Tarzan 3: Luật Của Rừng Già

Chương 15




Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Lần theo dấu vết của hai kẻ chạy trốn, Tácdăng đi đến khoảng giữa ngôi làng Ganoada và sông Ugam thì gặp đàn thú của mình. Mugambi vô cùng ngac nhiên. Chàng ta nói rằng, suốt dọc đường đi tìm Tácdăng chàng ta chẳng gặp một người da trắng nào cả.

Quan sát kỹ những dấu vết trên đường Tácdăng biết là Gian Potơrova và Rôcốp không chạy cùng một lúc, mà người chạy trước, kẻ chạy sau. Dường như Rôcốp bám theo Potơrova từng bước và khoảng cách giữa hai người cứ mỗi lúc một ngắn lại. Vết chân của Potơrova bị lẫn với vết chân đàn vượn và đủ loài thú rừng. Còn những vết chân của Rôcốp thì vẫn còn tươi mới, nguyên vẹn. Dấu chân đàn thú mỗi lúc một thưa dần. Khi Tácdăng đi tới gần bờ sông, chàng xác định rằng Rôcốp chỉ còn cách Potơrova khoảng chừng vài trăm mét.

Gặp một khoảng rừng dày, có nhiều loài dây leo, Tácdăng bỏ mặt đất, nhảy vọt lên cành cao, lao mình tiến về phía bờ sông. Lớp bùn ven sông còn in rõ vết chân của hai kẻ chạy trốn và một con thuyền vừa bị kéo khỏi bờ, đi đâu không rõ. Hình như con thuyền đã lênh đênh trên một quãng sông nào đó rồi. Tácdăng đảo mắt quan sát xung quanh. Chỉ một vài giây, chàng đã phát hiện ra dưới bóng cây ngả sát xuống mặt sông phía xa có một con thuyền, trên thuyền nổi rõ bóng dáng một thân hình đàn ông.

Đàn thú và Mugambi chạy tới gần sông Ugam thì trông thấy ông chủ của mình đang chạy dọc bờ, hướng tới một quả đồi nằm ở đoạn sông uốn khúc. Để đuổi kịp chàng, Mugambi quyết định phải chạy theo một lối tắt . Mugambi thúc đàn thú đổi hướng rồi cố gắng bám theo vết chân của chúng.

Chạy khoảng nửa giờ, xuyên qua những đầm lầy hoang dại và những cù lao nhấp nhô dọc lòng sông, Tácdăng đã tiếp cận mục tiêu săn đuổi: Nicôlai Rôcốp đang điều khiển chiếc thuyền độc mộc trôi xuôi dòng nước. Rôcốp ở đấy nhưng Gian Potơrova của chàng thì ở đâu? Nghĩ tới khuôn mặt thân yêu của người vợ trẻ, Tácdăng nhìn thẳng về phía kẻ thù, thét lên một tiếng dài man rợ. Đó là tiếng thét quyết chiến, rất quen thuộc trong bộ lạc vượn ngày xưa. Cùng với tiếng thét ấy, vết sẹo trên mặt chàng đã bắt đầu ửng đỏ.

Nghe tiếng thét man dại phát ra từ những lùm cây dọc bờ sông, Rôcốp giật mình, ngoái đầu tìm kiếm. Hắn nằm bò xuống lòng thuyền, hai hàm răng đánh vào nhau lộp cộp. Hắn đã trông thấy Tácdăng - mối đe dọa khủng khiếp nhất trong cuộc đời hắn. Tácdăng đang chạy thẳng về phía con thuyền. Nỗi lo sợ của Rôcốp đã biến thành nỗi tuyệt vọng khi Rôcốp trông thấy Tácdăng vọt mình lao bổ xuống lòng sông. Tại sao Tácdăng không chết? Vì sao Tácdăng thoát khỏi chiếc cọc hành hình? Rôcốp không thể nào hiểu nổi. Hay đây chỉ là một hình ảnh trong một cơn mê sảng? Nhưng dù là ác mộng hay là một sự thật phũ phàng, Rôcốp cũng phải cố tìm đường tẩu thoát.

