Thiên Văn

Chương 9: Lại một người nữa mất tích




Chỉnghe thấy “xoạch” một tiếng, bả vai phải rung lên, một vật cứng sắc nhọn đâm mạnh,tiếp đó là cảm giác đau thấu tim. Tôi đã bị trúng một nhát dao.

Tôikêu lên một tiếng, tay trái bám chặt lấy lan can, nhảy lên phía trên. Chỗ xươngcốt bị lưỡi dao phạm phải, không ngừng kêu răng rắc.

Vừara khỏi cửa cầu thang, một cơn gió mạnh cuốn theo những hạt tuyết tạt thẳng vàomũi tôi, gần như không thở nổi, vô cùng khó chịu. Tôi vội quay người lại, hovài tiếng, day day mũi rồi dựng cổ áo jacket cho đỡ lạnh, tiện đà đánh mắt nhìnlên trên.

Chợttôi nhìn thấy một bóng người đứng trước cửa sổ nhà ông Từ, đầu nghiêng nghiêng,hai tay bám vào song cửa, đang dán mắt nhìn theo tôi. Ánh sáng trắng hắt ra từsau lưng khiến dáng người hiện lên mờ tối, trông hệt như một bức tranh thủy mặc.Do khoảng cách xa nên tôi không nhìn rõ mặt, nhưng nhìn hình dáng thì đúng làông Từ. Có lẽ do phát hiện ra tôi quay đầu lại nhìn, hai tay ông vội kéo tấmrèm cửa lại, quay người bước đi, sau đó ánh đèn cũng vụt tắt.

Tôingây người đứng nhìn một lúc, sau đó lắc đầu quay đi, từ từ rời khỏi khu chungcư đang chìm trong gió tuyết.

Lúcđó đúng mười một rưỡi đêm, trời tối đen, tuyết ngày càng dày, nhưng gió đã nhẹhơn. Đường phố vắng tanh vắng ngắt, không một bóng người hay xe cộ.

Tâmtrạng rối bời, tôi không muốn bắt xe mà vừa khoanh tay ôm hai vai chậm rãi bướctừng bước trên vỉa hè vừa ngẫm nghĩ lại những lời nói ban nãy của ông Từ. Bêntai ngoài tiếng tuyết rơi, bốn bề đều vô cùng yên tĩnh.

Ánhđèn đường trên đỉnh đầu hắt xuống yếu ớt, khắp nơi đều một màu vàng ảm đạm, tuyếtlớn làm giảm bớt tầm nhìn, khiến khung cảnh phía xa mờ mờ ảo ảo. Dưới chân, tiếnglớp tuyết bị giẫm vỡ kêu lạo xạo, trong đầu cũng không một phút thảnh thơi, cứtưởng lần này sẽ có thêm thu hoạch, không ngờ lại thêm một mớ nghi hoặc vào đầu.

Nhữngbông tuyết to bằng móng tay cứ thế rơi vào đầu, vào mặt, vào áo jacket, rồi lạinhanh chóng tan đi. Càng đi, tôi càng thấy lạnh, cơ thể như bị đóng băng, ngónchân vừa tê vừa đau, không chịu nổi nữa, tôi liền dừng lại, định gọi chiếctaxi. Thế nhưng đúng giây phút dừng bước, tôi đột nhiên nghe thấy một tiếng độngnhỏ rất lạ.

Tiếngđộng phát ra từ sau lưng, cực ngắn và nhỏ, như thể dừng lại theo đúng nhịp bướcchân tôi. Trong thoáng chốc, tôi đã xác định được nguồn gốc của tiếng động.

Đókhông chỉ là tiếng động được phát ra do bước chân người giẫm lên tuyết, mà cònlà âm thanh phát ra khi chân đã chạm hẳn xuống, sau đó lập tức dừng phắt lại.

Timtôi đập loạn xạ, tâm trí cực kỳ hoảng hốt khi phát hiện ra có kẻ theo dõi!

Vốndĩ phản xạ đầu tiên phải là quay đầu lại, nhưng tôi lập tức dừng ngay lại,trong đầu suy luận rất nhanh: Là ai chứ? Là lính đặc công do Bộ Công an cửtheo? Không, không thể nào, họ chỉ phụ trách bảo vệ Tiểu Đường, tôi chẳng qualà đối tượng ăn theo, nếu không phải họ, thì chắc chắn đó là hung thủ giấu mặt,xem ra chúng đã theo đến tận Thẩm Dương.

Nhữngsuy nghĩ đó hiện ra rất nhanh chỉ trong chớp mắt, không có nhiều thời gian đểphân tích kỹ, tôi lập tức điều chỉnh động tác quay đầu của mình, cố tình làm ravẻ tự nhiên, tiện đà giơ cổ tay lên xem đồng hồ.

Tôivờ như tìm ánh sáng, giơ cánh tay lên một góc đặc biệt phía trước lông mày, ánhsáng đèn đường vừa vặn chếch 45 độ, hình ảnh phía sau lưng phản chiếu lên mặt đồnghồ giúp tôi quan sát được cơ bản tình hình.

Trênmặt đồng hồ, mờ mờ hiện ra một bóng người đen sì phía sau, những hạt tuyết theogió rơi liên tục xuống đầu, xuống vai người đó...

Tôivốn có nghề trong việc khám nghiệm hiện trường hình sự, nên khả năng nắm bắt cựly, phương hướng khá chính xác. Tuy hình ảnh trên mặt đồng hồ chỉ mờ mờ, nhưngkết hợp với góc độ phản chiếu ánh sáng, khoảng cách dự đoán bằng mắt và độ sángtối của không gian lúc đó, trong đầu tôi nhẩm tính rồi đưa ra nhận định cơ bảnvề hình dáng của người này: Cao khoảng một mét bảy, chiều cao và cân nặng xấp xỉtôi, so với đàn ông thì thuộc dạng gầy nhỏ, cách tôi khoảng 15-16 mét.

Thấybóng đen đứng im bất động, tôi từ từ hạ tay xuống, một ý nghĩ thoáng qua đầu,xem ra tôi lại bị theo dõi rồi. Đang định giả vờ gọi xe để tranh thủ quan sát,nhưng suy nghĩ lại, tôi quyết định phải bắt sống.

Tôigiả vờ hà hơi vào tay cho ấm, sau đó nhấc chân đi tiếp, tinh thần căng thẳng tộtcùng, con ngươi đảo liên tục, nhìn quanh tứ phía, chuẩn bị tìm thời cơ và địađiểm thích hợp để ra tay.

Tuyếthôm đó rất nhiều, từng bông tuyết cứ thế tới tấp rơi xuống, kết thành vô số nhữngđường kẻ màu trắng dài trên không trung rồi cắm thẳng xuống lớp tuyết dưới đất,phát ra âm thanh bộp bộp. Phía xa thỉnh thoảng quét qua mấy tia sáng yếu ớt, tiếpđó là tiếng còi ô-tô vọng lại, còn lại xung quanh hết sức yên tĩnh vắng vẻ.

Tôicố tình giảm nhịp thở, hai tay đút vào túi áo, nhấc cao chân rồi hạ nhẹ xuống,cố gắng làm giảm lực giẫm của đôi chân để không phát ra âm thanh quá to, đồngthời căng tai lắng nghe động tĩnh sau lưng.

Rấtnhanh, tôi phát hiện ra trong khoảng thời gian chân tôi nhấc lên và hạ xuống,bóng đen dường như cũng giữ tốc độ bước giống tôi, tiếng bước chân giẫm xuốngngắn, dứt khoát và đều đặn, đồng thời cũng rất nhỏ.

Tôinuốt nước bọt đánh ực, trong lòng bắt đầu thấp thỏm, đây chính là thuật theodõi đêm tuyết đây. Còn nhớ hồi học đại học, tôi đã được học điều này trong mônKỹ thuật Thực chiến, điểm cốt lõi trong thuật theo dõi đêm tuyết là phải hạchân xuống trong khoảng giữa nhịp chân của người đi trước, như vậy vừa có thểtránh phát ra âm thanh lại có thể che giấu được hành vi của mình. Xem ra ngườinày chính là một cao thủ theo dõi.

Tôitừ từ tiến về phía trước, cố gắng giữ yên đầu, nhưng hai mắt thì quét đảo sangtứ phía, trong đầu phân tích rất nhanh tình hình trước mắt, chỉ mong có thể tìmra cách khả dĩ để khống chế hắn.

Điđược khoảng hơn hai trăm mét, tôi nhìn thấy bên đường có một vườn hoa, bênngoài không có hàng rào bảo vệ, bên trong trồng những cây thông cao vút, đỉnhthông vương đầy hoa tuyết, nặng trĩu, xòa cả ra ngoài đường. Phía trước khôngxa, có một lối rẽ sang phải.

Tôilập tức nghĩ ra một kế, liền rút điện thoại trong túi áo ra, vừa đi vừa nhấn sốlung tung, đồng thời cố tình so vai lên không để cho kẻ đằng sau đoán ra ý đồthật của tôi, lần bấm cuối cùng tôi ấn và giữ phím #, điều chỉnh điện thoại vềchế độ yên lặng.

