Cao Viễn khom mình hướng tới Cơ Minh nhận lỗi, bộ dáng kia trông vô cùng chân thành. Nhưng lão lại chẳng mảy may quan tâm đến hắn, mắt chỉ tập trung nhìn vào hồ nước phía bên trái cạnh góc tường ở hậu viện. Có lẽ màu xanh của làn nước đã làm sắc mặt lão dịu đi, tuy không đến mức ôn hòa thư hoãn, nhưng cũng không còn lộ ý chê trách khắt khe như lúc đầu.
- Biết sai là tốt! Nhưng kế đó con cũng nên nghĩ xem, bước tiếp theo con cần phải đi như thế nào?
Sau câu hỏi của Cơ Minh, mọi thứ đột nhiên trở nên im ắng đến lạ. Mặt hồ bấy giờ tĩnh lặng và yên ả thể như ánh mắt của lão ngay lúc này, lắng đọng không một gợn sóng. Nhưng sâu trong đôi mắt ấy, thoáng chốc lại lóe lên một điểm sáng nhập nhòe. Xem ra con trai lão nuôi dưới đáy hồ hai mươi năm qua, nay đã sắp đến lúc nhả ngọc.
Câu hỏi lão đưa ra tuy không có đáp án, nhưng lại làm Cao Viễn cảm nhận được ham muốn nguyên thủy nhất ở sâu trong con người hắn. Cao Viễn ngẩng đầu trông về phía xa, tịch dương bóng xế đốt cả nền trời, hun đúc trong tâm hắn một nỗi khát vọng to lớn. Trong tầm mắt hắn giờ đây, bầu trời phía trên đã chẳng còn đủ rộng lớn, mây vằn vện ở tầng cao cũng bỗng chốc hóa đơn điệu. Bởi vì nơi ấy, từ lâu đã thiếu đi bóng dáng hùng ưng.
- Con muốn được lãnh binh xuất chiến!
Ngữ điệu của Cao Viễn vào lúc ấy đột nhiên trở nên kiên quyết lạ thường. Lời hắn bất ngờ thốt lên khiến Cơ Minh có hơi sững người một thoáng. Nhưng rất nhanh sau đó, lão liền kín đáo giương môi, biểu cảm trên gương mặt nhiều thêm mấy phần mưu chước. Đúng là xương rồng thì chỉ nên sinh trưởng tại các vùng sa mạc. Ở nơi hoang sơ khắc nghiệt đó, loài cây này mới có thể phát triển một cách tự do và phát huy được hết giá trị của bản thân nó. Song, Cơ Minh vẫn chưa đáp lời, bởi lão hiểu rõ có quyết tâm thôi vẫn chưa đủ, lão vẫn đang đợi một thứ còn quan trọng hơn cả sự quyết tâm!
Cao Viễn đứng dưới ánh chiều tà, chầm chậm cùng bóng núi đổ xuống mặt đất một dáng hình hùng vĩ. Giữa không gian lặng phắt, bỗng có cơn gió hiu hiu từ đâu thổi đến làm sống dậy tiếng vó ngựa phi vang khắp trời. Hương hoa phảng phất xung quanh cũng chợt gợi lên một mùi khói lửa cay xộc xen lẫn chút vị máu tươi tanh nồng. Lập tức biến không khí nơi đây như trở nên thấm đẫm hơi thở của chúng binh sĩ trên chiến trường năm xưa, cuồn cuộn trong lòng hắn một nỗi rạo rực không thể cất thành lời.
Thấy Cơ Minh không có động tĩnh, Cao Viễn có hơi gấp gáp chớp mắt, miệng âm thầm nuốt lấy một ngụm nước bọt. Lúc này ánh mắt của sư phụ hắn vẫn hệt như hồ nước ở phía đằng kia, phẳng lặng khó dò, nhưng lòng hắn thì đã sớm khơi dậy những cơn bạo sóng. Không chịu được sự im lặng, Cao Viễn đành cứng rắn lần nữa mở miệng cầu xin, mà cũng như thể để khẳng định:
- Lần này con nhất định sẽ lấy lại vinh quang cho Cao gia, chấn hưng triều dã, tuyệt đối không làm cho sư phụ thất vọng! Sư phụ, xin người hãy giúp con!