Chỉ bằng mươi sải tay mạnh mẽ, Tácdăng đã bơi tới con thuyền của Rôcốp. Thấy mình đã bị dồn tới đường cùng, Rôcốp vội vã ngỏm đầu dậy nhặt lấy một mái chèo trong lòng thuyền, khuấy nước hối hả. Vừa chèo thuyền hắn vừa đảo mắt quan sát chung quanh, láo liên như một kẻ phát cuồng.

Chính vào lúc cuộc đuổi bắt đang đến đoạn kết thúc thì ở phía bờ sông bên kia cũng bắt đầu nhô lên khỏi mặt nước một cái đầu sần sùi. Cái đầu sần sùi ấy cứ lừ lừ hướng tới con thuyền mà chẳng gây một tiếng động nhỏ.

Tácdăng đã bơi tới chiếc thuyền, định vươn tay lên cao tóm lấy mép thuyền. Trông thấy Tácdăng đã nhô hẳn mặt lên khỏi mặt nước, Rôcốp im như pho tượng. Hắn đã mất hết khả năng cử động, chỉ biết nhìn vào mặt kẻ trừng phạt mình bằng bằng cặp mắt đờ đẫn của một con thỏ bị săn, hết đường chạy trốn.

Đột nhiên hắn trông thấy sau lưng Tácdăng có một xoáy nước rất lạ. Không đầy một giây sau, hắn đã hiểu ra nguyên nhân của xoáy nước. Cũng đúng lúc ấy, Tácdăng cảm thấy chân phải của mình bị một hàm răng nhọn tợp mạnh và bị giữ chặt. Tácdăng cố gắng vùng vẫy, hy vọng thoát khỏi gọng kìm nhọn trong nước và nhoài người lên lòng thuyền. Nhưng chàng đã không lên được lòng thuyền. Nếu như Rôcốp là một kẻ thông minh, hắn sẽ hiểu ra đây là một cơ hội tốt cho hắn lập công chuộc tội. Nếu như hắn cứu Tácdăng lên thuyền, hẳn là hắn sẽ được tha thứ rất nhiều. Tiếc là lúc này hắn lại bò xuống lòng thuyền như một con rắn độc. Chộp lấy mái chèo, hắn dùng toàn bộ sức mạnh quật mái chèo vào đầu Tácdăng.

Những ngón tay của Tácdăng từ từ rời khỏi mép thuyền. Ngay sau đó, một cuộc thủy chiến diễn ra dưới mặt nước. Khúc sông đột nhiên như bị đun sôi. Từ lòng sông sâu thỉnh thoảng lại đùn lên những chiếc bong bóng. Cái đầu sần sùi của con cá sấu nhô lên rồi thoắt biến đi trong vùng nước xoáy, lởn vởn mái tóc dài của Tácdăng. Không đầy nửa phút sau, ông chủ của rừng già đã biến mất trong những con sóng xanh của dòng Ugam bí ẩn.

Rôcốp ngã quỵ xuống lòng thuyền một cách mệt mỏi. Hắn không đủ khả năng hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra. Điều duy nhất mà hắn nhìn thấy nhãn tiền là hình ảnh cơ thể của người khổng lồ da trắng biến mất vô tăm tích khỏi mặt nước. Chắc rằng cái thân người ấy đã chìm vào lòng bùn thối của đáy sông.

Hình như Rôcốp đã hiểu ra điều gì. Trên khuôn mặt nhớn nhác của hắn rạng rỡ một nụ cười đắc thắng. Nhưng niềm vui của hắn kéo dài chẳng được bao lăm. Bởi vì hắn lại cảm thấy nguy hiểm khi nghe thấy từ bờ sông đối diện vang lên một tiếng gầm khàn khàn. Hắn nhìn sang bờ sông, xác định nơi phát ra tiếng gầm và nhận ngay ra khuôn mặt của một con báo hoa. Con báo đang nhấp nháy đôi măt một cách giận dữ. Sau lưng con báo là một đàn vượn và một chiến binh da đen cao lớn đang đe dọa Rôcốp bằng nắm đấm từ xa.

