Thư Kiếm Ân Cừu Lục

Chương 1




Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,Xếp bút nghiên theo việc đao cung.Thành liên mong tiến bệ rồng,Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời.Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao...Mấy câu thơ này mở đầu cuốn “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn thị Điểm làm nổi bật lên cái chí khí của khách nam nhi coi thường cái chết nơi chốn sa trường để trả nợ núi sông. Thanh gươm yên ngựa là phận sự của “đấng mày râu” đáp lời sông núi...Một cụ già đã 60, tinh thần quắc thước, khí vũ hiên ngang ngồi trên lưng ngựa cảm khái ngâm nga. Tiếng cụ vang dội lên sang sảng, không ai ngờ đó là thanh âm của một cụ già râu tóc bạc phơ giữa một buổi chiều tà bóng xế.Mải nhìn xem bốn phía, cụ bỗng giựt mình sực nhớ ra bóng chiều đã phủ trên ngọn cỏ, tàn cây.Con đường ra quan ải còn xa biền biệt. Ngoại trừ đại đội quân mã và gia nhân quyến thuộc của cụ ra, lâu lâu mới thấy có vài ba bầy quạ lạnh lùng kéo đàn bay về ổ cũ kêu lên những tiếng thê lương.Lắng tai không còn nghe tiếng vó ngựa nhịp nhàng vang trên đường gồ ghề khúc khuỷu, cụ già vội vã giơ roi quất nhẹ vào hông con chiến mã. Con vật sãi bốn vó đều đặn như bay rút lẹ khoảng đường trước mặt để bắt theo cho kịp mé trước tách xa rời. Cụ già bận lo nghĩ việc nước rối beng đến nỗi quên nhớ rằng mình tuổi hạt đã cao, sức lực đã kém. Bóng chiều đã dần đưa con đường tranh đấu củ cụ đến lúc gối mỏi, chân chồn... Nên cụ rơi bị lại đàng sau một mình mà không hay biết.Lúc ấy, bên Trung Hoa thuộc nhà Thanh, vào đời vua Càn Long thứ 23. Bên Việt Nam nhằm triều Tây Sơn Quang Trung Nguyễn Huệ. Trời vào giữa tiết thu lạnh lẽo. Cụ già vừa kể trên chính là Lý Khả Tú vừa được phong chức An Biên tướng quân. Lý tướng quân mang trong mình hai giòng máu, cha Trung Hoa, mẹ Việt Nam, nên khác hẳn với các danh nhân thời ấy. Ông có hai tổ quốc phải phụng thờ. Phong tục của người Trung Hoa chỉ xem trọng bên nội mà khinh bên ngoại. Nhưng Lý Khả Tú không nghĩ vậy. Ông cho rằng bổn phận làm người phải xem trọng cả hai bên nội, ngoại như nhau. Vả lại, Lý tướng quân có ở Việt Nam mấy năm nên ít nhiều cũng có ảnh hưởng Việt Nam được vài phần. Ông thích văn chương Việt Nam nên những áng văn chương tuyệt tác của Việt Nam đều thuộc lòng. Nhờ công lao giữ vững được biên cương lại hòa hiếu được với vua Quang Trung ở Việt Nam nên Lý Khả Tú được Thanh đế Càn Long phong cho hầu tước, đổi ra trấn nhiệm tỉnh Triết Giang.Lý Khả Tú không xa lạ gì với việc xông pha trận mạc. Sau lần đánh dẹp được bộ lạc Hồi nổi dậy, ông ta vang danh, dội như cồn. Khi được lệnh đổi đi Triết Giang, Lý Khả Tú cho gia quyến đi sau, có quân, có tướng đi “tiền hô hậu ủng”, còn ông ta thì chọn một toán quân khinh kỵ đi trưóc.Công danh lừng lẫy. Tiền bạc đầy kho... Châu báu ngọc ngà tích trữ không biết bao nhiêu mà kể! Chỉ hiềm một nỗi là Lý Khả Tú hiếm hoi, không có con trai mà chỉ sinh được một mụn con gái duy nhất. Ông đặt cho nàng một cái tên rất đẹp là Lý Mộng Ngọc. Nàng sinh ở Cương Tây. Lúc ấy, cha nàng chỉ mới làm Phó tướng quân. Mẹ nàng nằm chiêm bao thấy nuốt vào