Nữ tử che mặt nghiêng người liếc mắt nhìn Bàng Dục, nàng ta mặc dù tận lực kiềm chế nhưng vẫn không che được sự xem thường phát ra từ đáy lòng.
Nếu như hiện tại là ở Kim Lăng, cái loại thấy gió bẻ măng đang khinh này thì ngay cả cửa chính của Thất Tú Phường cũng đừng nghĩ tiến vào chứ đừng nói đứng ở đó mà ba hoa.
- A được rồi.
Bàng Dục vỗ đầu, làm như bỗng nhiên nhớ đến cái gì.
- Có một vấn đề ta vẫn muốn hỏi, vì sao cô nương lại muốn che mặt?
Khi đã nhận biết rõ "nhân phẩm" của hắn rồi, nữ tử che mặt đương nhiên sẽ không thèm để ý tới cái thứ gia đinh vô liêm sỉ này, nhẹ nhàng xoay chuyển thân thể mềm mại liền muốn rời đi, lưu lại một đường bóng lưng ưu mỹ khiến người người thèm nhớ.
- Ở trên đời này, thông thường có ba loại nữ nhân thích che mặt…
Bàng Dục bỗng nhiên kéo dài thanh âm.
Nữ tử che mặt vô ý thức dừng lại cước bộ.
- Một loại là xấu hơn cả Chung Vô Diệm, thuần túy là ô nhiễm khung cảnh, gây ảnh hưởng đến diện mạo phố phường, không che thì ngay cả ban ngày cũng đã hù chết người; một loại khác là lớn lên cũng được, đáng tiếc thời vận không tốt trên mặt có thêm vài cái sẹo hoặc là bớt gì đó, nếu lộ ra thì. . . hù chết người khác còn không đến nỗi, hình tượng nhất định là sẽ bị hủy toàn bộ cho nên phải che lại cho kỹ!
Bàng Dục bước lên phía trước, đưa cái đầu ra dựa vào thân ngọc đang đứng, cúi người xuống không kiêng nể gì cả kề sát lại nữ tử che mặt, hơi thở nóng rực thậm chí phun tại bên tai trong suốt như ngọc của nàng, khiến cho nữ tử che mặt có chút đỏ mặt muốn tránh né ra một bên, Bàng Dục khóe môi dắt lên một tia cười nhạt mười phần trêu tức:
- Còn một loại nữa mà, đó là ngày thường dung mạo không có gì nổi bật, xinh đẹp thì chả bằng ai, nhưng giỏi về tâm kế cố ý che một cái khăn trên mặt làm cho bản thân hình như rất thần bí. Nhất là cái loại gì như ca vũ phường a, thanh lâu a, ngươi có đẹp hay xinh xắn thế nào nhưng khi lộ ra khuôn mặt rồi thì đám khách nhìn lâu cũng thấy chán, nên cần phải che…
Bàng Dục cố ý dừng lại, ánh mắt không kiêng nể gì cả đảo qua thân hình thon dài, mảnh mai, bộ ngực cao ngất, cuối cùng dừng lại tại mũi ngọc cùng môi anh đào ẩn hiện dưới cái khăn che mặt của nàng.
- Hoàn toàn thất vọng.
Hắn liên tục lắc đầu:
- Aiz, lòng hiếu kỳ của những người ham vui ai lại không có a, nhìn ngươi cả ngày bị che mặt, mọi người liền cũng muốn biết dưới cái khăn che mặt rốt cuộc là một bộ dung mạo thế nào, hoặc đẹp hoặc xấu hoặc khuynh quốc khuynh thành hoặc xấu nhất trên đời, nhưng lại nhìn không được, vậy đương nhiên chỉ có nhiều lần tới mong muốn thử thời vận thôi, cái gọi là khách khứa đầy nhà nối liền không dứt kỳ thực chính là vì như thế mà tới.
- Ha ha ha…
Bàng Dục mới nói xong, Tiền Thị Tài đang bước nhanh xuống lầu chuẩn bị tóm lấy hắn chất vấn vì sao lấy tiền mà không làm việc đã cười đến khuôn mặt cũng co quắp, phản ứng của Xuy Tuyết so với hắn còn nhanh hơn, tay trái ôm bụng cười liên tục, tay phải thì ra sức vỗ bàn, gõ đến nỗi cái tay cũng sắp gãy.