Tôiáp điện thoại lên tai, đợi vài giây, sau đó cất cao giọng, giả vờ cấp bách:

-Alô... ừ... là tớ đây... vừa mới ra... đen đủi quá, không gọi được xe. Trời lạnhchết khiếp đi được, cóng hết cả người rồi. – Vừa nói chuyện, tôi vừa tăng tốcbước vào lối rẽ.

Liếcthấy những cành cây đã đủ che khuất, tôi liền dừng lại, khẽ xoay gót nhẹ nhàngquay người lại, đứng yên giữa trời tuyết, nhanh chóng cắt điện thoại, rồi chuẩnbị sẵn sàng ôm cây đợi thỏ.

Lúcđó tôi cứ ngỡ mình đã triển khai không để lọt sơ hở nào, nhưng đến hôm nay nghĩlại, tôi mới thấy mình đúng là chứng nào tật nấy, lại vẫn giữ thói tự tin võđoán.

Saukhi dừng lại, tôi dán mắt nhìn ra phía đầu đường, hai tay nắm chặt, người hơikhuỵu xuống, sẵn sàng tư thế tấn công. Thế nhưng đợi hơn chục giây, tôi nhận rachẳng nghe thấy tiếng bước chân nào cả.

Tronglòng bắt đầu nảy sinh nghi ngờ, rồi chợt ngộ ra, bóng đen cố ý bám theo tôi nênđồng thời cũng sẽ lắng nghe động tĩnh của tôi, sau khi rẽ sang đường nhánh tôichợt đứng im, tiếng động cũng mất theo, chắc chắn điều đó khiến cho đối phươngnghi ngờ, và chắc chắn hắn cũng dừng lại, thậm chí đã chạy mất từ lâu.

Tôithầm nguyền rủa mình đúng là đồ óc lợn, sao có thể phạm phải sai lầm nghiêm trọngnhư vậy chứ, tôi quyết định không thể bỏ lỡ cơ hội trước mắt, hai chân liền bậtdậy, chạy như bay băng chéo qua chỗ rẽ đầu đường. Như vậy vừa có thể quan sát đốiphương lại vừa có thể chủ động giữ một khoảng cách nhất định, tránh bị hắn tamai phục tấn công. Thế nhưng nhìn quanh một lượt, tôi ngẩn người ra, trên vỉahè chỉ có ánh đèn đường hắt xuống ảm đạm, những bông tuyết đua nhau rơi xuốngvà hai hàng dấu chân mà chẳng thấy bóng người đâu.

Mẹkiếp, tên khốn đó biến mất rồi chắc? Tôi vừa kinh ngạc vừa tức giận, chạy nhanhđến, quỳ xuống quan sát tỉ mỉ dấu chân trên mặt đất.

Dấuchân đầu tiên ở góc đường, mũi chân hướng về phía trước, khoảng cỡ 37, nhìn hoavăn đế giầy để lại thì chính là giầy của tôi, không có dấu vết gì khác. Dấuchân thứ hai cũng vậy, không có vấn đề gì, dấu chân thứ ba... dấu chân thứtư... Tôi lần ngược theo dấu chân, cứ thế từ từ giật lùi về sau, mãi đến dấuchân thứ mười bảy, quả nhiên phát hiện ra điều bất thường.

Viềnxung quanh dấu chân này nứt rộng ra rõ ràng là bị dấu chân khác đè lên, hoa vănbị vỡ lung tung chứng tỏ có kẻ đã giẫm lên. Xem tiếp dấu chân thứ mười tám,cũng lại như vậy.

Tôitừ từ đứng thẳng người lên, dậm dậm đôi chân đang tê cứng, đưa tay lên bóptrán, trong lòng hoang mang tột độ, chẳng lẽ kẻ đó bám theo đến đây rồi độtnhiên biến mất?

Bỗngnhiên, như nghĩ ra điều gì đó, tôi vội quỳ xuống nền tuyết, cúi thấp người tiếptục quan sát. Mép bên phải trong dấu chân thứ mười tám nghiêng một góc khá lớn,tôi thò tay chạm nhẹ, hạt tuyết rất xốp. Vị trí lòng bàn chân hơi sâu, vị trígót chân lại rất nông, xem ra người này nhất định đã quay người sang phải, chonên mới để lại dấu chân như thế.

Timtôi bỗng thót lại, chợt cảm thấy có gì đó bất ổn. Nhưng chưa kịp nghĩ ra thìđuôi mắt tôi đã liếc thấy giữa lùm cây trong vườn hoa có một bóng người đen sìđang đứng thẳng, ánh đèn đường chiếu hắt qua, giữa cơ thể hắn, một tia sáng dàivà nhỏ đang di chuyển nhanh...

Dao!

Thoángchốc, bóng đen vụt xông ra, nhành cây bị va quệt mạnh kêu rắc rắc, lớp tuyếtdày phủ trên cành cây rào rào rơi xuống. Hắn xông đến trước mặt tôi, cánh taygiơ lên vụt giáng xuống, con dao vạch một vệt hình vòng cung sáng lóa, nhằm thẳngvào mặt tôi.

Cựly quá gần, lại không kịp đề phòng, tôi quỳ sụp xuống đất, tuyết dày đườngtrơn, không trợ sức được. Loáng thấy nhát dao sắp đâm trúng mặt, tôi sợ hãitoàn thân vã mồ hôi lạnh.

Thếnhưng đúng lúc nguy cấp như thế, sức mạnh bản thân chợt được khơi dậy, hai taychống xuống đất, cuộn mình lăn sang làn đường dành cho xe đạp. “Bịch!” gáy tôiđập mạnh vào vỉa hè lát đá đau điếng, mắt nảy đom đóm.

Chưađể tôi kịp đứng dậy, bóng đen lại xông đến, giơ chân phải lên định đạp mạnh vàomặt tôi. Tôi nghiêng người né được cú trời giáng vào mặt nhưng vai lại bị hứngmột cú khá đau, tôi lăn tiếp mấy mét ra giữa lòng đường. Trong tình thế cấpbách, tôi tiện tay nắm lấy hai nắm tuyết, vo chặt rồi ném mạnh về phía hắn.

Hắngiơ cánh tay để đỡ, những hạt tuyết vỡ ra bay tung tóe, phút chốc làm thành mộtlá chắn nhỏ. Thấy bóng đen bị chặn lại, tôi liền bò chồm lên, đứng chính diện vớihắn.

Dướiánh sáng mù mờ của ngọn đèn đường, lúc này tôi mới nhìn rõ: Đầu cua, mũi quặp,mặt dài, đúng là gã lùn đã giao đấu với tôi bên bờ sông Linh Hà tối hôm đó.

Mặcdù bất ngờ về thân phận của bóng đen, nhưng điều khiến tôi khó hiểu hơn cả là lầntrước thấy hắn khá đù đờ tại sao hôm nay lại trở nên linh hoạt như vậy, lại cònnắm vững được thuật theo dõi cực kỳ cao siêu nữa.

Thấyhắn tiếp tục vung dao lao tới, tôi biết tay không chắc chắn không đánh nổi, liềnquay người co chân bỏ chạy. Gã lùn bám đuổi riết theo sau, con dao lăm lămtrong tay.

Đêmkhuya tuyết lớn, đường phố vắng vẻ, chúng tôi một trước một sau rượt đuổi nhau.Những bông tuyết rơi xuống mặt lập tức bị mồ hôi làm tan chảy, tiếng thở hổn hểncủa hai bên nghe thấy rõ, lớp tuyết dưới chân bị đạp vỡ lạo xạo.

Mấylần tôi suýt bị hắn đuổi kịp, lưỡi dao sắc lạnh lướt qua tai, chém phải tóc rơilả tả, nếu không né nhanh, có lẽ tôi đã bị đâm chết từ lâu.

Tôilấy hết sức bình sinh, chạy thục mạng dọc theo con phố, miệng thở hồng hộc, híttừng hớp không khí lạnh toát vào phổi, người nóng hầm hập, vô cùng khó chịu.

Chạymột hồi lâu, vẫn chẳng thấy một bóng người, tôi sốt ruột chửi rủa, trật tự trịan Thẩm Dương là cái kiểu quái gì đây, rượt đuổi chém người giữa đường một lúclâu mà chẳng có cảnh sát nào xuất hiện? Nhưng đột nhiên tôi lại nghĩ, lần trướctôi đuổi theo hắn, bây giờ hắn đuổi theo tôi, trong khi tôi lại là cảnh sát, điềunày chẳng phải quá ư nực cười sao?

Trênđường thỉnh thoảng có mấy chiếc xe lao qua, nhưng nhìn thấy cảnh tượng này,không những không dừng lại giúp đỡ mà tất cả còn tăng tốc vọt đi, khiến tôi tứcđiên lên cứ thế chửi thầm trong bụng: Mẹ nó chứ, cầu cho chúng mày bị lật xe hếtđi!

