Thuận Thiên Kiếm - Rồng Không Đuôi

Chương 108: Hồi mười bốn (6)




Thế nhưng giữa đường, Lê Hổ lại hoành cương cho ngựa chạy ngoặt lên phương bắc



Lê Thận hỏi:



“ Muốn đi Thiên Trường phải đi về phương nam kia. ”



“ Không vội. Cách đây mấy canh giờ đi đường là cố đô Hoa Lư. Không đến một phen, bái lạy hai vị tiên hoàng để tỏ lòng thành kính thì thật uổng phí chuyến này lên Trường Yên. ”



Lê Hổ đáp, giục ngựa chạy nhanh hơn.



“ Nếu là đền thờ của bậc anh hùng như Cờ Lau Vạn Thắng Vương và Lê tiên vương thì mỗ cũng muốn đến viếng một chuyến. ”



Cố đô Hoa Lư xưa rộng cỡ tám mươi ba mẫu, bao gồm ba thành chính Thành Ngoại, Thành Nội và Thành Nam. Kinh đô bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ, khoảng trống giữa các sườn núi được dân ta xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó. Cao cỡ ba xích.



Hai người vào điện, thắp nhang khấn hai vị tiên hiền. Trước là dập đầu bái Cờ Lau Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh, sau lạy tiên vương Đánh Tống Bình Chiêm Lê Hoàn.



Lê Đại Hành vốn là đại tướng của Đinh Tiên Hoàng, thành thử Lê Hổ mới phải phân trước sau mà bái lạy, chứ không phải công ai cao công ai thấp.



Lê Hổ bước chậm, tay lướt lên từng viên gạch men cổ xưa bám đầy rêu phong tuế nguyệt mà khẽ thở dài.



“ Đây là nơi Cờ Lau Vạn Thắng Vương bắt đầu gây xựng nghiệp bá. ”



Lại nhìn sang núi Mã Yên ở xa xa, nói:



“ Tương truyền đấy là nơi Đinh Tiên Hoàng dùng làm án. Mới đó mà đã mấy trăm năm. Vật đổi sao dời, chỉ còn bóng ánh hùng là lưu lại nơi thành cổ mà thôi.”



Kinh thành Hoa Lư vốn dễ thủ khó công, địa thế phức tạ. Đặc biệt là khu thành phía Nam, dân gian vẫn hay gọi là thành Tràng An, thì càng đặc biệt hiểm trở.



Nhưng phàm là những nơi hiểm trở, thông thường sẽ khó bán buôn canh tác. Hoa Lư cũng không ngoại lệ.



Thành thử, vào cái thời buổi chiến hoả trùng trùng như hiện tại, nơi đây dần dần bị bỏ hoang đi. Lác đác dưới sông Hoàng Long đâu còn có mấy chục hộ, không mang cần kiếm sống thì xách rựa mưu sinh.



Lê Thận ngồi vắt vẻo trên lan can, hỏi với sang:



“ Này! Không lo cho anh bạn của cậu sao? ”



Lê Hổ đứng lên, phủi áo quần, nói:



“ Ngũ Thư ấy hả? Yên tâm. Anh ta không chết được đâu. Dầu gì cũng là con cháu của một trong Lục Bộ Đức Thánh, thừa kế Thư Hùng cổ kiếm kia mà. ”



“ Tức là cậu vốn dĩ không gấp đi cứu người, chỉ muốn thừa nước đục thả câu, mượn mỗ như Lưu Bị mượn Kinh Châu? ”



Lê Thận thừa biết cậu thiếu niên trước mặt hãy còn giấu y một chuyện rất hệ trọng.





Phạm Ngũ Thư cậu ta nhắc đến ắt hẳn đã có biện pháp đào tẩu trong tay, bằng không cậu ta sẽ không tự tin đến thế. Dù sao, quan tâm ắt loạn.



