Trên chiếc bình phong cóthêu hình hoa lan, từ góc độ Tần Mạt nhìn lại, có thể thấy chiếc đàn cổ bảy dâymàu đồng, nhìn từ xa cũng thấy rõ màu sơn chìm, chắc dùng đã lâu.
“Cháu…” Tần Mạt hơi dodự, cuối cùng vẫn lắc đầu cười nói: “Cháu không biết.”
Nàng chỉ nói không biết,không nói không biết đánh đàn, cũng không coi là lừa gạt. Tần Mạt chỉ cần mộtchỗ nhỏ ở đây, trên thực tế ý nàng là, nàng sẽ không dùng tiếng đàn, để lấylòng khán giả. Tuy bản thân Tần Mạt không xem nhẹ tiếng đàn, nhưng nàng khôngthể nào vượt qua một số nguyên tắc của chế độ phong kiến vương triều xưa.
Nàng đánh đàn, không phảivì muốn nghe ai nói một tiếng hay, cũng không phải vì cần nhiều tiền thưởng. Màđánh đàn ở quán trà, hiển nhiên đây là chiêu buôn bán làm ăn đầy triển vọngrồi.
Người đánh đàn, cần tình cảm;người đánh đàn, cần kiên nhẫn!
Đàn có vui, buồn, bi,thương, thể hiện tình cảm của người chơi, đàn có thể làm loạn tâm tư con người,nếu vì danh lợi à đàn, sẽ bị coi thường. Đánh đàn có thể có vô số loại lý do,nhưng để “phân chia cao thấp với người” mãi mãi sẽ không trở thành lý do đánhđàn của Tần Mạt.
Không có tri âm, bảy dâykhông vang, Bá Nha có thể làm đứt dây đàn(*), Tần Mạt cũng cùng lắm là không chạm vàothôi.
Thần sắc của ông lão hiệnvẻ thất vọng, ông luôn theo đuổi truyền thống văn hóa cổ xưa, đáy lòng hi vọnglớp trẻ có thể học thêm chút thành quả của tổ tiên, mà không phải cả ngày trôngchờ vào ngoại quốc, miệng đầy “thượng đế, Hallelujah[18]”. Dùng cách nói của ông mà nói chính là:“Ngay cả đạo của tổ tông còn không nhớ được, còn hoan nghênh tôn giáo phươngTây lừa gạt vơ vét kia, đầu có phải bị dán keo rồi không?”
Nhưng theo lời nói lúctrước của Tần Mạt, có vẻ nàng và nhiều thanh niên hiện đại có điểm khác biệt,cằm ông lão hếch lên từ cái cổ ngắn, tay vung lên, thở mạnh nói: “TiểuThành, Long Tĩnh, dâng trà.” Nhìn tư thế kia, gọi người khác dâng trà, như là đại tướng quân ra lệnh.
Người đàn ông trung niênsau quẩy hiển nhiên là đã quen tư thế này của ông, nghe vậy vội cung kính đáp,sau đó lấy một bộ ấm chén từ dưới quầy lên, đặt vào khay, đi đến cái bàn nhỏkia.
Ông già ra hiệu cho Tần Mạtảo nàng đi theo, sau đó cũng đi nhanh đến chỗ bànnhỏ. Trong quán trà có mấy người khách quen ông liền chào hỏi: “Triệu lão, ngàihôm nay lại dẫn theo một bộ mặt lạ hoắc vào hả.”
Một ông cụ mập đặt quâncờ xuống ngẩng đầu nói: “Ồ, lão Triệu Chu, hôm nay ông lại gọi Long Tĩnh ra bắtngười khác uống cùng à?”
“Cô nhóc này rất được.”Triệu Chu trước là vui cười hớn hở, sau nghiêm mặt lại nói: “Lão mập, chơi cờkhông được nói, ông lại muốn phá quy tắc này à?”
Ông mập vội vàng bĩu môimột cái, lại bày ra bộ dạng như đang suy tư, hạ nước cờ xuống.
Mọi nơi nhất thời phát ratiếng cười, người trong quán trà này tuy không nhiều, nhưng lại có một khôngkhí tao nhã mà ấm cúng.
Tần Mạt ngồi đối diệnTriệu Chu, ông già thoải mái hào phóng nói: “Cô bé, ông già này tên gọi TriệuChu, cháu tên là gì?”
“Cháu là Tần Mạt.” TầnMạt khẽ mỉm cười, tư thái thanh thản tao nhã, “Tần trong Tần Hán, Mạt trong sẵnsàng ra trận.”
Lúc này người đàn ôngtrung niên bị gọi là Tiểu Thành kia lấy một chiếc bếp than hồng khéo léo đặtlên bàn vuông nhỏ. Hắn cho than vào, từ bình gốm đổ nước suối ra, dùng lửa đunnước.Triệu Chu hưng phấn hỏi: “Sẵn sàng ra trận như thế nào?”