Chạyđược gần một ki-lô-mét, tôi hoàn toàn kiệt sức sau quãng đường dài, thực sự mệtkhông chịu nổi, tim đập loạn xạ, ngực đau như muốn nổ tung, tức hết mạn sườn.

Bỗngnhiên, tôi nhìn thấy phía trước có mấy cái nhà ống tối tăm tồi tàn, nằm san sátnhau. Trong tình thế cấp bách, tôi lao luôn vào đó, luồn lách một hồi rồi chuivào gầm cầu thang tối om.

Chạyvào không gian kín đáo vốn là điều tối kỵ khi đang muốn thoát khỏi sự truy đuổi,nhưng tôi vẫn chui vào vì trong đầu nảy ra một kế hoạch khác. Chẳng là tôi đãnhận định, những căn nhà cũ kiểu này lâu rồi không được sửa chữa, đèn hành langchắc chắn đã bị hỏng hết, vì thế trước khi xông vào tôi đã ước đoán trong đầutình hình xung quanh và đoạn đường phía trước, rồi nhắm mắt xông vào trong gầmcầu thang, một lúc sau mới mở mắt ra, vì thế nên không cảm thấy quá tối.

Khicảm nhận thấy chân giẫm lên chiếu nghỉ cầu thang tầng một, tôi mới giơ tay rabám lấy lan can đề phòng bị trượt chân, rồi chạy thẳng lên tầng hai. Cùng lúcđó, tôi nghe thấy sau lưng mình gã lùn cũng đã đuổi đến, nhưng tiếng bước chânđã chậm và nhẹ hơn rõ rệt.

Tôimừng thầm trong bụng, trong căn nhà tối om như thế này, gã lùn đó nhất thời sẽkhông nhìn rõ mọi vật, liền quay phắt người lại, vịn vào lan can lao xuống, địnhtấn công bất ngờ nhân lúc hắn không kịp đề phòng.

Khôngngờ vừa lao gần đến nơi, thì bỗng nghe một tiếng “tạch”, gầm cầu thang lóe lênrồi một ngọn lửa xanh lét tỏa sáng từ chiếc bật lửa.

Dokhông gian nhỏ hẹp, ánh lửa lập tức chiếu sáng gầm cầu thang tối om, soi rõ bộdạng của cả hai người.

Thấytôi lao xuống, gã lùn sững người, nhưng ngay lập tức hắn nhếch mép cười khả ố rồivung con dao trong tay lên.

Tôinhủ thầm trong bụng đúng là đen tới số, vội quay người lại, nhưng đã không kịpnữa. Chỉ nghe thấy “xoạch!” một tiếng, bả vai phải rung lên, một vật cứng sắcnhọn đâm mạnh, tiếp đó là cảm giác đau thấu tim. Tôi đã bị trúng một nhát dao.

Tôikêu lên một tiếng, tay trái bám chặt lấy lan can, nhảy lên phía trên. Chỗ xươngcốt bị lưỡi dao chạm phải, không ngừng kêu răng rắc.

Vừalên được vài bậc thang, cổ áo bỗng bị thít chặt từ phía sau, tôi đã bị hắn tómgọn. Tôi gắng sức giật mạnh khỏi tay hắn, rồi theo đà nằm sấp xuống, xoay ngườimặt đối mặt với gã lùn.

Hắnphản ứng cũng rất nhanh, nhảy lên phía trước một bước, chân phải giẫm lên taytrái tôi, ép nửa người trên xuống, giơ con dao nhọn trong tay lên, nhằm tôi đâmtới.

Lúcnày, tôi một tay bị thương, một tay bị giẫm, hoàn toàn mất đi khả năng phòng vệ.Thấy con dao chuẩn bị đâm vào mặt, tôi nghiêng đầu né rồi dùng hết sức bìnhsinh, co đầu gối lên thúc mạnh vào háng của hắn.

Đầugối cứng như đá của tôi huých một cú như trời giáng vào đúng giữa háng hắn, mạnhđến nỗi tôi cũng cảm thấy đau điếng người.

Gãlùn kêu lên một tiếng thảm thiết, người nhảy dựng lên, “coong... coong...” condao nhọn và chiếc bật lửa rơi xuống đất, hắn ôm đũng quần ngã lăn ra đất. Lựcgiẫm dưới chân hắn bỗng mạnh hơn, vừa day vừa nghiến, gần như giẫm nát bàn taytôi.

Tôicố nén đau, chống hai cùi chỏ lên bậc thang, lùi lên phía trên để tránh bị hắntấn công tiếp.

Gãlùn cố bò dậy, miệng không ngừng rên rỉ, đứng dựa vào tường. Ánh lửa chiếu vàomặt hắn trông vô cùng dữ tợn và đáng sợ. Hắn há miệng mấy lần nhưng không phátra tiếng gì, mấy lần định vồ lấy tôi nhưng lại không dám.

Cầmcự một hồi lâu, gã lùn đột nhiên hai tay ôm chặt đũng quần, loạng choạng chạyra khỏi khu nhà.

Mắttôi nhìn theo trân trân, để mặc hắn bỏ đi, không dám đuổi theo, sau đó co ngườilại nằm xuống đất, há miệng thở dốc, trong bụng vẫn còn run sợ. Nếu lúc này hắnđâm cho một nhát, thì ngày mai tôi chỉ còn là cái xác chết cóng thôi.

Tiếngrên rỉ xa dần rồi mất hẳn, chiếc bật lửa dưới đất vẫn đang bật cháy, hình nhưlà loại zippo vỏ inox. Gió lạnh lùa sát nền đất, ngọn lửa chập chờn, phát ra tiếngkêu phụt phụt, hình ảnh xung quanh cũng chập chờn theo ánh lửa.

Tôidựng tai lắng nghe, khi chắc chắn hắn đã đi xa mới từ từ bò dậy, ngồi thần ngườitrên bậc thang. Mông cứng ngắc lạnh toát còn vai và bàn tay thì đau rát nhưthiêu đốt, tôi không dám động đậy, chỉ tựa nhẹ vào lan can cầu thang.

Lúcnày, từ trong cánh cửa sắt của hộ gia đình bên cạnh chợt vọng ra tiếng chửi rủacủa một người đàn ông trung niên:

-Ngoài kia kêu gào cái đ. gì thế, nửa đêm nửa hôm, còn làm ầm nữa tao báo cảnhsát đấy.

Tôinhổ phì một cái, trong bụng thầm đắc ý: Ai bảo theo dõi tao. Mẹ kiếp! Hôm naycho tiệt giống nhà mày...

Khôngđúng! Tôi chợt sững người lại, một ý nghĩ đáng sợ vụt lên trong đầu, đại não chợttê dại, một cảm giác lạnh toát chạy dọc sống lưng đến tận gót chân. Không đúng,không đúng, hắn không phải... không phải là đàn ông!

Vừanãy khi đầu gối thúc vào háng hắn, tôi có cảm giác hoàn toàn chỉ là xương vavào nhau, chỗ háng của hắn không hề có cái ấy, vậy chắc chắn không phải đàn ôngrồi. Thế nhưng khuôn mặt hắn, dáng vẻ hắn, lại còn giọng nói nữa, chẳng giốngphụ nữ chút nào.

Tôixoa đầu gối, cố hồi tưởng lại cảm giác lúc nãy, có lẽ hắn không phải đàn ông thật,mà là nữ giả nam, thế nhưng sao lại giống như vậy được.

Nghĩlại trước đó trên đầu mẩu thuốc lá không tìm được dấu vân tay, tôi vịn vào lancan đứng dậy, rút khăn mùi soa bọc con dao và chiếc bật lửa trên mặt đất lại,nhét vào túi áo, sau đó từ từ bước ra khỏi khu nhà.

Vếtthương sau vai nhức lên từng cơn, máu chảy ồ ạt không cầm được, chảy dọc theo sốnglưng vào cả trong quần; nhưng theo kinh nghiệm, tôi đoán chắc chỉ là vết thươngngoài da, không nguy hiểm lắm. Tôi cắn chặt môi, nghiêng đầu sang một bên, khuỷutay choãi mạnh về phía sau giống tư thế người bẻ lưng cho đỡ mỏi, tay còn lại vớiđến chỗ bả vai, bịt chặt chỗ vết thương, ngăn không cho máu chảy ra.

Bênngoài tuyết vẫn gầm gào, nhiệt độ xuống rất thấp, ít nhất cũng âm hai mươi độ.Tôi đứng bên đường hồi lâu, tuyết rơi đầy đầu, lạnh đến nỗi răng va vào nhau lậpcập, người cóng như que kem, mãi mới bắt được chiếc taxi đi đến bệnh viện gầnnhất.

Vừađi được một đoạn ngắn, tôi chợt giật thót mình khi nghĩ đến một việc: Gã lùn(cũng có thể là phụ nữ) bám theo tôi suốt cả quãng đường, chắc chắn có ý đồkhông tốt, nay lại bị hớ như vậy, lẽ nào sẽ quay ra hạ thủ ông Từ không? Nghĩ vậy,tôi vội bảo lái xe quay lại đường cũ.