Từ giây phút ấy, đạo quân kỳ quái của Tácdăng báo theo Rôcốp như một bóng ma. Suốt dọc đường bơi trên sông Ugam, lúc nào Rôcốp cũng thấy đạo quân ấy lởn vởn xuất hiện bên bờ sông cả ngày lẫn đêm. Có những lúc, đàn thú biến mất trong rừng già, có vẻ như đã bỏ đi, không bao giờ trở lại, để rồi một vài tiếng sau chúng lại đột ngột xuất hiện trên một lối mòn dọc sông. Chúng bám theo Rôcốp một cách kiên nhẫn, dai dẳng, không mệt mỏi, khi là hình dáng uyển chuyển của một chiếc lưng báo hoa, khi thì bằng hình ảnh một người đàn ông da đen vạm vỡ lẩn khuất trong bóng cây, chỉ lộ ra đôi mắt trắng dã. Đôi lúc Rôcốp hoang mang, chẳng còn tin vào mắt mình, chẳng còn biết là hình ảnh thật hay chỉ là ảo ảnh.

Dọc đường bơi, Rôcốp đã vượt qua mấy ngôi làng của dân ven sông. Có làng đã cho các chiến binh lên thuyền độc mộc, bơi ra vây bắt Rôcốp. Nhưng khi thấy đàn thú của Tácdăng xuất hiện trên bờ, các chiên binh da đen vội vã bỏ thuyền, trốn vào rừng sâu.

Thế còn Gian Potơrova đang ở đâu?

Điều này thì chính Rôcốp cũng không rõ. Rôcốp đã đánh tuột cô khỏi tay từ lúc tóm được sợi dây buộc thuyền. Hắn tưởng rằng tóm được sợi dây thừng là hắn tóm gọn được con mồi ương ngạnh, bướng bỉnh. Nhưng rồi ngay sau đó, hắn đã cụt hứng, thậm chí bị một phen suýt chết. Bởi vì khi trông thấy con thuyền của mình bị Rôcốp kéo ngược trở lại vào bờ, Potơrova đã nhớ ra con dao. Cô định dùng dao chặt đứt sợi dây nhưng rồi lại nhớ ra khẩu súng. Cô chộp lấy khẩu súng săn rất to, chĩa thẳng vào ngực Rôcốp. Nhìn mũi súng đen ngòm và đôi mắt vừa giận dữ vừa lạnh lẽo của cô gái, Rôcốp dựng đứng cả tóc gáy. Hắn vội vàng vứt ngay sợi dây xuống đất như phải bỏng rồi quay đầu bỏ chạy. Sau vài giây hoảng loạn, hắn đổi hướng, co cẳng chạy về phía một nhánh sông khác - nhánh sông mà hắn đã giấu con thuyền dùng để truy đuổi Potơrova và chàng vệ sĩ tình nguyện Thụy Điển ngày trước.

Số phận của người thiếu phụ Bantimo xinh đẹp đó thế nào? Về điều này thì Rôcốp cho rằng: sau khi vuột khỏi tay mình, cô đã bị những chiếc thuyền độc mộc của thổ dân ven sông mà cô đi qua tóm gọn. Ven bờ sông có khá nhiều ngôi làng được dựng lên rải rác. Trông thấy một người da trắng chèo thuyền vừa vụng về vừa hoảng hốt, những người da đen sẽ chú ý ngay. Khi người cưỡi thuyền độc mộc lại là một phụ nữ da trắng mịn màng thì sự tò mò của đám đàn ông da đen thường được nhân lên gấp bội... Giả thiết như vậy, Rôcốp không khỏi luyến tiếc chua chát. Có điều, bằng mọi giá, công việc khẩn thiết lúc này của hắn là phải thoát được móng vuốt của đàn thú dữ trên bờ.