Ta sút nát ch*m các ngươi giờ. Lão tử nói cho dù buồn cười cũng không cần làm thành như vậy chứ. Vỗ mông ngựa vài cái cũng không biết làm, đúng là hai tên chó má!
Bàng Dục lại muốn đá người.
Không thể nghi ngờ, những giả thuyết này là lời châm chọc trắng trợn đối với nữ tử che mặt. Nhất là từ trong miệng Bàng Dục, một tên 'gia đinh nho nhỏ' nói ra, ý hèn mọn cười nhạo càng đậm. Hồng y tỳ nữ hầu hạ nàng đỏ bừng cả mặt. Nam quản sự cái miệng càng mở lớn, tắc nghẹn ngay cả một câu cũng nói không được, mẹ kiếp, mắng chửi người cũng không cần bẩn như vậy chứ. Sự hèn mọn của tên gia đinh này cũng quá kinh đi.
Nữ tử che mặt vốn có sự kềm chế rất tốt, bình thường tuyệt không sẽ đơn giản mà tức giận. Nhưng trước đó bị tên Tiền Thị Tài cậy có tiền cưỡng bức. Bàng Dục không những chỉ tên nói họ mà lại còn châm chọc ở phía sau. Tính tình của nàng cho dù tốt, thường ngày có nhã nhặn trầm tĩnh lúc này cũng khó tránh được tâm sinh uấn nộ. Trong con ngươi thanh lệ mới vừa xẹt qua một tia giận dữ, Bàng Dục bên kia bỗng nhiên bổ sung thêm một câu.
- Tuy nhiên ta trước sau lại tin tưởng. Cô nương là loại thứ tư.
- Loại thứ tư?
Đang bực bội trong lòng, chợt thấy hắn nói lấp la lấp lửng, nữ tử che mặt nhịn không được, hiếu kỳ hỏi. Ra khỏi miệng mới cảm giác mình hơi thất thố.
- Đúng vậy, loại thứ tư, nữ nhân loại này uhm. . .đó là thuộc về…
Bàng Dục thầm nghĩ con cá đã mắc câu rồi, cố ý tăng thêm cái ngắt quãng không nói nữa.
- Thuộc về cái gì…
Lần này người nhịn không được chính là tỳ nữ kia.
- Ây, loại thứ tư hả…nữ nhân loại này…ây…
Bàng Dục vẫn không nói, ánh mắt láo xược cứ nhìn chằm chằm bộ ngực đang hơi phập phồng của nữ tử che mặt, chân mày khóe mắt đều lộ vẻ thèm nhỏ dãi, khóe miệng nước miếng cũng sắp chảy xuống.
Chờ cho nữ tử che mặt tức giận thêm một lần nữa, khi quay đầu chuẩn bị bỏ đi, Bàng Dục bỗng nhiên cất cao giọng như pháo nổ một chuỗi liên tiếp, nói một hơi bổ sung:
- Loại nữ nhân này ư, đó là trời sinh sở hữu vẻ đẹp nguyệt mạo hoa dung tài nghệ điêu luyện được sinh ra từ linh khí trên trời, đẹp đến nỗi xuất trần vật ngoại, siêu phàm tuyệt tục. Cho nên mang khăn che mặt đó là e sợ ghen ghét đàm tiếu, mỗi một bộ phận trên mặt đều toát ra một vẻ đẹp khiến cho nam tử trong thiên hạ vong hồn thất phách, vì mỹ nhân mà không tiếc.
- Ài, ngẫm lại chuyện phong hỏa hí chư hầu Chu U Vương vì muốn đạt được một nụ cười của Bao Tự kết quả bị mất giang sơn, ngẫm lại chuyện Ngô vương Trịnh Đán sủng hạnh Tây Thi, người vì thế mà vong quốc dẫn đến phải tự vận để tạ tội với thiên hạ, lại nghĩ đến Đường Huyền Tông vì độc sủng Dương Quý Phi thiếu chút nữa ngay cả đại Đường cũng phải mất. Càng nghĩ thì càng rõ vì sao những nữ tử trời sinh đoan trang mỹ lệ đó phải mang theo một tấm lụa mỏng để che mặt!
- Liền nói đến cô nương đây!