Trênđường đi, tôi rút điện thoại gọi vào máy điện thoại bàn nhà ông Từ. Cảm ơn trờiphật, bồ tát phù hộ, ông cụ vẫn bình yên vô sự, vừa đánh răng rửa mặt lên giườngđi ngủ, nhưng ông có vẻ ngạc nhiên khi nhận cú điện thoại lúc nửa đêm của tôi.

Vìđang trên taxi tôi không tiện giải thích, chỉ nói là nhớ ra vài việc quan trọng,muốn gặp và trao đổi trực tiếp với ông, bảo ông nhất định phải chờ, ngoài tôira thì ai gọi cửa cũng không được mở.

ÔngTừ không hỏi thêm gì, vui vẻ nhận lời. Lúc cúp điện thoại, tôi nghe láng mángbên cạnh có tiếng người nói gì đó, sau đó điện thoại cắt hẳn.

Mặcdù giọng nói đó không rõ ràng, cũng không phân biệt được là nam hay nữ, nhưngtôi cứ có cảm giác cực kỳ quen tai. Lúc đó, tôi cứ mặc định trong đầu đấy có thểlà giọng của vợ ông, nên cũng không nghĩ ngợi gì thêm.

Tronglòng tôi vẫn luôn có một tảng đá đè nặng trĩu, giờ tôi đang bị thương nếu lại gặpphải kẻ nào đó tấn công, chắc sẽ không chống chọi nổi. Nghĩ một lúc, tôi rút điệnthoại ra gọi cho Tiểu Đường, báo cho cô bé địa chỉ nhà ông Từ, nói rằng mìnhđang gặp một số chuyện rắc rối, bảo cô mau đến.

Lúcđó trong đầu tôi tính toán rằng, bên cạnh Tiểu Đường luôn có lính đặc công củaBộ Công an bảo vệ, lúc cần thiết, cũng coi là có người trợ giúp mình, mà nếu họkhông giúp thì cũng coi như cổ vũ mình.

Trongxe không bật điều hòa, lạnh cóng, chẳng biết là do hỏng hay là muốn tiết kiệmxăng. Máu đã cầm lại, vai tôi chuyển sang cảm giác tê tê ngứa ngứa, cứ như có mộtđàn kiến bò lung tung trên đó, hết sức khó chịu, nhưng lại không dám gãi.

Tôixoay người, ngồi nghiêng trên ghế, cố gắng ngồi bất động, trong đầu cứ suy nghĩmiên man. Gã lùn sao lại có thể là phụ nữ chứ, lần trước ở Cẩm Châu chỉ là muốnhại tôi, sao lần này lại muốn ra tay sát hại? Chẳng lẽ lần này việc tôi gặp gỡông Từ đã khiến chúng lo lắng nên cố tình diệt cỏ tận gốc?

Nghĩđi nghĩ lại, đầu tôi lại càng rối tung lên.

Bênngoài trời lạnh cóng, cửa sổ xe phủ một lớp băng dày, không nhìn rõ đang đi đếnđâu. Tôi đưa tay quệt vài đường trên cửa kính xe, ghé trán vào nhìn ra ngoài.

Cáilạnh trên cửa kính ngấm vào da thịt, rồi nhanh chóng lan tỏa khắp người khiếncho cái đầu đang nóng bừng vì một mớ bòng bong của tôi bỗng trở nên tỉnh táohơn.

Nhìnthành phố tĩnh lặng trôi chầm chậm trong đêm, đầu óc váng vất, đã có lúc tôinghĩ đến việc đầu hàng, cảm giác như thế giới này có lẽ chưa từng thuộc vềmình, tất cả đều lạ lẫm, không giống những gì mình đã nghĩ. Sự việc rồi sẽ đi vềđâu? Số phận tương lai của tôi rồi sẽ như thế nào?

Ngẩnngơ hồi lâu, tôi đột nhiên vỗ mạnh vào đùi, vì chợt nhớ ra một chuyện quan trọng.Hồi trước thầy liệm trang Mã Trấn Quốc mất tích bí ẩn, khóa cửa không hề bị cậyphá, chứng tỏ hung thủ nhất định là người quen gọi cửa, còn bây giờ ông Từ VạnLý...

Tôithầm kêu giời, xem ra mình lại sơ ý rồi, ngong ngóng gọi điện lại cho ông Từ, mặcdù chỉ cách có mười phút mà không sao liên lạc được. Lòng tôi như lửa đốt, luônmiệng giục tài xế lái nhan hơn nữa.

Anhtài xế bị tôi giục nhiều, bực mình quay lại lườm một cái, giọng bực bội:

-Chị ơi, đừng đùa nữa, bằng lái của tôi đã bị phạt chín điểm rồi, chị còn muốntôi kiếm cơm hay không hả?

Trênđường lớp tuyết rơi rất dày, xe rất khó đi, liên tục trượt và chết máy, khôngthể tăng tốc hơn được, hơn nửa tiếng sau mới đến nơi.

Vừanhìn thấy khu chung cư nhà ông Từ ở phía trước, tôi rút vội ra năm mươi tệ, đặtlên bệ lái, rồi không đợi lấy lại tiền thừa, cứ thế đẩy cửa nhảy vội xuống xe.

Tôilảo đảo chạy đến cổng khu chung cư, vừa đúng lúc cánh cổng tự động bật mở, bêntrong hắt ra hai chùm ánh sáng trắng, có lẽ có xe đang đi ra.

Tôitránh người sang một bên, chạy một mạch đến chân tòa nhà, ngửa mặt nhìn lên cửasổ nhà ông Từ, thấy rèm cửa kéo kín, phòng ốc tối om, liền giơ tay ấn chuông.

Tiếngchuông cửa chết tiệt cứ réo liên hồi nhưng mãi chẳng thấy ai trả lời, tôi sốtruột cuống cả lên, liên tục trách mình phản ứng chậm chạp, ông Từ chắc chắn xảyra chuyện rồi.

Đangân hận giày vò, đột nhiên có một bàn tay vỗ lên vai tôi. Cái vỗ đó trúng ngay vếtthương khiến tôi đau điếng người, suýt nữa kêu thành tiếng. Tôi sợ hú hồn, tưởngcó kẻ đánh lén, liền nhảy vội sang một bên, quay đầu lại nhìn.

Hóara tôi đã lo hão, người đó là Tiểu Đường, cô bé mặc chiếc áo lông vũ màu trắngtrông đáng yêu như một chú gấu con, chớp chớp mắt, nhìn tôi đầy nghi ngờ. Saulưng còn có ba người đàn ông cao to, mặc áo da màu đen, cắt đầu cua, vẻ mặt lạnhlùng, ánh mắt tinh nhanh, chắc chắn là lính đặc công của Bộ Công an. Bọn họ xuấtđầu lộ diện như thế này, chắc là do Tiểu Đường yêu cầu.

Tôicũng không có thời gian khách sáo nữa, vội thuật sơ qua chuyện vừa xảy ra cho bọnhọ nghe, và cả những suy đoán của tôi nữa.

TiểuĐường tuy là người bề ngoài lạnh lùng nhưng thật ra lại hết sức nhiệt tình,nghe tôi kể xong liền rút điện thoại ra, nói:

-Chị Tiêu Vi, chị còn nghĩ ngợi gì nữa, mau báo cảnh sát đi!

Khôngđợi tôi đáp lời, người đàn ông khoảng 48, 49 tuổi, để râu ngắn, trông có vẻ nhưlà đội trưởng liền lắc đầu, nói khẽ:

-Không cần phiền phức như vậy đâu, để tôi xem khóa cửa xem sao.

Ngườiđàn ông đó đi đến trước cánh cửa, khuỵu gối xuống, vuốt vuốt ổ khóa, tay phảirút từ trong ngực áo ra một cây kim màu trắng khá dài và mảnh trông hơi giốngchiếc kẹp tóc, đoạn đầu có chia nhánh, nhẹ nhàng cắm vào ổ khóa, xoay xoay mấycái, cánh cửa sắt liền khẽ phát ra một tiếng “cạch”.

TiểuĐường chen lên trước mấy bước, tò mò hỏi:

-Ôi, Lão Mục, hóa ra chú cũng biết mở khóa à? Nhưng có vẻ như không mở nhanh bằngchị Lan Lan.

LãoMục rút cây kim loại ra, quay đầu nhìn Tiểu Đường mỉm cười, vuốt vuốt râu,không nói gì.

Mặcdù chưa nhìn thấy Lan Lan ra tay mở khóa bao giờ, nhưng tôi thấy cách thức mởkhóa của Lão Mục vô cùng điêu luyện, xem ra người lính đặc công này thực sự làmột tay có hạng. Thế nhưng mở khóa và theo dõi đều là những kĩ năng bắt buộctrong nghề này, nên tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên.