Rôcốp sợ đàn thú của Tácdăng, nhưng sợ nhất là con báo Sêta. Cứ mỗi lần ngoảnh cổ lên bờ nhìn đàn thú, nếu Rôcốp không nhìn thẳng vào Sêta thì không có chuyện gì xảy ra, nhưng nếu Rôcốp nhìn vào mặt Sêta, thể nào hắn cũng nhận được một tiếng gầm đầy giận dữ, đầy đe dọa. Tiếng gầm ấy như nhắc cho Rôcốp nhớ rằng Sêta đã nhẵn mặt hắn và trước sau như một Rôcốp đã trở thành một kẻ thù không đội trời chung.

Vừa ra tới cửa sông, Rôcốp lòng mừng khấp khởi. Hắn trông thấy phía trước con tàu Kinxay đang thả neo bập bềnh trên sóng. Dạo trước, khi hắn đang chuẩn bị dùng thuyền con ngược dòng Ugam đi thực hiện mưu đồ của mình, hắn đã quyết định để Paplôvích chỉ huy, đưa tàu đến một bến cảng mua chất đốt. Bây giờ con tàu đã trở về kịp thời, Rôcốp thở phào nhẹ nhõm. Vậy là tuy gian nan vất vả, cuối cùng hắn đã được bảo vệ.

Hắn cảm thấy con tàu như tiếp thêm cho mình sức mạnh. Hối hả chèo một lúc, hắn gọi lên thật to, đánh động cho những người trên tàu chú ý. Nhưng có một điều lạ là mặc dù hắn gào rất to, trên tàu vẫn không có ai lên tiếng đáp lại. Trong khi đó thì từ phía bờ sông bên phải lại vang lên tiếng gầm của đàn thú Tácdăng. Rôcốp quyết định tìm mọi cách để lên tàu, càng nhanh càng tốt. Lên đó, hắn sẽ dùng súng lớn bắn vào bờ để xua đuổi đàn thú.

Vậy có chuyện gì đã xảy ra với tàu Kinxây? Páplôvích đang ở đâu? Hay là con tàu đã bị bỏ rơi, không còn ai chăm sóc, và biết đâu, một kết cục thảm khốc đang rình rập, đợi chờ hắn tới? Nghĩ tới điều đó, Rôcốp rùng mình, cảm thấy như cổ mình vừa bị lưỡi hái lạnh lẽo của tử thần chạm tới. Tuy thế, hắn vẫn chèo thuyền lướt quanh tàu Kinxây vài vòng để thăm dò. Cuối cùng, hắn quyết định áp sát thuyền vào mạn tàu. Từ hành lang con tàu đã có thả sẵn một chiếc thang dây đung đưa theo nhịp sóng.

Hắn túm chặt lấy đầu thang dây, chuẩn bị leo lên. Ngay lúc đó, hắn nghe thấy tiếng người thét lên. Một tiếng thét đầy vẻ dọa. Rôcốp giật mình, ngửa mặt nhìn lên cao. Hắn trông thấy một họng súng đen ngòm đang chĩa thẳng vào mặt mình.

° ° °

Lại nói về Potơrova. Sau khi giương súng buộc Rôcốp bỏ chạy tháo thân, Potơrova cầm chèo, điều khiển cho con thuyền độc mộc đi vào đúng luồng nước mạnh nhất. Con thuyền trôi băng băng như một mũi tên, lướt trên dòng sông Ugam lao ra biển. Potơrova cho thuyền xuôi dòng trôi suốt ngày suốt đêm không nghỉ. Chỉ những lúc trời nắng gay gắt nhất, cô mới chịu buông chèo, nằm xuống đáy thuyền che trên đầu mấy chiếc lá cọ. Đó là những phút nghỉ ngơi quý giá nhất trong một cuộc hành trình nguy hiểm chưa biết đâu là tuyệt đích. Cô mừng thầm vì đã cảm thấy Rôcốp đã từ bỏ ý định săn đuổi mình.