Hắn nói rất nhanh nhấn mạnh từng chữ, không để cho nữ tử che mặt hay bất luận kẻ nào có cơ hội nói chen vào .
- Tuy rằng che mặt, nhưng khuôn mặt dưới tấm lụa mỏng như bức tranh mùa xuân hoàn mỹ, như nước hồ thu, mỹ lệ đến nỗi không có chỗ nào mà không phải là tiểu sinh chưa bao giờ có thể thấy qua, mỹ lệ đến nỗi…nói như vậy đi, trong kinh thành có bao nhiêu là mỹ nhân danh môn khuê tú trên phố, vốn cũng có không ít như hoa như ngọc, thế gian khó gặp, thế nhưng cùng so với cô nương ngươi quả thực đúng là cửu thiên cửu địa, một trời một vực! Danh xưng kinh thành đệ nhất mỹ nhân đặt trên người ngươi đó là một chút cũng không quá đáng.
Một phen bình phẩm này vừa nói ra, Xuy Tuyết hầu như vỗ án tán dương.
Cao, thật sự là cao a, chủ tử lúc này, lúc này mới gọi là siêu mồm mép tán gái đại cảnh giới!
Nếu như chỉ là đơn thuần thổi phồng khen ngợi, nữ tử che mặt có lẽ đã sớm nghe quen rồi. Tại Kim Lăng, nam nhân xếp thành từng đống đều khen nàng như thế! Nhưng tại đây, trước đó nàng bị Bàng Dục tận lực châm chọc khiến cho tức giận, mắt thấy liền muốn phát tác, nào ngờ lời nói lọt vào tai trong nháy mắt biến thành gần như thổi phồng vỗ mông ngựa hoặc là nói a dua xiểm nịnh kiểu mấy tên hoạn quan càng đúng hơn, nhất chính nhất phản, trước thì đểu sau đó thì ca tụng, so sánh toàn với các đại mỹ nhân của lịch sử, khiến cho nàng sau khi nghe được ngôn ngữ ca ngợi của Bàng Dục thấy trong lòng có chút bay bổng, tim đập mạnh hơn, ngay cả gò má dưới tấm lụa mỏng cũng ửng hồng lên.
Có lạnh lùng, có thanh cao nữa thì nàng cũng là nữ nhân! Nữ nhân, ai lại không thích được khen đẹp?
Huống chi lại là phương pháp khen ngợi nghệ thuật như thế.
Bàng Dục xem ra là muốn lấy mình làm gương, phải dạy cho Xuy Tuyết biết một chút rốt cuộc cái gì mới gọi là vuốt mông ngựa. Bàng Dục nói xong một phen liền đổi lại một bộ vẻ mặt say sưa, rung đùi đắc ý cảm thán nói:
- Ai nha nha, Thất Tú Phường của cô nương đều không phải là xuất nguồn từ triều Đường sao, ta cảm giác có một bài thơ hình như là chỉ viết vì ngươi thì phải. Có nghe qua bài thơ vịnh hoa Mẫu Đơn của Lý Chính Phong chưa? 'Quốc sắc triêu hàm sái, thiên hương dạ nhiễm y', rõ ràng là tả hoa, thực ra 'Quốc sắc thiên hương' chính là khen cô nương căn bản là so với hoa còn muốn xinh đẹp hơn.
Trích:
李正封
Lý Chính Phong
牡丹诗
Mẫu đan thi - Thơ vịnh hoa mẫu đơn
国色朝酣酒, 天香夜染衣。
Quốc sắc triều hàm tửu,thiên hương dạ nhiễm y。
丹景春醉容, 明月问归期。
Đan cảnh xuân túy dung,minh nguyệt vấn quy kỳ
Trích:
Dịch nghĩa( với sự giúp đỡ của dịch giả TheJoker):
"Sắc nước khiến ban mai đắm chìm trong men rượu, màn đêm nhuộm sắc hương trời" => vẻ đẹp cả ngày lẫn đêm.
"Cảnh son khiến mùa xuân say mê dung mạo, làm vầng trăng tỏ kia phải hỏi ngày trở về" => sắc đỏ của mẫu đơn rợp tràn trong mùa xuân khiến đất trời ngây ngất.
Nữ tử che mặt cuối cùng chịu không nổi, hai má đỏ ửng, cách tấm lụa mỏng đều có thể thấy được.