Saukhi mở được cánh cửa sắt, chúng tôi vừa định xông lên gác thì Lão Mục vội ngănchúng tôi lại, thăm dò xung quanh một lượt rồi quay sang nói với một thanh niênđi cùng:

- Cậucanh chừng ở lối đi dưới, nếu sau khi chúng tôi lên gác, có người mở cửa vàothì nhớ đừng làm họ giật mình, chỉ cần đi theo lên là được.

Người thanh niên đó không chút chần chừ, tuân lệnh đi xuống. Thấy Lão Mục sắp xếp như vậy, tôi khẽ gật đầu, nghĩ bụng người này cũng thật cẩn thậnchu đáo.

Chúng tôi bước nhanh theo Lão Mục lên gác. Cửa nhà ông Từ đóng kín, ổ khóa còn nguyên vẹn, bề mặt không thấy dấu vết cậy phá, gõ cửa hồi lâukhông thấy người ra mở. Lão Mục lại chọc cây kim loại vào, lắc lắc mấycái, ổ khóa liền mở ra.

Theo thói quen, tôi nhấc chân phải lên, định đạp cửa xông vào. Lão Mục chặn ngay lại, lắc đầu khẽ nói:

- Đừng vội, những căn nhà kiểu cũ này đều là loại cửa kéo đấy.

Nói đoạn, anh ta lại vê vê đầu ngón tay, đầu cây kim loại chĩa sanghai bên, bám chặt lấy ổ khóa. Anh ta nắm lấy đuôi kim loại, kéo cánh cửa ra để hở một khe nhỏ, lách người về phía bản lề cửa.

Tôi thầm khen giỏi, đúng là trình độ của lính đặc công cao siêu thật, mở cửa cũng rất cẩn thận.

Luồng khí nóng ùa qua khe cửa, trong phòng tối om, không có một tiếng động gì.

Cánh cửa được kéo rộng hơn, Lão Mục đứng dậy, khom lưng thò đầu vàotrong quan sát cẩn thận, kiểm tra xem có người mai phục không. Sau mấygiây, anh ta đột nhiên thò tay vào trong, mò công tắc điện bật đèn lênrồi bước vào trước.

Tôi chau mày, anh ta hành sự thật quá chủ quan, đang định nhắc làphải giữ lại dấu vân tay, thì bỗng kịp hiểu ra: Nếu là người quen gọicửa thì trên công tắc đèn sẽ chỉ lưu lại dấu vân tay của người trongnhà, hơn nữa tên hung thủ thân phận không rõ ràng, cho dù có tìm thấydấu chân thì phỏng có ích gì.

Nghĩ vậy, tôi bắt đầu thấy thán phục Lão Mục, trong thời gian ngắn mà suy nghĩ chu đáo, hành sự quyết đoán như vậy, quả thực không đơn giản.

Phòng khách cũng không có gì khác thường, mặt sàn rất sạch sẽ, không có bất kỳ dấu chân dính bùn dính tuyết nào cả.

Tôi dẫn bọn họ vào trong phòng ngủ. Sau khi đèn bật sáng, chúng tôithấy trên giường có hai bộ chăn gối, rõ ràng hai vợ chồng ông Từ đã đingủ; thò tay vào trong chăn, vẫn còn hơi ấm; trên tủ đầu giường còn đểmột lọ thuốc an thần và nửa chai nước.

Tôi và Lão Mục đưa mắt nhìn nhau, nhanh chóng chia ra tìm kiếm cẩnthận mọi ngóc ngách của căn phòng nhưng không phát hiện thấy gì. Tôiđoán chắc vợ chồng ông Từ đã bị người quen bắt cóc. Mẹ kiếp, lại đếnmuộn mất rồi!

Tôi ngồi phịch xuống mép giường, day mạnh huyệt thái dương, thấy dằnvặt ghê gớm, vừa nãy sao cứ chần chừ không nói rõ mọi việc cho ông. Bâygiờ ông Từ cũng bốc hơi giống Mã Kiến Quốc, tất cả những người trongcuộc đều lần lượt biến mất như thể đã thương lượng từ trước, kế hoạchđiều tra sau này sẽ triển khai thế nào đây?

Lão Mục vắt hai tay sau đầu, nheo mắt lại, bước từng bước vòng quanhcăn phòng, nhìn quanh quất thăm dò xung quanh. Một lúc sau, anh ta từ từ đứng dậy, cúi đầu suy nghĩ rồi đột nhiên ngẩng mặt lên nói to:

- Không đúng, ông Từ không bị bắt cóc, mà là bọn họ cùng đi với nhau.

Tôi sững người, đứng bật dậy:

- Cái gì?

Lão Mục cười mỉm, nói rõ hơn:

- Từ Vạn Lý không hề bị bắt cóc, ông ta đã quyết định tự mình ra khỏi nhà.

Thấy chúng tôi đều tỏ ý nghi ngờ, Lão Mục vẫy vẫy tay, dẫn chúng tôivào phòng khách, chỉ vào giá giầy bằng gỗ bên cạnh cửa, nói:

- Nhìn thấy gì không, giá trên cùng để hai đôi dép lê, một đôi to một đôi nhỏ, trông khá cũ, chắc là của vợ chồng ông ta. Mấy đôi khác đều để ở giá dưới cùng, màu sắc còn mới, chắc là để dành cho khách.

Lão Mục lại bước đến cửa sổ phòng khách, sờ sờ vào thân máy sưởi, rồi lại thò tay ra phía sau chiếc điều hòa hiệu Haier ở bên cạnh, nói tiếp:

- Hơi ấm không còn, nhưng trong phòng lại không lạnh. Mọi người không nghĩ rằng điều hòa đã được mở từ trước và cũng mới vừa tắt thôi sao?

Ngừng một lát, Lão Mục vuốt vuốt râu, khẳng định:

- Nếu là bắt cóc, giữa đêm hôm khuya khoắt, dù là người quen thì cũng phải có hành động đe dọa, sao có thể để cho hai ông bà kịp thay giầy,tắt đèn và điều hóa chứ?

Nhìn hai đôi dép lê, tôi nhớ loáng thoáng, hình như đó đúng là haiđôi dép mà vợ chồng ông Từ đã đi, hơn nữa trong phòng ấm hơn hẳn bênngoài, chắc chắn là vừa tắt điều hòa xong. Con mắt của Lão Mục lợi hạithật, chỉ trong chớp mắt đã phân tích chi tiết đến thế, khả năng quansát tinh tế nhanh nhạy và suy luận lô-gic như vậy, thực sự khiến ngườikhác không khỏi ngỡ ngàng. So với anh ta, tôi chỉ như một con tép riu.

Trong phút ngỡ ngàng, tôi bỗng nhớ lại lúc ông Mã Kiến Quốc mất tích, đèn trong phòng vẫn chưa tắt, cây ba-toong vứt chỏng chơ dưới đất; còn ở đây tất cả mọi thứ trong phòng đều vẫn nguyên si, trên sàn nhà lạikhông phát hiện thấy dấu chân nào cả, cây ba-toong của ông Từ cũng chẳng thấy tăm hơi đâu, vậy hai ông bà đúng là tự ý rời nhà đi rồi.

Nghĩ vậy, trong lòng tôi lại càng nghi hoặc hơn, rõ ràng tôi đã dặnông Từ ở nhà đợi, tại sao ông bà lại không nghe theo mà vô duyên vô cớbỏ đi như thế, chẳng lẽ lại cố tình tránh né tôi, điều này hoàn toàn vôlý.

Tôi nhìn Lão Mục, khẽ hỏi:

- Lão Mục, anh thử nói xem liệu đây có phải là hiện trường giả do bọn bắt cóc dựng lên không?

Lão Mục suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu:

- Không giống lắm, mà cũng không cần thiết phải làm vậy. À, đúng rồi, cô thử nhìn xem trong phòng có bị mất gì không?

Tôi vỗ vỗ đầu, lập tức nghĩ đến cuốn nhật ký của ông Từ, vội bước vào thư phòng, kéo cánh cửa tủ sách, những cuốn nhật ký vẫn đặt nguyên si ở đấy.

Mặc dù không biết là có giúp ích được gì không nhưng tôi vẫn rút cuốn nhật ký ghi lại những lời nói mớ của cậu, thử lật giở vài trang, chắcchắn đúng là cuốn sổ đó, tôi liền nhét vào trong ngực áo, định bụng cóthời gian sẽ nghiên cứu xem thế nào.

Một lúc sau, Lão Mục vội vàng bước từ ngoài vào, giọng điệu có chút khác lạ:

- Tôi nghĩ việc này có gì đó không bình thường!

Hóa ra, bọn họ tìm thấy chiếc áo khoác của hai ông bà treo trên mắcáo trong phòng khách, bên trong có cả tiền, chìa khóa... nếu họ vội rangoài, sao có thể đi tay không được. Kết hợp với những chi tiết khác như tắt điều hòa, thay dép lê, tất cả đều bất thường, cứ như thể một đikhông quay về nữa.