Sau khi từ bỏ con thuyền của Potơrova, Rôcốp không quan tâm tới chuyện thuyền của cô gái trôi đi hướng nào. Mặt khác, Rôcốp lại bị đụng một vài xoáy nước và chèo chống rất vất vả để giữ một khoảng cách an toàn nhất định, không cho đàn thú của Tácdăng trên bờ nhảy xuống, cho nên hắn ra tới cửa sông Ugam chậm mất hai giờ so với Potơrova.

Còn Potơrova, khi trông thấy con tàu đang thả neo ở cửa sông, trái tim cô như nhảy lên vì sung sướng. Trong lòng cô lại được nhóm lên những hy vọng mới. Chèo thuyền tới gần con tàu, cô lại giật mình vì nhận ra đó chính là tàu Kinxây - con tàu tai họa của cả gia đình cô. Niềm hy vọng trong cô phút chốc tan tành hóa thành nỗi thất vọng cay đắng. Cô phải hết sức thận trọng khi cầm mái chèo. Gây tiếng động trên sân lúc này có thể làm cho bọn đầu trâu mặt ngựa trên tàu chú ý rồi phát hiện ra cô. Cô thấy việc quay trở lại là việc quá muộn. Dòng sông Ugam đưa cô tới cửa biển này bằng một dòng chảy rất xiết. Cô không còn đủ sức để chèo ngược dòng trở lại.

Lúc này cô đang đứng trước những bắt buộc phải lựa chọn. Một là cố gắng bơi vào bờ, hy vọng không ai trên tàu trông thấy. Và nếu cô không muốn huỷ mình, từ bỏ cuộc sống thì hai là: phải lên tiếng kêu cứu, tự nguyện nộp mình cho bọn thủy thủ trên tàu. Nhưng thật ra nếu cô tìm cách lên bờ, cô cũng ít hy vọng được bảo vệ và khó lòng kiếm được nơi nương tựa. Dọc hai bờ sông Ugam có tới hàng chục ngôi làng. Cô không thể xác định được ngôi làng mà Anđecxen đưa cô tới nằm ở chỗ nào. Nếu cứ lang thang tìm kiếm ngôi làng thân thiện đó, dọc đường đi cô rất dễ rơi vào tay những bộ tộc ăn thịt người hoặc rơi vào nanh vuốt ác thú.

Potơrova thở dài. Cô đã tính toán nát nước mà vẫn chưa tìm ra một giải pháp nào cho cuộc sống tự do. Ngoài con tàu Kinxay, bốn bề chỉ thấy mênh mông trời nước. Gió biển phả vào da thịt cô cái hơi nước mặn mòi, ẩm ướt. Bầu trời đêm như sắp đổ ập xuống đầu vì những lớp mây dày tầng tầng lớp lớp. Thỉnh thoảng trong những kẽ mây nhấp nháy vài ngôi sao cô quạnh. Người ta vẫn nói rằng, mỗi người sống trên đời đều có một ngôi sao chiếu mệnh. Khi ngôi sao đổi ngôi, rớt mình thành một giọt sao băng, có nghĩa là một con người giã từ cõi trần thế. Ước gì Potơrova biết được ngôi sao chiếu mệnh của mình ở đâu! Nếu biết cô sẽ nhìn thẳng vào nó mà cầu nguyện Chúa Trời cho nó rụng thẳng xuống người cô. Cô sẽ chết. Nhưng sau khi chết, cái linh hồn lang thang của cô sẽ có mảnh sao vỡ soi đường cho cô đi tìm thằng Giếch bé bỏng của cô. Và biết đâu, ngay sau khi cô chết, linh hồn Tác dăng đã chờ cô ở ngay cửa sông này. Vợ chồng cô sẽ có hai mảnh sao băng trên ngực sẽ bay đi tìm con trai trong cái ánh sáng bất diệt của tình mẫu tử ruột rà.