Âm thanh ấy vang vang khắp không trung, chạm vào mặt hồ từng đợt nước động khe khẽ. Khi ấy lão mới nhẹ nhướn lông mày, chậm rãi quay sang nhìn hắn. Suốt hơn một năm vừa qua, đây là lần đầu tiên hình bóng của Cao Viễn mới được lão đặt ở trong mắt.
- Muốn xuất chiến? Vậy nói cho ta nghe, bài học thứ hai ta đã dạy con là gì?
Dứt câu, Cao Viễn liền cảm thấy lồng ngực mình như hẫng đi một nhịp. Ngữ điệu của hắn lúc đó cũng trở nên nghiêm chính, ánh mắt có phần sáng lên, cất tiếng:
- Thưa sư phụ, bài học thứ hai người từng dạy con đó chính là phép dụng binh khi giao chiến. "Thượng sách dùng mưu buộc địch phải quy hàng, trung sách dùng ngoại giao khiến địch khuất phục, sau cùng mới dùng đến hạ sách là động binh"(1). Lời người nói từ trước cho tới nay, con đều nhất mực ghi nhớ trong lòng, nửa chữ cũng tuyệt đối không dám quên!
Cơ Minh nghe hắn thao thao bất tuyệt, sắc mặt lão một chút cũng không động. Chỉ thấy vết nhăn trên trán lão càng lúc càng nhiều, chứng tỏ tâm tư lão bỏ ra cho Đông quốc trong thời gian vừa qua là không hề nhỏ. Biết được Cao Viễn sớm muộn rồi cũng sẽ ngộ ra thứ mà lão chờ đợi. Thế nên lúc đó lão chỉ dứt khoát xoay người lướt qua hắn, để lại chốn không gian lạnh lẽo này một linh hồn nóng rực:
- Tốt! Cái ta cần cho lần xuất chiến sắp tới chính là "Thượng sách". Khi nào nghĩ ra được thượng sách thì hãy đến Cơ phủ tìm ta!
Tà dương hôm ấy thắp lên trong lòng hắn một ngọn đuốc khát vọng tưởng chừng đã bị dập tắt từ lâu. Nhưng bên cạnh đó, nắng chiều cũng khiến lá cây trong viện Khang Ninh chết úa, lụi tàn.
Khang Ninh mang ý nghĩa yên ổn bình lặng, nhưng dường như xung quanh trạch viện này lại lãnh tịch bất thường, hầu như không có người lui tới. Tuy viện tử có phần vắng vẻ nhưng cách bài trí ở nơi đây không khỏi khiến cho người khác tròn mắt kinh ngạc. Khuôn viện có diện tích hơn bốn mươi nghìn thước, khắp nơi đâu đâu cũng có hoa thơm khoe sắc, rực rỡ muôn màu. Trên mái của mỗi gian phòng đều được lợp bằng ngói lưu ly vàng trông vô cùng nổi bật. Dưới ánh mặt trời, từng mảng ngói sáng lấp lánh đều mang một vẻ đẹp kiêu sa đầy quyền uy. Có lẽ chủ nhân của viện Khang Ninh này cũng thế, cũng tuyệt mỹ và chói mắt như vậy. Nhưng cảnh vật tuy rằng lộng lẫy, song dù sao nó cũng là thứ vô tri, đâu thể nào sưởi ấm lòng người! Lúc này đằng sau cánh cửa gỗ của một sương phòng nọ chợt vang lên giọng nói nghe có phần dè dặt, cẩn trọng:
- Thưa Vương phi! Vương gia vừa cho người truyền lời lại rằng, hôm nay ngài ấy sẽ ngủ lại ở thư phòng. Nói Vương phi không cần phải chờ cửa!
Lầu quỳnh điện ngọc sau câu nói đó cũng ít nhiều xuất hiện những vết nứt. Hóa ra cảnh đẹp nơi này cũng không thể khiến cho lòng người trở nên vui, bởi vì tâm người nào đâu đặt ở chốn đây.
- Được rồi! Ngươi lui xuống đi!
Cao phủ rộng lớn, ấm lạnh thất thường, lộng lẫy mà hoang liêu!
...
Chú thích
(1) "Thượng sách dùng mưu buộc địch phải quy hàng, trung sách dùng ngoại giao khiến địch khuất phục, sau cùng mới dùng đến hạ sách là động binh": Trích trong Thiên 03: Mưu công - Binh pháp Tôn Tử. Nguồn hocthuyetdoanhnghiep.edu.vn