Tôi cũng cảm thấy vô cùng băn khoăn, chẳng lẽ chuyến thăm bất ngờ của tôi đã khiến cho hai ông bà bỏ nhà ra đi sao? Tôi sốt ruột đề nghị:

- Chúng ta thử kiểm tra nhật ký cuộc gọi và băng ghi hình trongcamera giám sát khu chung cư xem sao, không chừng phát hiện ra được điều gì.

Lão Mục lắc đầu, khẽ nói:

- Chuyện đó để sau đi. – Sau khi dò xét một vòng, anh ta chau mày,ngập ngừng nói tiếp. – Tôi cứ có cảm giác ông cụ muốn nói với chúng tabí mật nào đó, nhưng sợ điều gì đấy nên không nói ra được, vì vậy mới cố tình bày ra tình huống thế này.

Tôi sững người một lúc rồi nhìn quanh quất khắp phòng, trong đầu dầnnảy sinh cảm giác bất an, có vẻ như chuyện này đã gặp ở đâu đó rồi thìphải. Cái kiểu ám hiệu này quá quen thuộc, bức tranh mà cậu tôi vẽ hồiđó chẳng phải cũng như vậy sao?

Tôi kể sơ lược những tình tiết sự việc trước đó cho Lão Mục nghe, anh ta nghĩ ngợi một lúc rồi nói:

- Khả năng này rất có thể xảy ra, chúng ta thử tìm kỹ lại lần nữa xem sao.

Thế là, chúng tôi kiểm tra cẩn thận một lượt căn phòng với hi vọng có thể phát hiện ra dấu hiệu nào đó mà ông cụ để lại.

Với kinh nghiệm của mình, tôi kiểm tra phòng khách và thư phòng. Nhớlại chuyện trước đây cậu tôi đã dùng tranh của mình để ra ám hiệu, theolập luận tương tự, tôi tập trung quan sát những bức tranh treo trêntường.

Bộ sưu tập của ông Từ vô cùng phong phú, trên tường treo kín mítnhững bức tranh lớn nhỏ khác nhau, tổng cộng có tới hơn hai mươi bức,đóng khung cẩn thận, đa số đều là phong cảnh thủy mặc.

Tôi chẳng có chút hiểu biết gì về những tác phẩm nghệ thuật này, ngắm nghía một hồi lâu vẫn chẳng nhận ra điều gì khác thường, lòng rối nhưtơ vò, tôi ngồi bệt xuống nền nhà, mặt mày đờ đẫn.

Lão Mục thì không ngừng lật giở những bức tranh thư pháp, nghiêng đầu kiểm tra mặt trước mặt sau, ngón tay sờ sờ vuốt vuốt liên tục lên mặttranh.

Nghe tiếng tranh sột soạt, trong đầu tôi cứ nghĩ, chẳng lẽ hướng điều tra dùng tranh làm ám hiệu lại sai? Đột nhiên, tôi nghĩ đến một điểmbất thường: Ông Từ là họa sĩ sơn dầu nổi tiếng, tại sao trong thư phòngcủa ông lại chẳng thấy bức tranh sơn dầu nào mà lại đều là quốc họa[1]?

[1] Dòng tranh thủy mặc hoặc thư pháp của Trung Quốc.

Vừa nghĩ đến đó, tôi liền lao đến quan sát tỉ mỉ từng bức tranh.

Dần dần, tôi phát hiện thấy có một điểm kỳ lạ, ở góc dưới mỗi bứctranh đều có ghi chữ Từ Vạn Lý bằng chữ phồn thể, trên đóng dấu triệnvuông đỏ với niên đại khác nhau, xem ra ông cụ không chỉ yêu thích tranh quốc họa mà còn sáng tác không ít.

Nghĩ lại, tôi mơ hồ cảm thấy lập luận này không đúng lắm, liền quayra nhìn kỹ mốc thời gian ở góc dưới bức tranh, bức sớm nhất là năm 1990, bức muộn nhất là năm 2008, tức là năm kia, tất cả có mười chín bức,trải dài suốt mười chín năm,

Năm 1990, là năm đầu tiên hoàn thành bức tranh panorama Cẩm Châu,cũng có nghĩa là, kể từ sau năm đó, ông Từ bắt đầu sáng tác tranh quốchọa, cho đến tận năm 2008. Thế nhưng tại sao chỉ có mười chín bức, tạisao năm 2009 và năm 2010 lại không vẽ tiếp, chẳng lẽ niên đại đề ở đâycó ẩn ý gì đó?

Tôi bóp nhẹ trán, vắt óc suy nghĩ, cố huy động các nơ-ron thần kinhnối kết các mối liên tưởng. Giả sử niên đại tranh quả đúng là có ẩn ý,vậy nếu bỏ qua những bức tranh ở các năm giữa, thì năm 1990 Trung Quốctổ chức Á vận hội, năm 2008 tổ chức Thế vận hội, đây là hai sự kiện lớncả thế giới biết đến, chẳng lẽ ông Từ muốn ám chỉ...

Tôi thở dài, tự thân cảm thấy ý nghĩ này quá ư hoang đường, nếu suyđoán theo hướng này thì Từ Vạn Lý chắc chắn không phải họa sĩ mà là nhàtiên tri.

Mặc dù vậy, tôi vẫn không muốn bỏ cuộc. Tiến lên trước mấy bước, tôikhoanh tay, nghiêng đầu dán mắt nhìn vào bức tường, càng nghĩ càng thấychuyện này hết sức ly kỳ. Bỗng nhiên, một cảm giác quen thuộc chợt hiệnvề, cậu tôi đã từng khoét tường để giấu tấm Long Bản, bên ngoài che giấu bằng một bức tranh thư pháp, có lẽ nào ông Từ cũng làm như vậy?

Tôi vội bê chiếc ghế gỗ bên cạnh lại, đứng lên mặt ghế, lật từng bức tranh ra xem xét.

Màu sắc chỗ tường được tranh che phủ trông khá phạt, chứng tỏ các bức tranh này đã được treo ở đây từ lâu. Tôi gõ nhẹ tay, dỏng tai lắng nghe âm thanh phát ra.

Tôi cứ gõ mãi, cho đến khi ngón tay tê dại đi mà vẫn không nghe thấytiếng gì đặc biệt, có vẻ như bức tường này không có chỗ nào rỗng cả. Vậy là vẫn phải bắt tay tìm kiếm đầu mối từ chính những bức tranh rồi.

Tôi gỡ từng bức tranh xuống, chuyển cho Lão Mục, dặn anh ta phải xếpcẩn thận theo thứ tự thời gian. Lão Mục lập tức hiểu ra ý đồ của tôi,liền đưa tay đỡ những bức tranh, xếp theo thứ tự niên đại trên mặt sàn.

Khi tất cả các bức tranh được gỡ xuống và đặt ngay ngắn trên sàn nhà, trong phòng đã chẳng còn lối đi nào. Chúng tôi quỳ xuống, di chuyển nhẹ nhàng, ngắm vuốt từng bức tranh rồi lại sờ nắn cạnh khung tranh với hivọng tìm ra bí mật ẩn chứa trong đó.

Mặc dù giấy vẽ tranh rất mỏng mềm, lâu ngày còn bị ố vàng, nhưng vẫnđược bảo quản khá nguyên vẹn, hầu như không thấy có vấn đề gì. Quay rangắm nội dung bức tranh, tất cả đều là tranh phong cảnh, có núi có sông, có cây có đá, có đình có gác, có...

Có tháp!

Tôi chợt giật mình, lấy tay ra dụi mắt, sau đó lại vội quét mắt nhanh qua dãy tranh. Đúng là có tháp!

Trong tất cả các bức vẽ đều thấy tòa tháp xuất hiện ở những vị tríkhác nhau, hoặc là chủ thể hoặc là bối cảnh. Trong đó có một bức với tựa đề Linh Ba giang tháp đồ, vẽ một con sông lớn chảy xuyên quadãy núi, tòa tháp ẩn mình giữa núi sông, bên trên có mây vờn quanh, bêndưới có nước sông hắt bóng, rất khó để nhận ra, chỉ thấy một hình ảnhlộn ngược méo mó hiện trên mặt sông.

Tôi hít sâu một hơi, đột ngột chuyển hướng suy nghĩ đến người chiếnsĩ trong bức tranh của cậu, trong đầu dần hiểu ra vấn đề, có khi đây làám hiệu mà ông Từ để lại, ý muốn nói bí mật đang ở trong tòa tháp? Nhấtlà khi tham gia vào tổ sáng tác tranh panorama, cậu tôi lại phụ trách vẽ đúng khu vực Cổ Tháp, kết hợp những chi tiết đó lại, thì chắc có lẽ ámhiệu của ông Từ chính là ở đây. Nhưng có một điều tôi nghĩ mãi không ra, đó là tại sao hồi chiều khi tôi đến thăm, ông cụ lại không trực tiếpnói luôn? Còn bây giờ lại ra đi vội vã, chuyện này thật là kỳ bí.

Tôi liền quay ra nói những suy đoán của mình cho Lão Mục nghe, anh ta thấy rất hứng thú, sau khi quan sát tỉ mỉ, khẽ gật đầu nói suy đoán này rất có lý, rồi cùng tôi quan sát từng tòa tháp trong các bức tranh.