Cái ý nghĩ lãng mạn khiến Potơrova bật cười một mình. Và cũng chính cái ý nghĩ xa xôi ấy lại đưa cô trở lại tình yêu cuộc sống và một dự tính hết sức giản dị: cô phải sống và phải hành động đến cùng vì đứa con yêu! Nếu như Rôcốp không có mặt trên tàu Kinxây, cô sẽ gặp các thủy thủ và đưa ra một khoản tiền thưởng rất lớn nếu như họ đưa cô tới một bến cảng lớn nào đó. Bằng bất cứ giá nào cô cũng leo lên boong tàu!

Potơrova cầm lại mái chèo. Cô lái cho con thuyền độc mộc của mình vào đúng dòng nước chảy xiết, hướng thẳng tới mạn tàu. Tới nơi, cô đã cảm thấy kiệt sức, nhưng vẫn kiên nhẫn lớn tiếng gọi. Cô gọi rất nhiều lần nhưng vẫn không nghe thấy tiếng người đáp lại. Tiếng kêu cứu của cô vang động cả một khoảng trời rồi lại tan biến trong tiếng sóng ì oạp ở hông tàu. Hình như con tàu đã bị bỏ hoang, không còn một ai.

Potơrova lượn sang bên kia con tàu. Thật không may, thuyền cô gặp một xoáy nước mạnh rồi trôi tuột ra xa. Cô hoảng hốt, lên tiếng kêu cứu thất thanh. Chỉ một chút nữa, cô sẽ bị cuốn trôi ra biển, không còn hy vọng tiếp cận được con tàu. Đáp lại tiếng kêu cứu của cô lúc này chỉ có tiếng sóng và tiếng gầm của một con sư tử nào đó trên bờ. Một lần nữa, cô lại chộp lấy mái chèo, nghiến răng sải nước cho con thuyền chuyển động ngược dòng, áp tới phía tàu Kinxây. Thoạt đầu cô tưởng như con thuyền của cô đã chệch hướng. Tàu Kin xây không có đèn hiệu. Mặt sông tối om, Potơrova chỉ chèo thuyền theo một định hướng dự cảm. Thật may mắn, sau một cố gắng phi thường, Potơrova túm ngay được sợi dây xích buộc neo. Cô lần theo sợi dây xích. Con thuyền chòng chành dưới chân cô. Nó có vẻ lưỡng lự, không biết nên chiều ý dòng nước hay chiều ý cô chủ yếu đuối. Phía xa xa bên hông tàu có một chiếc thang dây. Rất khó túm được đuôi thang. Nước dưới con thuyền độc mộc chảy rất xiết, thỉnh thoảng xoáy ngang như nổi cơn điên. Nếu Potơrova buông tay khỏi sợi dây xích, ngay lập tức con thuyền sẽ bị cuốn trôi một mạch ra xa. Với chút tàn lực còn lại, chắc chắn cô sẽ không thể trở lại mạn tàu.

Vừa lúc đó cô trông thấy một sợi dây chão thả lửng từ lan can boong tàu xuống sát mặt nước. Cô nhanh tay tóm lấy sợi chão và buộc luôn nó vào sợi dây xích. Lần theo sợi chão, cô lái được con thuyền tới đuôi thang dây. Khoác súng lên vai, cô sung sướng đặt bàn chân lên nấc thang đầu tiên. Con thuyền độc mộc dưới chân cô được tự do, xoáy tròn một vòng rồi trôi tuột vào lòng sông tối đen. Potơrova bám chặt thang dây, hít thở một vài hơi lấy sức rồi nhún mình từng bước, kiên quyết leo lên boong tàu.