Sơn trang Bách Điểu dám truy cùng giết tận hậu nhân nhà họ Trần, chẳng lẽ còn ngại cháu mấy đời của danh tướng Phạm Ngũ Lão?



“ Anh có vẻ thích Tam Quốc nhỉ? ”



Lê Thận nhảy xuống khỏi lan can, nói:



“ Không hẳn. Lê Thận này không hợp với đại thuyết. Đạo lí thánh hiền gì gì đó mỗ đọc không hiểu gì cả. Trung thuyết, sử sách đọc thì hay đấy. Nhưng hơi nhàm chán.



Vẫn là tuồng dễ xem dễ hiểu nhất. Hồi bé, gần nhà mỗ có một gánh hát rong, hôm nào cũng hát tuồng Tam Quốc. Mỗ xem từ bé, xem đến thuộc làu làu luôn rồi. ”



Loạt xoạt. Loạt xoạt.




Lả tả rơi bước chân ai trên nền lá vàng giòn tan. Tiếng động bất chợt khiến hai người Lê Hổ, Lê Thận lập tức đề cao cảnh giác.



Trong khu thành cổ xưa hoang vắng này còn có người thứ ba.



Lê Hổ lần tay với chuôi đao.



Lê Thận mò vào áo nắm chặt ám khí Trầu Không, chỉ chực phát kình phóng đi.



Hai người chờ độ nửa khắc, thì thấy một gã ốm o lảo đảo lê bước đến gần. Tóc y dài và xơ xác, sổ tung xuống ngực áo đã rách nát như cái giẻ lau.



“ Anh bạn là ai?? Từ đâu tới?? ”



Không có tiếng trả lời.



Quái nhân cứ ngơ ngác như người mất hồn, ánh mắt tan rã dại ra vô thần. Y cứ lấy một bàn tay, kéo lê những móng tay két bẩn đen sì như một thói quen cố hữu.



Dưới ánh dương, gương mặt y hiện lên chằng chịt sẹo lớn sẹo nhỏ, sẹo mới sẹo cũ. Cơ hồ không tìm nổi một tấc da nào lành lặn trên mặt.



Miệng y không ngừng lẩm bẩm cái gì đó, Lê Thận ngưng thần nghe mãi mới được hai tiếng:



“ Xuân… con… ”



Lê Thận lặp lại câu hỏi ba lần mà không thấy y đáp gì, mới bắt đầu mất kiên nhẫn:



“ Trả lời đi! Nhà ngươi là người hay quỷ? ”



Cũng vẫn không có hồi âm. Quái nhân cứ như một cái xác biết đi, một thi thể vô hồn vậy. Gọi không nghe, hỏi không đáp. Y cứ lừng lững đi về phía đền thờ hai vị tiên hoàng.




“ Đứng lại! ”



Lê Thận nhíu mày, gằn giọng gắt.



Y cảm thấy mình bị quái nhân nọ coi thường.



Quái nhân vẫn mặc kệ y, cứ lừ lừ tiến tới.



Vút!



Ám khí quả cau rời khỏi tay, bắn thẳng về phía quái nhân. Đây vốn là thứ ám khí dùng để đả huyệt, không có cạnh sắc mũi nhọn. Lê Thận lại không có ý giết người nên cũng chẳng nhằm vào tử huyệt.



Y chỉ muốn dạy cho quái nhân một bài học.



Cốp!



Ám khí quả cau xẹt qua vành tai Lê Thận, đụng nứt một viên gạch lát.



Trong bàn tay quái nhân đã có thêm một thanh kiếm mẻ, lưỡi kiếm gãy đôi, khiến thanh binh khí đáng lẽ là một thanh kiếm dài nay trông chẳng khác gì một thanh đoản đao.



Lê Hổ bất giác giật mình.



Mười mấy năm trước, hồi còn bé tí, cậu đã thấy thanh kiếm này ở thành Thăng Long, nay vừa bị đổi tên thành Đông Quan.