Tranh thủy mặc của Trung Quốc thường đòi hỏi ý cảnh hài hòa, chỉ vớivài nét vẽ là có thể lấy giả tả thực, mười chín tòa tháp to có nhỏ có,vẽ rất có hồn, nhưng lại chẳng khác nhau mà đều chung một vẻ.

Tôi lấy làm lạ, quay ra di ngón tay đếm số tầng tháp, không nhiều không ít, vừa đúng mười chín tầng.

Mười chín bức tranh, mười chín tòa tháp, mười chín tầng tháp, tất cả đều là con số mười chín!

Xem đến đây, tôi và Lão Mục quay sang nhìn nhau, mãi lâu chẳng ai nói lời nào. Điều này không thể nào nói là trùng hợp được, chắc chắn là ámhiệu cố tình để lại. Thế nhưng tại sao lại đều là mười chín thì khôngtài nào đoán ra được. Xem ra cấu đố ông Từ đưa ra quả là khó giải.

Lúc này, Tiểu Đường và chàng đặc công trẻ tuổi kia cũng từ ngoài bước vào, nghe chúng tôi kể lại điểm đặc biệt trong các bức tranh, bọn họđều tỏ ra hiếu kỳ, vội ngồi xuống cùng quan sát.

Tiểu Đường đưa tay chạm vào một tòa tháp cao, khi ngón tay vừa chạm mặt giấy, cô bé liền kêu to:

- Ôi, đây là khắc hình mà!

Cùng lúc, Lão Mục cũng thốt lên sau lưng tôi:

- Không đúng, là hai mươi tầng!

Tiếng kêu kinh ngạc của hai người họ khiến tôi sững người, mọi ngườingơ ngác nhìn nhau. Tôi là người đầu tiên bừng tỉnh, khắc hình mà TiểuĐường nói chắc chắn có ý chỉ tòa tháp cao kia không phải được vẽ bằngbút, mà là tác phẩm khắc hình trong nghệ thuật xăm hình. Thế nhưng haimươi tầng tháp mà Lão Mục nhắc tới là sao, điều này tôi chẳng thể hiểunổi.

Lão Mục vuốt vuốt râu, ngoắc tay ra hiệu cho Tiểu Đường nói trước.Tiểu Đường chạm vào một lượt mười tám bức tranh còn lại, nét mặt cànglúc càng trở nên khó hiểu. Cô bé đứng dậy nói với chúng tôi, những tòatháp cao này đều được một nghệ nhân nào đó dùng kim khắc lên giấy vẽ, là nghệ thuật khắc hình cực kỳ cao siêu. Thấy Lão Mục và mọi người vẫnchưa hiểu, cô bé lại giảng giải sơ qua những kiến thức về xăm hình.

Trong bức tranh thủy mặc lại ẩn chứa nghệ thuật khắc hình, điều nàyhoàn toàn tương đồng với khay sứ Thanh Hoa và tấm Long Bản. Nhưng mọichuyện đến quá bất ngờ, nhất thời không thể đưa ra nhận định chính xác,tôi quay lại hỏi Lão Mục, tại sao lại thừa ra một tầng tháp?

Lão Mục cười cười, chỉ vào bóng tháp hắt trên mặt nước, nói:

- Mọi người nghĩ xem, nếu đây là bóng tháp, thì chắc chắn nó phảigiống y hệt tháp thật. Điều này có nghĩ là trong bức tranh này, còn ẩnchứa một tòa tháp thật khác.

Tôi vội cúi xuống nhìn lại, quả đúng như vậy, hai tòa tháp sáng tốingược nhau, giống như đối xứng nhau qua gương, bất giác khẽ gật đầu.Nghiền ngẫm lời của Lão Mục, có vẻ như câu nói của anh ta khá xác đáng,xem ra chỗ này chắc chắn có ẩn chứa một bí mật nào đó.

Suy nghĩ một lúc, đầu tôi bắt đầu căng ra, hình ảnh già nua của ông Từ dần dần hiện ra trước mắt, mờ ảo xa xôi.

Tạm gác lại những nghi ngờ về vụ mất tích của ông Từ, chúng tôi quayra hỏi Tiểu Đường làm thế nào nhận biết được hình khắc. Những tòa thápđó hòa chung với cảnh vật xung quanh, nhìn qua không có gì khác biệt,rất giống với hình ảnh được vẽ bằng mực tàu.

Tiểu Đường lắc đầu, với tay chọn lấy một bức tranh, đầu ngón tay didi trên thân tòa tháp trong tranh, nức nở khen ngợi. Cô bé cho chúng tôi biết, theo quan sát của cô, những tòa tháp trong tranh đều sử dụngthuật châm kim mềm trong nghệ thuật khắc hình, tức là chạm khắc hình ảnh hoa văn trên những đồ vật có chất liệu mềm như giấy, vải... khác hẳnvới thuật châm kim cứng, đây là một kỹ thuật vô cùng cao siêu, sau khikhắc xong, nhìn không khác gì đồ thật. Nói đoạn, cô đứng dậy định tìmnghiên mực để biểu diễn cho chúng tôi xem.

Tìm khắp cả căn phòng, ngoài những dụng cụ vẽ tranh sơn dầu ra, thìchẳng thấy bút mực giấy nghiên đâu, thậm chí cũng chẳng có đến một tờgiấy vẽ nào cả.

Chúng tôi quay lại thư phòng, người đứng người ngồi, mặt mày ủ rũ,chẳng ai nói gì, tất cả đều nhìn chăm chăm vào những bức tranh vứt lungtung trên mặt sàn, vẻ mặt vô cùng thất vọng và buồn chán.

Lão Mục cúi người cầm lên một bức tranh, ngắm nhìn hồi lâu, khẽ gật đầu rồi lẩm bẩm như nói một mình:

- Nghề nào cũng có trạng nguyên, ông Từ cả đời mê tranh sơn dầu, tôinghĩ ông ấy chắc không thể đạt tới trinh độ cao siêu trong lĩnh vựctranh quốc họa như thế này...

Tôi giật mình, ý của Lão Mục rõ ràng muốn nói mười chín bức tranhquốc họa vẽ hình tháp này chưa chắc do ông Từ vẽ, mà được vẽ dưới bàntay của người khác. Thế nhưng tại sao tên và dấu triện ở góc tranh đềulà của ông ấy? Lại còn những tòa tháp được khắc hình nữa, chẳng lẽ ôngTừ vốn dĩ là thợ xăm thân khắc hình nên đã hòa trộn hai loại hình nghệthuật ấy với nhau?

Lúc đi do vội vàng nên Tiểu Đường không đem theo túi xách, cô bé liền tìm một chiếc kim khâu trong hộp đựng đồ lặt vặt trong nhà bếp. Mặc dùkhó có thể so được với cây kim xăm chuyên nghiệp, nhưng dù sao có cònhơn không. Thế nhưng trong tay không có mực, chất liệu mực của tranh sơn dầu lại dính quá, nên cô bé không thể biểu diễn cho chúng tôi xem cáigọi là thuật châm kim mềm được.

Tôi tìm kiếm khắp nơi, đang thấy nan giải thì chợt nhớ đến vết thương sau vai, tôi liền cởi áo jacket bên ngoài ra. Lúc này vết thương đãngừng chảy máu, máu đông lại thành cục trên bả vai.

Lúc này bọn họ mới biết tôi bị thương nặng, ngạc nhiên hỏi sao lại để xảy ra cơ sự này. Tôi giải thích qua loa vài câu vết thương ngoài dakhông mấy nghiêm trọng, rồi bảo Tiểu Đường gắp cục máu đông, bỏ vào cốcnước sôi cho tan ra để làm mực.

Tiểu Đường khuấy đều cốc nước máu, gật đầu nói có thể dùng tạm được.Cô bé cầm lấy cây kim, chấm một ít “mực”; ngón cái, ngón trỏ và ngóngiữa tay phải giữ nhẹ đuôi kim giống như động tác cầm bút lông, ấn nhẹvào hình tòa tháp hắt bóng dưới nước.

Động tác của Tiểu Đường cực nhẹ cực nhanh, đầu kim chạm xuống rồi rút ra ngay, trên bề mặt hơi ố vàng của bức tranh lập tức hiện ra một chấmđỏ nho nhỏ.

Tay phải của Tiểu Đường dừng lại một lúc, cổ tay lắc nhẹ, rồi từ chấm đỏ đó liên tục châm tiếp những mũi kim tiếp theo, rất nhẹ nhàng, khônghề phát ra một tiếng động nào dù là nhỏ nhất. Một lúc sau, một đườngcong mảnh màu đỏ dần hiện ra trên giấy.

Nước máu thấm vào giấy vẽ, đường cong đỏ hơi nhòa trông rất giống với nét vẽ bằng bút lông, thậm chí còn tạo thành những vết tơ bút và hấtbút y hệt với phong cách vẽ mười chín tòa tháp trong tranh. Nhìn kỹ lại, giấy vẽ vẫn nguyên vẹn như lúc đầu, không mảy may bị rách hỏng.