- A đúng rồi cô nương.
Bàng Dục thì lại không biết đủ, vô liêm sỉ hỏi:
- Ngươi tên là gì, có thể nói cho ta biết hay không, ta rất muốn ba ngày kế tiếp cũng vì vậy mà vui vẻ ngủ không yên.
- Trâu…
Nữ tử che mặt buột miệng nói ra, tuy rằng kịp thời dừng lại nhưng ngực vẫn là nhảy bịch bịch, nhịn không được cầm tay vỗ nhẹ lên ngực.
- A, ngươi gọi Trâu Hi Vân đúng không. “Thanh phong minh nguyệt thì vãng lai, hồng trần bất đọa hi vân đôi”, người cũng như tên, đẹp, đẹp, thực sự là đẹp!!!
Cái lỗ tai Bàng Dục rất thính, vừa nghe ngữ khí cộng thái độ của nữ tử che mặt thì biết nàng chính là cái gì Hi Vân tỷ mà tỳ nữ hầu hạ trà nước vừa mới nhắc qua, mở miệng chính là một mạch ba từ ' Đẹp' nện xuống, làm cho nữ tử che mặt ngất ngây vui sướng. Thật vất vả mới khôi phục lại tâm tình, cặp mắt long lanh như nước của nàng trừng mắt nhìn hắn, tuy rằng nỗ lực muốn cho ánh mắt trở nên lạnh lẽo một chút, nhưng thế nào cũng che không được vẻ mừng mà như không, giận mà như không ở trong con ngươi.
君家竹素园,异彼篔簹谷。
插架牙签三万轴,卷藏东观吞天禄。
‘清风明月时往来,红尘不堕香芸堆� � �
蝌蚪鸟迹一玉开,怀幽抱密真奇哉。
炙汗不流珠光重,信知龙种皆书种。
黄钟声切凤皇啸,玉杯光焰麒麟动。
十年不下君子堂,灯火夜静声琅琅。
岁寒节操固自常,厌看花柳争春忙。
金谷平泉暗烟雨,兔麦狐葵无定主。
何如竹素园简编?且容与玉振金声千� � �古。
1. 君家竹素园, 异彼筼筜谷。
Quân gia trúc tố viên,dị bỉ vân đương cốc。
2. 插架牙签三万轴, 卷藏东观吞天禄。
Sáp giá nha thiêm tam vạn trục,quyển tàng đông quan thôn thiên lộc。
3. ‘清风明月时往来, 红尘不堕香芸堆� � �
‘thanh phong minh nguyệt thời vãng lai,hồng trần bất đọa hương vân đôi � � �
4. 蝌蚪鸟迹一玉开, 怀幽抱密真奇哉。
Khoa đẩu điểu tích nhất ngọc khai,hoài u bão mật chân kì tai。
5. 炙汗不流珠光重, 信知龙种皆书种。
Chích hãn bất lưu châu quang trọng,tín tri long chủng giai thư chủng。
6. 黄钟声切凤皇啸, 玉杯光焰麒麟动。
Hoàng chung thanh thiết phượng hoàng khiếu,ngọc bôi quang diễm kì lân động。
7. 十年不下君子堂, 灯火夜静声琅琅。
Thập niên bất hạ quân tử đường,đăng hỏa dạ tĩnh thanh lang lang。
8. 岁寒节操固自常, 厌看花柳争春忙。
Tuế hàn tiết thao cố tự thường,yếm khán hoa liễu tranh xuân mang。
9. 金谷平泉暗烟雨, 兔麦狐葵无定主。
Kim cốc bình tuyền ám yên vũ,thỏ mạch hồ quỳ vô định thiển。
10. 何如竹素园简编 ? 且容与玉振金声千� � �古。
Hà như trúc tố viên giản biên?Thả dung dữ ngọc chấn kim thanh thiên � � �cổ。
Dịch nghĩa:
Đây là một bài thờ đề của một bức tranh.
Tranh là Trúc Tố Đồ của Trần Tượng Hiền, Vương Miện đã đề bài thờ này lên bức tranh.
