại chi nhân hóa duyên mà đến, không dễ dàng, lão nhân không thể lấy bạc của ngài.” Dừng một hơi, bà lão than thở, “Lão thân nguyên bản ở trong thành Lạc Dương, tuy không phải đại phú gia, nhưng cũng là gia cảnh sung túc. Con ta họ Hầu, tên Hầu Đại Văn, làm nghề rèn đồ trang sức, đời đời mở tiệm kim phô, mỗi ngày đều thoải mái tốt đẹp. Đáng tiếc, tiền triều chiến loạn, trong lúc chạy nạn nhi tử ta cùng vợ của nó đã thất lạc rồi, chỉ còn lão thân cùng hai tôn tử…”
“Lão nhân lắc đầu, kéo hai đứa bé tập tễnh ra ngoài.
“Lão nhân gia, chậm đã!” Hầu Quân Tập vội vã đứng dậy, đuổi theo mấy bước, “Đây là hảo ý của hai huynh đệ chúng ta, đừng từ chối nữa, xem chúng ta cùng là họ Hầu, ta liền mặt dày xưng đại thúc, cùng hai hài tử làm lễ gặp mặt.” Hắn trở lại bên cạnh bàn, Ân Kiệu rót cho hắn một chén trà, mặt đầy tán thưởng, “Hầu huynh quả nhiên nghĩa khí hơn người.”
“Đâu có đâu có.” Hầu Quân Tập không giấu được vài phân sảng khoái, miệng khước từ, “Gặp chuyện bất bình ra tay tương trợ là bản sắc anh hùng, không có gì đáng nói!” Hắn phảng phất nhớ tới cái gì, liền quay đầu về phía Từ Trường Khanh, ôm quyền nói, “Vị đạo trưởng này tuy là phương ngoại chi nhân, nhưng tâm lại lo nghĩ hồng trần, tiểu đệ cả gan thỉnh giáo đạo trưởng pháp hiệu là gì, thanh tu nơi nào?”
“Tại hạ ——”
“A, ta là Cảnh Thiên, y là bằng hữu của ta, tục gia họ Điền, tên Nhật Tinh, tu tại Ngọc Hư Quan. Ta nguyên cùng với song thân về thăm nhà, không ngờ họ trên đường nhiễm ôn dịch bất hạnh qua đời, chuyến này muốn thỉnh Điền đạo trưởng cúng bái hành lễ cho họ.” Cảnh Thiên thầm nghĩ, cha mẹ, không có biện pháp, đành phải ủy khuất hai vị đã chết dựng dậy một phen.
“Không biết nhị vị xưng hô thế nào?”
“Tại hạ Ân Kiệu, tự Khai Sơn, người Ung Châu!”
“Tại hạ Hầu Quân Tập, người Bân Châu Tam Thủy.”
“Hạnh hội! Hạnh hội!”
Điếm tiểu nhị thấy mấy người qua lại chào hỏi, đang chuẩn bị chạy lên lầu, lại đè thấp giọng cẩn thận nói, “Các khách quan, các vị đã đến Phục Ma Trấn chúng ta, cũng có quy củ trăm năm không thể không nói. Ở đây buổi tối không thể ra ngoài, phải đóng chặt cửa phòng, an an ổn ổn chờ đến hừng đông. Nếu chẳng may xen vào chuyện người khác, chọc giận Chung Quỳ Thiên Sư, chỉ sợ đại họa lâm đầu. Nói chung buổi tối vô luận phát sinh chuyện gì, nghe được bên ngoài động tĩnh gì, cũng nhớ kỹ không được đi ra.”
“Vì sao?”
“Ai nha, tiểu nhân cũng không biết.” Điếm tiểu nhị cười cười, “Nói chung, các vị khách quan cứ nghe ta. Trước đây có một khách quan không ngủ chạy ra ngoài xem náo nhiệt, kết quả… không trở về được nữa.”