Tiểu Đường gật đầu tỏ ý hài lòng, cô bé đặt kim sang một bên, ngẩng đầu nói với chúng tôi:

- Thuật châm kim mềm của Tiểu Đường vẫn chưa học được đến nơi đếnchốn, mới chỉ học qua những bước cơ bản. Nhưng mọi người hãy tin ở cháu, những tòa tháp này thực sự đều là tác phẩm khắc hình đỉnh cao, cháukhông thể nhìn nhầm được.

Tiểu Đường nói chắc như đinh đóng cột lại còn biểu diễn cụ thể nữa,chúng tôi không thể không tin trong mười chín bức tranh sơn thủy nàyđúng là có ẩn chứa nghệ thuật khắc hình. Trong nhà ông Từ có mười chínbức tranh khắc hình, góc dưới đều đề tên ông, điều này không khỏi khiếnngười ta liên tưởng đến việc ông Từ bề ngoài là họa sĩ sơn dầu, nhưngthực chất rất có thể là một thợ xăm thân khắc hình, quả là đáng sợ.

Nhìn từng tòa tháp trong các bức tranh, tôi bất giác nghĩ đến hìnhxăm người chiến sĩ trên lưng cậu, có thể nào do cùng một người xămkhông, chẳng lẽ lại là ông Từ? Nhưng xem ra giả thuyết này không đúnglắm, những gì ông Từ kể lại cho tôi lúc ban ngày hoàn toàn không giốnglời nói dối, hơn nữa ông ta cũng không có lý do gì để gạt tôi, vậy phảilý giải điều này như thế nào đây?

Hai vợ chồng ông Từ bất ngờ bỏ đi, trong nhà không phát hiện thấy bất cứ dấu hiệu của hành vi cưỡng ép nên không thể coi là vụ án hình sự;đồng thời cũng không thể công khai truy tìm người mất tích bởi chúng tôi một là không có lý do đi báo án, hai là không muốn đánh rắn động cỏ,đành âm thầm cuộn những bức tranh lại, tắt điện đóng cửa cẩn thận rồingậm ngùi đi xuống lầu.

Hai giờ sáng, mưa tuyết đã tạnh, mây đen trên đầu dần tan, vầng trăng sáng trong dần hiện ra, hắt bóng khu chung cư thành một khoảng tối đennhư mực, còn phía xa tuyết phản chiếu ánh trăng, sáng đến lóa mắt. Gióbấc gầm rít ầm ầm, xoáy tung bụi tuyết thành từng đám mù mịt như sương.

Vừa đi được vài bước, Lão Mục đột nhiên kéo tay chúng tôi lại, giọng khẽ rít:

- Đứng im, mau nhìn xuống chân!

Tôi vội đứng lại, cúi đầu xuống nhìn. Có hai hàng dấu chân kéo dài từ cổng khu chung cư đến tận cửa cầu thang, phía trước là một đám dấu chân lộn xộn, lớp tuyết trắng xốp bị dẫm thành một vệt tròn, lõm hẳn xuốngso với xung quanh, chứng tỏ đã có người loanh quanh ở khu vực này.

Tôi sốt ruột, giữa đêm hôm khuya khoắt, lại đúng hôm trời đổ tuyếtlớn, nếu là người của khu chung cư này thì tại sao họ lại loanh quanh ởđây mà không vào nhà, chắc chắn đây không thể là do mộng du rồi. Ngườiđó có thể là ai chứ, là tên hung thủ giấu mặt chăng?

Nghĩ đến đây, tôi và Lão Mục quay sang nhìn nhau, cùng bước nhanh đến, quỳ xuống nền tuyết, tỉ mỉ quan sát.

Hai hàng dấu chân một ra một vào, khoảng cách bước chân khá ngắn, độsâu giống nhau, hoa văn dưới đế giầy lưu lại khá rõ nét, chứng tỏ ngườinày không to cao và dấu chân được lưu lại khi tuyết đã tạnh. Thế nhưngkhông ai trong chúng tôi biết tuyết ngừng rơi từ khi nào, vì thế khôngthể đoán được thời gian chuẩn xác người đó có mặt ở đây.

Do cánh cửa cầu thang luôn đóng kín, anh chàng đặc công trẻ tuổi lạichỉ canh cửa từ bên trong, nên cũng không thể biết chuyện đã xảy ra nhưthế nào. Tôi nghĩ một lúc bèn quay sang nói:

- Có thể xem lại băng ghi hình của camera giám sát.

Lão Mục lắc đầu nói:

- Không cần phải phiền phức như vậy đâu.

Nói rồi anh ta lại rút cây kim loại giống chiếc kẹp tóc ra, nhẹ nhàng khều lấy một ít bụi tuyết ở quanh mép dấu chân, không thấy tuyết bị vỡhay sụt xuống, sau đó anh ta lại đi đến phía đầu xe, cúi xuống kiểm tralớp tuyết dưới gầm, thấy cao hơn hẳn so với nền tuyết xung quanh. LãoMục mỉm cười hài lòng, quay lại nói với tôi:

- Nếu tôi đoán không nhầm thì sau khi chúng ta vào khu nhà được mộtlúc thì tuyết tạnh, người này đến ngay sau đó ít phút và đợi ở ngoài khá lâu, có lẽ đến khi nhìn thấy chúng ta tắt điện mới bỏ đi.

Theo dõi, lại là theo dõi! Đó là ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầutôi, thế nhưng nghĩ kỹ lại, tôi thấy không hợp lý chút nào. Tên lùnkhông rõ là nam hay nữ kia đã bị tôi huých bị thương, cho dù may mắnkhông phải nằm viện thì ít nhất cũng phải nằm liệt giường mười, mười lăm hôm, hắn không thể liều lĩnh bám theo đến đây được. Còn nếu nói có kẻkhác bám theo đuôi đội Lão Mục và Tiểu Đường thì có vẻ cũng không thựctế lắm, hơn nữa với năng lực của đội Lão Mục, chắc chắn họ đã sớm pháthiện ra rồi.

Loại trừ hai khả năng này thì chỉ còn khả năng cuối cùng là bọn người đã đưa vợ chồng ông Từ đi. Thế nhưng cũng lại không ổn, nếu chúng muốntheo dõi hành động của chúng tôi, sao lại phải chạy ra chạy vào như thế, cứ nấp một chỗ là được rồi. Mà cho dù nhất thời nảy ra ý định theo dõichúng tôi, thì tại sao lại mạo hiểm đến gần như thế, ngộ nhỡ bị pháthiện thì không phải là rất dở hơi sao?

Trong đầu tôi cứ mải suy nghĩ mông lung, chân bước lung tung khắpnơi, lớp tuyết bị tôi giẫm phát ra những tiếng lạo xạo, trên mặt đất phủ đầy tuyết xuất hiện thêm một vòng tròn dấu chân tôi ngay bên cạnh đámdấu chân trước đó.

Tôi từ từ dừng chân, cúi đầu quan sát, bằng trực giác tôi mù mờ đưara phán đoán như thế này: Người này không hẳn có ác ý, có thể hắn chỉmuốn đi vào để nói cho chúng tôi điều gì đó, nhưng không hiểu vì sao đến chân cầu thang lại bắt đầu do dự, cuối cùng vẫn lựa chọn việc bỏ đi.

Đồng thời, hôm nay cuối cùng gã lùn cũng đã quyết tâm hạ thủ tôi,nhưng tại sao chỉ có mình hắn ra tay mà không có đồng bọn hỗ trợ? Xét về quy mô và tính chặt chẽ trong tổ chức của chúng, chuyện này không hềkhó. Hồi ở Cẩm Châu theo dõi tôi, bọn chúng đã huy động đến mấy nhómngười cơ mà.

Càng nghĩ tôi càng thấy khó hiểu, mọi ý nghĩ tưởng thật hóa giả thinhau bật ra, sự việc ngày càng trở nên phức tạp tới mức khó dự đoán được điều gì, mỗi người trong cuộc đều ẩn chứa bí mật của riêng mình, còntôi thì gần như biến thành một con ngốc, ngày càng thêm lún sâu vào màmãi không tìm ra được manh mối nào rõ ràng cả. Nghĩ đến đây, dây thầnkinh đa nghi trong đầu lại bắt đầu hoạt động, tôi bất giác ngẩng lênnhìn Lão Mục và Tiểu Đường. Họ đều đang đứng sấp bóng, ánh trăng dịudàng tỏa sáng sau lưng, đổ bóng dài trên nền tuyết. Khuôn mặt hai ngườihọ mờ mờ nhưng ánh mắt lại lấp lánh ánh sáng, nhìn tôi không chớp mắt.

Tôi ngây ngô nhìn họ, đột nhiên thấy một cảm giác bất an dội lêntrong lòng, Lão Mục và Tiểu Đường lẽ nào cũng ẩn giấu những bí mật nàođó không thể cho người khác biết?