Câu thứ 1:
Trúc tố: chỉ trúc bạch (sách vở) ngày xưa chưa biết làm giấy, cứ lấy sơn viết vào cái thẻ tre hay mảnh lụa, vì thế nên gọi sách vở là trúc bạch 竹帛. Như danh thùy trúc bạch 名垂竹帛 (Tam quốc diễn nghĩa 三國演義) tiếng ghi trang sách vở. Trúc Tố Viên: ở đây chỉ đình viện của Trần tiên sinh.
Vân đương: một loại tre to “Dị Vật Chí” của Hán Dương Phu viết: “Vân đương mọc ở ven bờ nước, cao vài trượng, to một thước năm sau phân, mỗi một đốt dài sáu, bảy thước hoặc một trượng, mọc ở vùng Lư Lăng ”
Cốc: Một vùng lõm hình máng ở trong núi. Bởi vì thường phần bố ở trong núi cao hoặc sơn mạch, ít dấu tích con người, là nơi vô cùng thanh u, tĩnh mịch. Do đó bậc hiền giả thường ẩn cư ở đây
Ý của câu thứ nhất là : Trúc Tố Viên mà tiên sinh đang cư trú, có chút khác biệt so với sơn cốc thanh tịnh mọc đầy tre to kia, cho dù rừng tre u cốc đó là nơi mà những người như tiên sinh đây thích.
Câu thứ 2:
Sáp (tráp) giá: là giá sách treo trên tường ngày xưa.
Nha thiêm: nhãn sách của sách cổ hình quyển. Ở đây là chỉ thư tịch. Hình dung sự tinh xảo, đẹp đẽ của thư tịch.
Tam vạn trục: Hư từ, không phải chỉ con số cụ thể. Ở đây hình dung số lượng thư tịch khổng lồ của Trần tiên sinh.
Đông Quan: chỉ lầu, các. Là tên gọi của một lầu trong Nam cung, Lạc Dương thời Tây Hán. Là nơi cất giữ thư tịch của hoàng gia. Ở bài thơ này chỉ nơi chứa sách.
Thiên Lộc: là tên một các thời Hán. Cũng là nơi cất giữ thư tịch của hoàng gia.
Đông Quan Thiên Lộc: hình dung nơi chứa thư tịch phong phú, nội dung sâu rộng.
Nghĩa của câu hai: Giá sách ở trên tường bày đầy thư tịch, đống thư tịch này phong phú và sâu rộng, có thể so sánh được với thư tịch ở Đông Quan Thiên Lộc
Câu thứ 3:
Thanh phong minh nguyệt: hình dung vẻ đẹp tự nhiên, thanh u, yên tĩnh. Nhưng ở đây còn có ẩn ý: chỉ làm bạn với trăng sáng, gió mát; không tùy tiện kết giao bạn bè; chỉ sự nhàn nhã. Tiên sinh xa rời quyền quý công danh.
Hồng trần, chỉ sự chìn nổi, cũng chỉ sự phồn hoa náo nhiệt của đô thị. Nhưng câu này có ý nghĩa sâu xa, bên ngoài thì chỉ bụi không rơi vào sách, nhưng lại ám chỉ tính cách thanh cao của Trần tiên sinh, sự huyên náo của đô thị không nhuộm được phẩm tính thanh cao của Trần tiên sinh. Thơ TQ hay là hay ở đây “chỉ khả hội ý bất khả ngôn truyện”, “ý tại ngôn truyện”.
Hương vân: một loại cỏ thệm thuộc loại Vân hương. Còn gọi Thất Lý Hương. Có hương thơm kỳ lạ, có tác dụng đuổi trùng, chống mối, những nhà cất giữ thu tịch ngày xưa thường dùng để tránh mối một. Ở bài thơ này chỉ sách. Cũng ám chỉ phẩm chất thanh cao của Trần tiên sinh.
Nghĩa của câu thứ ba: Thư trai của tiên sinh thật là thanh tịnh dưới trăng sáng gió mát, một chút bụi trần của trần thế cũng không thể bay vào đống thư tịch.
Câu thứ 4:
Khoa đẩu: một thể chữ thời cổ
Điểu tích: một thể chữ ngày xưa, hình dáng giống như vết chân chim.
Khoa đẩu điểu tích: chỉ sự chân quý của thu tịch, cũng chỉ nội dung sâu rộng của thư tịch.
Ngọc khai: Ngọc, cách dùng từ tôn kính, dùng để chỉ nối nói hành động cơ thể của đối phương. Ngọc khai chỉ tiên sinh giở thư tịch.