bụng một viên ngọc, cho là điềm tốt nên mới lấy đó để đặt tên cho con gái.Lý Khả Tú hết lòng thương yêu, nâng niu, quý con gái mình có thể nói là hơn tất cả các thứ trân châu bảo ngọc trên trần gian này.Lý Mộng Ngọc năm ấy vừa được mười chín cái xuân xanh. Nàng xinh đẹp chẳng khác gì một Tố Nữ trong tranh, duyên dáng như một đóa hoa Tường Vi mới nở, có phong độ “gần tiên khác tục”. Là con một võ tướng nhưng trông nàng chẳng chút nào gọi là võ biền cả.Thấy con gái càng lớn càng xinh đẹp. Lý Khả Tú lại càng cưng chiều, thậm chí chẳng bao giờ la rầy quở trách điều gì bao giờ, luôn luôn chiều theo ý muốn của nàng.Nói về dung mạo, Lý Mộng Ngọc giống mẹ như khuôn đúc, nhưng nói về tính tình thì lại giống cha như rập in. Bất cứ lúc nào cha nàng ra giáo trường cỡi ngựa bắn cung, thao luyện võ nghệ là luôn luôn có nàng theo sát một bên. Thấy con ưa thích cõ nghệ, đôi khi Lý Khả Tú cũng cao hứng chỉ dạy cho ít đường đao, mấy ngón thương gia truyền, đồng thời còn bảo các tùy tướng dưới trước ông ta chỉ dạy cho nàng bất cứ ngón nào nàng thích học hay muốn học.Được chủ soái “ban” cho hân hạnh đó, các bộ tướng và đám tùy tùng dĩ nhiên ai lại chẳng không hết lòng? Ai nấy đều đem hết tuyệt kỹ của mình ra tận tình chỉ bảo con gái chủ tướng mình. Nhờ vậy, đến năm 13 tuổi, Lý Mộng Ngọc đã tinh thông võ nghệ. Một thân gái nàng địch nổi cả chục người trai tráng là chuyện thường, không có gì cho ai phải ngạc nhiên cả.Tại võ trường, Lý Khả Tú đã chứng kiến không biết bao nhiêu lần con gái mình khi tỉ thí đánh rớt kiếm, đao, thương của các thuộc tướng. Mỗi lần thế, ông ta chỉ làm bộ rầy la các tướng kém cỏi, nhưng trong thâm tâm lại hết sức vui mừng là họ đã tận tâm tận lực chỉ dạy cho con gái mình đến nơi đến chốn để đến nỗi chính bản thân họ phải bại dưới tay một thiếu nữ bé nhỏ, con của chủ tướng mình. Lý Khả Tú thường rất lấy làm đắc ý, nhưng lại nghĩ thầm rằng :- “Có một đứa con gái tài giỏi như thế này thật là phúc đức ông bà để lại. Chỉ tiếc là nó không phải con trai!”Bắt đầu năm Lý Mộng Ngọc được 14 tuổi, bỗng nhiên không ai còn thấy Lý Mộng Ngọc thức dậy sớm ra võ trường luyện tập như thường khi nữa. Lý Khả Tú cho là con gái đã lớn rồi nên chẳng còn muốn nàng trà trộn trong hàng tướng sĩ của mình nữa. Nhưng Lý Mộng Ngọc cũng không lấy thế làm buồn.Trong mấy năm khổ luyện, Lý Mộng Ngọc đã có được công phu thượng thừa. Sư phụ của nàng là Lục Phỉ Thanh, một bậc tiền bối trong phái Võ Đang, tài nghệ nhất nhì trong chốn võ lâm. Sở dĩ Lý Mộng Ngọc được Lục Phỉ Thanh nhận làm đệ tử và truyền cho những môn võ tuyệt kỹ là do một sự tình cờ rất lạ lùng...Năm Càn Long thứ 18, Lý Khả Tú có rước được một vị đồ nho với mục đích dạy con gái mình ít chữ nghĩa vì từ nhỏ cô nàng chỉ ham côn quyền mà chẳng chút màng gì đến bút nghiên. Vị đồ nho này tài cao học rộng, tên là Lục Phỉ Thanh. Ngày thường, Lục Phỉ Thanh và Lý Mộng Ngọc “sư đệ tương kính”, thầy trò rất tương đắc, quý mến thương yêu nhau lắm.Một hôm vào mùa hè nóng bức oi ả, Lý Mộng Ngọc đang ngủ trưa bỗng giật mình tỉnh giấc liền qua thư phòng Lục Phỉ Thanh để nghe giảng, học ít kinh điển. Nàng lắng tai nghe thì