Dù nay kiếm đã gãy, nhưng chỉ cần chưa bị nung thành nước thép, thì Lê Hổ mãi mãi không thể quên thanh kiếm ấy được.



Đó là kiếm Huyết Ẩm.




Còn chủ nhân của nó chẳng phải ai khác, chính là kẻ đã giết anh trai cậu, Lê Học.



Huyết Kiếm Thiên Công - Trần Đĩnh.



“ Trầnnnnnnn Đĩnhhhhhhhhh!!! ”



Lê Hổ hét lên, tuốt đao hằm hằm lao về phía quái nhân.



Lại kể chuyện đám người Tạng Cẩu nhận chỉ vào cung gặp Chu Đệ.



Gà hãy còn chưa cất cao tiếng gáy, mặt trời cũng chưa buồn nhô lên khỏi chân trời, thế nhưng ngày mới đã bắt đầu trong chốn cung rồng điện phượng. Đứng trên mái nhà nhìn ra, đâu đâu cũng bóng thái giám qua qua lại lại, nườm nượp cung nữ ra ra vào vào.



Trong mắt Tạng Cẩu, hoàng cung chẳng khác nào phiên chợ Tết lớn sắp họp. Khác biệt duy nhất là những con người đang tất bật ngược xuôi dưới kia chẳng có ý định bán mua trao đổi thứ gì.




Nhộn nhạo như một tổ kiến lớn.



Tạng Cẩu chặc lưỡi, từ bỏ hẳn cái ý định tự mình sục sạo cả hoàng cung nước người tìm kiếm manh mối liên quan tới trống cổ.



Tự nó ra sức tìm thì không biết mất mấy chục năm, bỏ sót bao nhiêu chỗ.



“ Từ hồi học được khinh công, đằng ấy thích leo lên nóc nhà ngồi thế nhỉ? ”



Hồ Phiêu Hương dùng khinh công leo lên mái, ngồi xuống cạnh Tạng Cẩu. Vài cơn gió sót lại từ ban đêm khẽ lướt qua, cuốn tung mái tóc cô bé lên.



“ Thoáng mà. ”



Tạng Cẩu nhún vai, cười khẽ.



“ Có mà thói quen lây của ai đó thì có. ”



“ Hả? Nói gì vậy? Không nghe rõ. ”



“ Không. Tớ nói đó là thói quen tốt đó mà. ”



Thầy của hai đứa cũng thích cái trò leo lên nóc nhà, rầm treo, hoặc chỗ cành cao mà ngồi vắt vẻo như thế này.



Bất tri bất giác, Tạng Cẩu đã phơn phớt dáng vẻ của một ông Quận con tự bao giờ.



“ Chăm chỉ luyện công đúng là có lợi. ”



Hai đứa nhóc ngồi cạnh nhau, cảm thụ hơi lạnh vấn vươn quấn quýt nơi đầu cơn gió. Ánh trăng khuya như vẫn còn vương lại nơi đầu ngọn cây, chờ đợi vầng dương của ngày mới.



“ Hương nghĩ mình nên bắt đầu từ đâu? ”



“ Ngự thư phòng đi… Chỗ đó là nơi tàng trữ sách quý của hoàng cung cả ngàn năm nay. Có lẽ sẽ tìm được sách vở manh mối liên quan tới ông tổ Khổng Lồ. ”



Nói rồi, cô bé lại tìm đường trèo xuống:



“ Nhưng trước hết vẫn phải vào cung trước đã. Tớ muốn xem xem, cái tên Minh thành tổ Chu Đệ hung danh vang lừng bốn bể kia rốt cuộc có ba đầu sáu tay hay không. ”



Tạng Cẩu không đáp, nhưng vẫn quyết định sẽ cùng vào gặp Chu Đệ.



Nó cũng rất tò mò muốn biết hoàng đế Trung Hoa là hạng người thế nào.