Hoài bão: ở đây chỉ sự hàm chứa, chứa đựng
U mật: ở đây chỉ đọa lý sâu xa thâm thúy trong sách.
Nghĩa của câu thứ tư: trân trọng mở thu tịch ra, tiên sinh hiểu biết đạo lý sâu xa, thâm thúy và ý cảnh cao xa trong sách, thật là kỳ diệu.
Câu thứ 5:
Chích: dùng lửa nung, hơ
Hãn: ngày xưa chưa biết làm giấy, thư tịch thường dùng trúc giản để làm thành. Bởi trong tre còn có nước, không dễ không chữ, nên người xưa thường hơ trúc giản trên lửa. Qua đó trúc giản dễ khắc chữ, lại có thể chống mối mọt. Người xưa thường gọi cách làm này là “sát thành” hay “hãn thanh”, ở câu này chỉ sử sách. Câu này có nghĩa: đặt trúc hơ trên lửa, trúc dịch mầu xanh trong trúc chảy ra, ngưng thành từng giọt từng giọt mồ hôi xanh, nhưng không rơi xuông mà phát sáng như trân châu.
Long chủng: một loại trúc, bời vì hình dáng giống cầu long (con rồng có sừng)
Tín thi long chủng giai thu chủng: cuối cùng cũng tin là long chủng chính là sách (phẩm chất của trúc cũng giống như phẩm chất của sách).
Câu thứ 6:
Hoàng chủng: là đệ nhất luật của 6 loại Dương luật trong mười hai loại âm vận của Trung Quốc cổ đại. Hình dung âm nhạc hay lời nói trang nhiêm, chính đại, hài hòa. Ở đây chỉ phẩm hạnh thanh cao của Trần tiên sinh.
Phượng hoàng: chỉ tính cách thanh cao của phượng hoàng, không phải sương sớm thì không uống, không phải trúc non thì không ăn, không phải cây ngô đồng ngàn năm thì không đậu.
Ngọc bội: Ngọc thời cổ tượng trưng phẩm hạn của bậc quân tử.
Quang diễm: chỉ ánh sáng mà ngọc bôi phát ra.
Kỳ lân: thần thù trong truyền thuyết, cũng dùng để ca ngợi tài văn của người khác.
Câu này có nghĩa: âm nhạc đẹp đẽ, kỳ diệu hấp dẫn phượng hoàng, ánh sáng của ngọc bôi cũng làm kỳ lân phải động lòng.
Câu thứ 7: Đã mười năm rồi tiên sinh không rời khỏi, trời tối rồi, từ ánh đèn truyền lại tiếng đọc sách văng vẳng.
Câu thứ 8: Mùa đông lạnh lẽo, tuy rằng cỏ cây thưa thớt, nhưng chây trúc vẫn kiên cường, giữ vững phẩm chất của mình, vẫn xanh như vậy, trúc không muốn tranh giành xuân sắc với liễu hoa.
Câu thứ 9:
Kim Cốc: tên vườn. Thạch Sùng xây dựng thời Trấn, tại tây bắc thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam hiện nay.
Bình Tuyền: có thể là giếng nước trong Kim Cốc viên, vườn của TQ ngày xưa có vườn tất có nước…
Ý của câu 9: Ngày nay Kim Cốc vườn đắm mình trong khói mưa, chỉ là đã hoang phế, thỏ hoang, hồ ly chơi trò chơi giữa đám gạch hoang ngói tàn, lúa hoang và rau Quỳ dại cũng mọc đầy ở trên. Có thể thấy phú quý quyền thế cũng vô định. ( tỷ dụ nhân sinh vô thường, sự đổi thay của giang sơn).
Ý câu 10: Phú quý giầu sang sao bằng tàng thư trong vườn của tiên sinh chứ. Hãy để đống thư tịch này làm tiếng ngọc tiếng kim chấn vang thiên thu vạn cổ.