thấy bên trong rất im lìm, không có lấy một tiếng động nhỏ. Sợ thầy còn đang ngủ trưa nên Lý Mộng Ngọc không dám vào thẳng thư phòng, e có điều bất tiện. Nàng đến gần cửa sổ, lấy cây trâm bằng vàng trên đầu chọc thủng một lỗ nhìn vào. Chẳng ngờ sau khi nhìn rõ được bên trong, nàng vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vô cùng.Lục Phỉ Thanh ngồi thiền trên ghế, miệng mỉm cười, tay đưa lên giữa thinh không khẽ búng một cái. Trên tấm bảng treo sát vào tường có tiếng “vo ve” nho nhỏ từ đâu đưa lại. Lý Mộng Ngọc cứ theo tiếng kêu đó mà trố mắt chăm chỉ nhìn thật kỹ thì thấy trên tấm bảng đối diện với cái ghế của Lục lão sư đương ngồi có mấy chục con ruồi sắp hàng chỉnh tề. Nàng rất lấy làm lạ vì mấy chục con ruồi ấy một khi bay đậu vào tấm bảng ấy thì như bị dính liền vào đó, không động đậy gì được cả. Kỳ lạ hơn nữa là chúng như xếp hàng ngay ngắn giống như lúc nàng trông thấy quân sĩ bày trận thế hay duyệt binh tại võ trường. Mà hình như trên lưng mỗi con ruồi đều có găm một cọng kim châm nhỏ như sợi tóc vậy. Loại kim châm nhỏ bé này nếu đứng xa hơn một chút ắt không thể nào trông thấy được. Chỉ vì lúc ấy vào giờ Mùi giữa trưa, nhờ ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ rọi ngay vào tấm bảng ấy nên những kim châm mới lấp lóe phản chiếu lại, và nhờ vậy cho nên Lý Mộng Ngọc mới nhìn thấy được.Bầy ruồi vẫn cất tiếng “o o” trên bảng. Lại thấy Lục Phỉ Thanh búng tay thêm một cái, một con ruồi khác đang bay lập tức dính liền vào bảng, nhập bọn và chịu chung số phận như những con kia.Tánh trẻ con của Lý Mộng Ngọc bừng dậy mãnh liệt. Nàng cho “trò chơi” này thích thú cô cùng. Không còn nhẫn nại đứng rình lén bên song cửa sổ nữa, Lý Mộng Ngọc xô mạnh cánh cửa, bước vào trong nói lớn :- Lục lão sư! Thầy hãy dạy cho con phép đó nhé!Lục Phỉ Thanh ẩn tánh mai danh ở Hiệp Tây mấy năm nay không muốn ai phát giác hành tung bí mật của mình. Chỉ vì bầy ruồi ác ôn quá đông tác quái trong thư phòng làm cho ông không sao nghỉ trưa được nên bất đắc dĩ phải dùng ngón “Phù Dung kim châm tuyệt kỹ” để trừ hết đám ruồi. Tưởng công việc ấy “thần không hay quỷ không biết”, cho rằng hôm sau ông sẽ được an nhàn trong giấc trưa mà không bị một con ruồi nào quấy rầy nữa. Ngờ đâu đứa nữ đệ tử ranh mãnh của ông ta vô tình đến rình ngoài cửa thành thử bí mật bị lộ ra. Tuy vậy, Lục Phỉ Thanh vẫn giữ nét mặt tự nhiên, nói lảng sang chuyện khác.- Con đã thức dậy rồi đó à? Bữa nay thầy sẽ giảng cho con nghe chuyện Tín Lăng Quân trong Sử Ký Tư mã Thiên.Lý Mộng Ngọc nũng nịu thưa :- Không! Thầy dạy trò chơi đó cho con trước đi rồi hãy dạy sách vở sau. Con thích cái trò chơi ấy lắm.Lục Phỉ Thanh giả ngơ ngẩn nói :- Nào có trò chơi gì đâu!Lý Mộng Ngọc mới nói :- Cái phép bắt ruồi của thầy ấy mà.Nàng vừa nói vừa xách một cái ghế đẩu đem lại đặt sát chỗ vách có tấm bảng rồi tung mình nhảy lên đứng trên đó xem xét hết sức tỉ mỉ. Sau đó, nàng lấy tay rút từng cọng kim châm trên lưng mỗi con ruồi đem xuống, dùng giấy trắng lau sạch sẽ hết mấy cọng kim châm đó kỹ lưỡng rồi mới trả lại cho Lục Phỉ Thanh. Nàng làm thế cũng giống như trưng bằng cớ rõ rệt để sư