Thoạt đầu, Potơrova thận trọng quan sát toàn bộ con tàu, hai tay lăm lăm khẩu súng, sẵn sàng nhả đạn nếu như đụng phải một thủy thủ đầu tiên xuất hiện. Sau một hồi tìm kiếm, khảo sát, cô mới biết vì sao con tàu có vẻ như bị bỏ rơi. Hóa ra ở một căn phòng phía mũi tàu có hai thủy thủ say rượu nằm ngủ như chết. Chui ra khỏi căn phòng rồi lao lên boong, cô thấy người cứ run bắn lên vì chiếc dạ dày lên tiếng. Hơn một ngày rồi cô chưa có một miếng gì bỏ bụng. Cô quyết định chốt lại tấm cửa sắt nối xuống hầm tàu và sục vào khu bếp kiếm đồ ăn. Sau khi xua được cơn đói, cô trở lại mũi tàu với ý định chiếm giữ con tàu, kiên quyết không cho một kẻ nào leo lên với một mưu đồ thù địch, chống lại cô.

Trong bóng tối, mặt nước quanh con tàu hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng chỉ một lát sau, từ khúc sông quặt xuất hiện một chiếc thuyền độc mộc. Có bóng người đàn ông đang điều khiển con thuyền. Quan sát một cách kỹ lưỡng, Potơrova nhận ra đó là Nicôlai Rôcốp. Chờ cho Rôcốp bám thang dây, leo lên cao, Potơrova nâng súng chĩa thẳng vào ngực hắn.

Khi nhận ra kẻ chặn đường lên tàu chính là Potơrova, Rôcốp vừa đe dọa vừa nguyền rủa. Nhưng bấp chấp những lời dọa dẫm của Rôcốp, Potơrova vẫn lạnh lùng giữ chặt báng súng, sẵn sàng nhả đạn. Rôcốp liền đổi sang giọng cầu xin, thề thốt:

- Tôi biết là rất có lỗi với bà. Nhưng chả lẽ một người quý tộc văn minh như bà lại đang tâm hất tôi trở lại cái mảnh đất độc địa này ư? Hãy để cho tôi lên tàu. Tôi sẽ giúp bà trở về Luân Đôn hay Bantimo, tùy theo ý bà.

- Xuống ngay! - Potơrova quát lên, không hề biến sắc mặt - Xuống! Ta tha chết cho là may rồi. Xuống!

Thấy thái độ cương quyết của Potơrova, Rôcốp không còn cách nào khác là lủi thủi tụt xuống thuyền. Hắn cầm mái chèo một cách do dự. Bên bờ sông đối diện với con thuyền của hắn vẫn vang lên tiếng thú dữ gầm gào. Con thuyền theo dòng nước xiết, trôi băng băng, đưa Rôcốp sang bờ sông xa.

Potơrova biết rằng Rôcốp không đủ sức quay trởi lại tàu Kinxây được nữa. Bởi vì dù có cố gắng đến mấy hắn cũng không còn sức để bơi ngược dòng nước. Nghĩ như vậy, cô không cảm thấy lo sợ. Lắng nghe tiếng thú dữ phía bờ sông cô thấy rất giống tiếng kêu của đàn vượn kỳ quặc mà cô đã gặp mấy hôm trước ở phía thượng nguồn. Chả lẽ trong rừng có nhiều đàn thú kêu giống nhau đến thế? Và chúng kéo nhau ra cửa sông này làm gì? Điều đó cô cũng không hiểu.

Potơrova vẫn cầm chắc súng canh giữ con tàu. Nhưng tới lúc trời rạng sáng, cô giật mình vì nghe thấy tiếng kêu của Rôcốp vang lên từ bờ sông. Chỉ một lát sau, cô cảm thấy ớn lạnh xương sống. Trên sông đã xuất hiện một chiếc thuyền, hướng thẳng tới tàu Kinxây. Trên thuyền lố nhố rất đông đàn ông. Đó là đám thủy thủ còn lại của tàu Kinxây.