Dịch:
Thơ đề tặng bức tranh Trần Tượng Hiền
Nhà của ông/ngài trồng trúc trắng thay vườn/dùng trúc trắng làm vườn, nhưng trông khác với những rừng trúc Vân Đương bình thường khác
Trên giá chất hàng vạn trang sách (bằng thẻ trúc), lưu trữ sách nhiều không thua gì lầu Đông Quan, lầu Thiên Lộc
Quanh năm đắm mình trong gió mát trăng trong, chốn tiên không dính chút bụi trần
Mở sách ra thấy toàn nét chữ Khoa đẩu, Điểu tích cổ kính, toàn ý tứ thâm sâu chứa đầy cảm xúc, thật là bậc tài giỏi (khoa đẩu, điểu tích là hai loại chữ viết cổ của TQ, ý nói ông ta lưu trữ được nhiều sách cổ quý giá)
Hong khô thẻ trúc phát ra ánh sáng như châu báu, tin rằng loại trúc Long chủng đều dùng làm sách/có tính cao quý như sách???
Tiếng chuông đồng trong trẻo khiến chim phượng hoàng phải hót theo, chén ngọc bóng bẩy khiến loài kỳ lân cũng phải động lòng
Cả chục năm (ông/ngài) đều không rời khỏi Quân tử đường, trong đêm vắng (lúc nào cũng) thấy ánh đèn lửa và tiếng đọc sách sang sảng
Thời tiết giá lạnh mà (cây trúc) vẫn coi như thường, (cao quý) không thèm tranh đua sắc xuân với hoa với liễu
Vườn Kim Cốc (bây giờ) ảm đạm trong mưa phùn, cáo thỏ chạy nhảy lung tung khắp nơi (vườn Kim Cốc do Thạch Sùng lập ra, ý nói giàu sang rồi cũng lụi tàn)
Sao bằng được sống giản dị ở vườn trúc trắng, ung dung thoải mái mà tên tuổi còn mãi như ngọc như vàng, như trời xanh.
(Tạm dịch thơ)
Thơ đề bức tranh Trúc Tố Đồ của Trần Tượng Hiền
Thanh nhàn ở Trúc Tố Viên,
Vân Đương cốc mỹ cảnh liền chẳng mơ
Giá sách ba vạn cuốn thơ,
Đông Quan Thiên Lục có cơ sánh bằng
Tới lui gió nhẹ vờn trăng,
Cỏ thơm đâu bị nhuốm chăng bụi trần
Văn xưa như ngọc hóa vần,
Diệu thay thâm ảo vang ngân cõi lòng
Trúc hơ toát ngọc xanh trong,
Đốt thô bay lượn dáng rồng uốn lưng
Phượng hoàng say điệu Hoàng chung,
Kỳ lân thăm chén ngọc bừng ánh quang
Mười năm, rời bước chẳng màng
Đèn khuya, quân tử ngâm vang sách nào
Đông sang, trúc vẫn thanh cao,
Mặc hoa liễu sắc xuân nào tranh phong
Kim Cốc, suối lặng, mưa xong,
Thỏ luồn rau dại, cáo vòng lúa hoang
Trúc Tố Viên chẳng cao sang,
Giản đơn ngân tiếng ngọc vàng thiên thu
• Vương Miện 王冕 (1287-1359) tự Nguyên Chương 元章, biệt hiệu Chử Thạch sơn nông 煮石山農, Phóng ngưu ông 放牛翁, Cối Kê ngoại sử 會稽外史, Mai hoa ốc chủ 梅花屋主, người Chư Kí, Chiết Giang, là thư gia trứ danh đời Nguyên. Ông xuất thân bần hàn, cuộc sống gian khổ. Từ nhỏ chăn trâu, nhờ tự học mà sau trở thành thông nho. Cuối đời, ông sống ẩn dật ở Cối Kê (nay là Thiệu Hưng, Chiết Giang) trên núi Cửu Lý, trồng đỗ, trồng rau, làm vườn nuôi cá duy trì cuộc sống. Tác phẩm có: "Trúc trai thi tập".
Loại khẩu pháp khen của này của tứ ca, ở thời hiện đại thì sẽ bị chửi là thằng hâm, nhưng ở thời cổ đại thì đúng là làm cho nữ nhân không đỡ được.
- Được rồi Trâu cô nương.
Bàng Dục được đằng chân lân đằng đầu, công phu da mặt dày được hắn phát huy đến tận cùng.
- Nếu không ngại, chúng ta có thể tìm một chỗ đem cái khăn che mặt nhấc lên hay không, để cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp quốc sắc thiên hương của cô.