phụ không còn chối cãi được nữa, tất phải dạy cho nàng thôi.Tuổi của Lý Mộng Ngọc thì chắc chắn chưa phải là lớn. Nhưng nàng cũng không phải là nhỏ. Dù học được võ nghệ cao siêu, văn chương uyên bác, nhưng vẫn giữ được tính trẻ con hồn nhiên. Hễ thấy có gì vui, hay hay thì trước sau phải muốn học cho kỳ được.Trước sự “vòi vĩnh” của Mộng Ngọc, Lục Phỉ Thanh cảm thấy bằng lòng thì không được mà từ chối thì không xong nên chỉ còn im lặng làm thinh ra chiều đắn đo suy nghĩ. Lục Phỉ Thanh là người cơ mưu. Xưa nay dù gặp việc khó khăn thế nào cũng giải quyết được hết.Suốt 15 năm trời, cuộc đời của ông ta trải qua không biết bao nhiêu là sóng to gió lớn nhưng ông đều vượt qua được hết. Thế mà hôm nay, đứng trước lời yêu cầu tầm thường của đứa học trò mến yêu ranh mãnh, ông ta lại đành chịu bó tay!Trầm ngâm giây lát, Lục Phỉ Thanh bảo :- Con muốn học phép ấy lắm sao? Tốt, sáng sớm ngày mai thầy sẽ dạy cho. Con cứ ra ngoài chơi để thầy nghỉ mệt một lát vì thầy thấy trong mình khó thở. Có điều là thầy phải dặn trước với con là không được đem chuyện thầy bắt ruồi ra nói với bất cứ một ai. Nếu có thêm một người nữa biết thì thầy không dạy đâu đó nghe!Lý Mộng Ngọc vui mừng hớn hở nên hứa với Lục Phỉ Thanh ngay, không do dự.Nguyên Lục Phỉ Thanh vốn là một tay đại hiệp của phái Võ Đang. Buổi tráng niên, ông thường đi làm việc nghĩa hiệp khắp mấy tỉnh tại vùng Giang Nam và Giang Bắc, tên tuổi lừng lẫy trong giới giang hồ. Trước đây, Lục Phỉ Thanh là một nhân vật trung kiên cự phách của đảng Đồ Long, một tổ chức bí mật chống đối lại triều đình Mãn Thanh. Vào thời vua Ung Chính, thanh thế của đảng Đồ Long rất lớn mạnh, triều đình tưởng là không thể nào diệt trừ nổi. Sau thời Ung Chính đến thời Càn Long. Nhờ thi hành chính sách đàn áp thẳng tay gọi là “Thiết Uyển Trấn Yểm”, đảng Đồ Long dần dần tan rã.Các nhân vật lãnh tụ đầu não của đảng thì lớp chết, lớp bị bắt, lớp chạy trốn lánh nạn tản mác đi khắp nơi. Lục Phỉ Thanh may mắn chạy thoát được cạm bẫy của vua Càn Long bủa giăng chặt chẽ ra tận ngoài biên cương.Quan binh Mãn Thanh biết họ Lục là một thủ lãnh nguy hiểm không thể bỏ lơ được nên phái người truy nã Lục Phỉ Thanh gắt gao cùng nơi khắp chốn. Lục Phỉ Thanh là người hết sức cẩn thận lại nhiều cơ mưu, và thêm vào đó lại có võ công tuyệt đỉnh nên mới tránh được đại nạn. Tuy vậy, triều đình Mãn Thanh chẳng lúc nào không lưu tâm đến con người này. Lục Phỉ Thanh cho rằng người đi lánh nạn có ba chỗ tạm gọi là an thân hơn cả.Chỗ an thân hơn hết là trốn trong triều. Chỗ an thân kế đến là trốn trong chợ. Và sau cùng, chỗ an thân thứ ba là trốn trong làng mạc, đồng quê.Với ý định như vậy, Lục Phỉ Thanh lần hồi trở về nộ địa tìm đến dinh Lý Khả Tú là một vị quan có uy tín, có thế lực vào bậc nhất của triều đình đẻ giả làm một vị đồ nho dạy thi văn từ phú cho ái nữ của Lý tướng quân là Lý Mộng Ngọc, lại ăn ở ngay trong công phủ, tư dinh của một vị đại tướng quân nên chẳng sợ ai nghi ngờ dọ dẫm chi cả.Những người của triểu đình phái đi truy tầm tróc nã Lục Phỉ Thanh luôn luôn chia nhau tìm kiếm ông ta trong những đám lục lâm, trong các chùa chiền, trong các