“Xem náo nhiệt? Xem cái gì náo nhiệt?”
“Thú tân nương —” Tiểu nhị tựa hồ ý thức được điều gì liền ngậm miệng.
“Phi, thú tân nương thì có gì hay. À không, nửa đêm thú tân nương, phong tục quả nhiên đặc biệt.” Cảnh Thiên thầm nghĩ, một bên giục Từ Trường Khanh đi mau.
Nhưng Từ Trường Khanh dừng bước, xoay người hỏi, “Cảnh huynh đệ, huynh không nghĩ thôn trấn này có gì đặc biệt sao? Loại âm sát chi khí trầm lặng thế này…”
“Đừng nghĩ, chỉ là vắng vẻ một chút thôi. Thời buổi chiến loạn, huynh trông chờ nó đẹp như Du Châu sao? Thôi lên lầu nghỉ ngơi. Mệt chết rồi!”
Từ Trường Khanh nhìn bóng đêm ngoài cửa lần nữa, đưa tay đóng lại cửa phòng.
Chú thích:
1, Ân Kiệu (? – 622), tự Khai Sơn, người Kinh Triệu (Thiểm Tây ngày nay), là danh tướng Đường triều, một trong hai mươi bốn công thần được ghi danh trong Lăng Yên Các. Sau khi Cao Tổ khởi binh, ông giữ chức đại tướng quân, sau đó làm Bắc Đạo Nguyên Soái Trường Sử, chiêu an lưu dân Quan Trung, cùng với Lưu Hoằng Cơ công phá Trường An, được ban tước Trần Quận Công, ban Thừa tướng phủ, sau này theo Thái Tông bình định Tiết Nhân Cảo, Vương Thế Sung. Trong tác phẩm nổi tiếng “Tây Du Ký”, ông là đương triều Tể Tướng, coi trọng tài học của Trần Quang Nhị, hứa gả nữ nhi Ân Ôn Kiều. Ân Ôn Kiều sau này sinh được một người con, nhũ danh Gian Lưu Nhi, chính là Đường Tăng.
2, Hầu Quân Tập (? – 643), người Bân Châu Tam Thủy (Thiểm Tây ngày nay), danh tướng Đường triều, Bắc Chu Phiêu Kỵ đại tướng quân, một trong hai mươi bốn công thần được ghi danh trong Lăng Yên Các. Ông từ nhỏ vũ dũng hơn người, thời Tùy Mạt được Lý Thế Dân chiêu mộ, tác chiến có công, được phong Tả Ngu Hầu, Xa Kỵ Tướng Quân, trong sự biến Huyền Võ Môn, chính ông đã giúp Lý Thế Dân bày mưu tính kế. Sau khi Đường Thái Tông lên ngôi, ông được phong làm Hộ Quốc Công, Thiên Hữu Vệ Đại Tướng Quân, năm thứ 4 Trinh Quán (630), ông trở thành Binh Bộ Thượng Thư, giám sát Lại Bộ Thượng Thư, thực tế giống như Tể Tướng. Còn khá nhiều cột mốc quan trọng, chi tiết có thể xem tại
[3] Về cái tên Điền Nhật Tinh, có lẽ mọi người sẽ thắc mắc đây có phải nhân vật lịch sử không, tại sao Cảnh Thiên lại đổi tên của Trường Khanh làm gì? Kết quả là: Không phải. Cảnh Thiên sửa tên Khanh chỉ là muốn khẳng định quyền sở hữu mà thôi. Trong tiếng Trung, Điền Nhật Tinh đọc ngược lại sẽ gần giống Cảnh Thiên: Điền (田-tián) và Thiên (天-tiān), Tinh (菁-jīng) và Cảnh (景-jǐng), đồng thời trong chữ Cảnh (景) cũng có bộ Nhật (日), đó là xuất xứ của cái tên Điền Nhật Tinh =))