tiêu cục, trong các võ trường và luôn cả trong chốn võ lâm.Chẳng ai ngờ rằng con người lợi hại ấy lại là một cụ đồ nho áo dài, khăn đen, móng tay lượt thượt, đôi mắt leo heo, miệng ngâm vẽ nhịp, có vẻ yếu ớt như trói gà không chặt, đang sống một cuộc đời bình thản trong phủ của một vị tướng quân được triều đình sủng ái!Người khâm phạm có một bản lãnh võ nghệ trác tuyệt như thế chẳng cần trốn lánh đâu xa, hàng ngay ra vào ngay trước mặt quan quyền, và suốt mấy năm nay qua mặt hết được bọn tay sai đắc lực của vua Càn Long.Lục Phỉ Thanh còn hai người anh em đồng môn là đại sư huynh Mã Chân và tam sư đệ Trương Siêu Trọng. Lục Phỉ Thanh đứng hàng thứ hai.Mã Chân là Chưởng môn nhân phái Võ Đang, thích cảnh thiên nhiên mây ngàn hạc nội nên không mấy chú ý đến thế sự, luôn cả việc của môn phái.Trương Siêu Trọng tuổi trẻ, đầy nghị lực nên lúc thọ giáo được sư phụ tâng tiu, mến chuộng hơn cả hai sư huynh. Bao nhiêu tuyệt kỹ của phái Võ Đang, sư phụ đều đem truyền hết lại cho người đệ tử thứ ba này.Còn Lục Phỉ Thanh thì chẳng những học được tất cả những thế võ bí truyền của môn phái để trở thành một nhân vật siêu quần, lại còn là một tay văn chương xuất chúng, ngâm thơ Liễu Như, vịnh phú Đào Yêu, học lực và kiến thức uyên bác vô cùng. Ngoài ra, con người của ông ta còn hết sức lịch lãm về mọi mặt. Có lẽ đó là nhờ vào kinh nghiệm xông xáo trên giang hồ suốt mấy chục năm trời.Trong thời gian hành hiệp, Lục Phỉ Thanh còn thâu thập được không biết bao nhiêu là tuyệt kỹ võ công của những môn phái khác: “Vô Cực huyền công quyền”, “Phù Dung châm pháp” và “Nhu Vân kiếm”. Ba môn này khét tiếng, được gọi là “Giang Hồ Tam Tuyệt Kỹ”.Còn nói bề ba cao đồ của phái Võ Đang thì chí hướng họ khác hẳn nhau. Mã Chân chỉ thích tiêu dao mây nước, kết bạn hạt tùng. Lục Phỉ Thanh thích hành hiệp trượng nghĩa, đem tài sức giúp đời, giúp người cô thế chống lại bạo tàn. Còn Trương Siêu Trọng thì nặng nợ công danh, ràng buộc phú quý, đành đem “tấm thân bảy thước ngang tàng” luồn cúi quyền uy, được phong quan Tam phẩm.Năm trước, Lục Phỉ Thanh với Trương Siêu Trọng đã dùng gươm vạch đất tuyệt giao với nhau. Hai người ân nghĩa đều cắt đứt hết, chẳng ai nhìn ai nữa, trái lại còn xem nhau như thù địch, không đội trời chung...Nhắc lại Lý Mộng Ngọc, hôm ấy được Lục lão sư hứa dạy cho “trò chơi” ấy thì rất hân hoan, kín miệng không nói cho ai biết cả.Sáng hôm sau, Lý Mộng Ngọc thức dậy thật sớm đến thư phòng của sư phụ. Đẩy cửa vào trong thì thấy vắng tênh, không có một ai, chỉ thấy trên bàn viết của thầy có dán một tờ giấy. Đó là một bức thư. Mộng Ngọc cầm lên đọc :Mộng Ngọc con,Thầy vẫn biết con là một đứa học trò giỏi sử đao gươm, bút múa như phụng, nghe tiếng đàn hiểu được đường tơ. Tâm con thật “linh”, tánh con thật “mẫn”, thật là người hiếm có vậy. Thầy có được một đứa học trò như con tưởng không có gì vui mừng và hãnh diện hơn. Chỉ tiếc là con có chí lớn mà thầy thì tài mọn nên suốt ba năm lãnh nhận trách nhiệm dạy dỗ con, thầy rất lấy làm xấu hổ vì không đem đến được cho con những điều học nào hữu ích được cả.Tình thầy trò chúng ta đến đây đã hết
data-ad-slot="8346126209">