“Trịnh Mục Công làm tướng[19],thì bị ép vào tư thế sẵn sàng ra trận rồi.” Tần Mạt phảng phất trở lại cuộckhẩu chiến về nho gia thời trước, “Sống gian nan khổ cực, chết trong yên vui,sẵn sàng ra trận, thời khắc chuẩn bị ứng phó với nguy cơ, đón nhận chiến đấu.”
“Chiến đấu?” Triệu Chucười to, “Giờ không phải thời chiến, cháu chiến đấu cái gì?”
Tần Mạt mỉm cười, chỉduỗi một ngón trỏ ra, chỉ lên trên trời.
Phật tổ nhặt hoa, NiêmHoa vi tiếu (**).Tần Mạt hôm nay chỉ thẳng lên trời, tuy không nói gì, lại tương đương như nóivới Triệu Chu, nàng chiến đấu với vận mệnh số trời!
Hai mắt Triệu Chu hơinheo lại, phảng phất như ánh sắc bén của chim ưng chợt lóe lên. Giờ khắc này,ông không còn là lão già hòa nhã dễ gần nữa, ngược lại giống như mãnh tướngbách chiến bách thắng nơi sa trường. Khí thế bức người, đủ để khiến ý chí khôngkiên định tan chảy.
Tiểu Thành đang đun nướctay run run, kinh ngạc ngẩng đầu, nhìn sang Triệu Chu, lại nhìn sang Tần Mạt.
Vẻ mặt Tần Mạt ung dung,thế ngồi thanh thản, không hề cử động
“Đứa trẻ giỏi!” Triệu Chuvừa cười, vừa vung tay lên, “Tiểu Thành, cậu xuống đi, hôm nay tôi muốn tự phatrà đãi cô bạn nhỏ.”
Triệu Thành Bích ngẩnngười, muốn nói lại thôi. Nhưng Triệu Chu có ảnh hưởng lớn, Triệu Thành Bíchchỉ là bậc con cháu, rốt cục vẫn cung kính lui xuống. Sau một lát, hắn lại bưngmột bồn sứ men xanh lên, trong chậu đựng nước trắng, đây là để Triệu Chu rửa tay.
Triệu Chu tự pha trà, đâykhông phải chỉ là tao nhã thưởng vị trà, càng muốn thể hiện lễ nghi trà đạothanh cao của ông. Chuyện này đối với Tần Mạt mà nói, không thể nghi ngờ gìnữa, chính là vô cùng kính trọng.
Bản thân Tần Mạt cũng làcao thủ trà đạo, tham gia vào nhóm văn nhân nhã sĩ Đại Tống, khi đó vẫn lưu lạidư vị của phong tục thời xưa, về sau mới hình thành trà đạo. Triệu Chu pha tràlại có điểm khác biệt, ông bỏ qua một số lễ nghi rườm rà, vì nước đang nấu, ôngchỉ lấy nước, làm sạch, xối chén[20].
Cầm lấy ấm trà nước đãsôi, bàn tay của Triệu Chu thô to, đầy vết chai, chẳng hề thích hợp với tràđạo. Nhưng động tác của ông lại mạnh mẽ đầy hứng thú, lúc chuyển giống như TháiCực quyền, tiếng nước chảy vang lên, nhịp điệu như khúc quân hành, khí pháchlạnh thấu xương.
Hương Trà Long Tĩnh tinhtế mà tao nhã, mùi thơm thanh cao kéo dài, như hương như hoa, như giai nhân mỹvị. Trong chén tử sa[21] có để một ít trà, xếp thành hình, sinh động không nóinên lời.
Hương trà bốn phía, trongquán trà lại có người kháng nghị, vẫn lão béo đang chơi cờ, một tay hắn vuốtvuốt nốt ruồi đen, đầu mũi chun chun, bất mãn kêu gào: “Triệu Chu đúng là lãogià nhỏ mọn, bình thường những thứ đó là bảo bối của lão, hôm nay lại hàophóng… thế mà sao lại không hào phóng với những ông bạn già này chứ?”
Triệu Chu cười mắng:“Đúng là lão mập da dày, ông ở đây ăn uống còn thiếu gì nữa hả? Ông so đo vớicô bé cái gì? Ông mới đúng là cái đồ hẹp hòi!”
Lão béo chun chun cáimũi, cắn răng ấm ức.
Tần Mạt khẽ mỉm cười,thưởng thức trà mới với người tôn kính trước mắt. Nàng trước là thưởng màu trà,vị trà, sau đó ngửi hương trà, rồi mới nâng chén nhấp nhẹ.
Sự chú ý của Triệu Churất tự nhiên đã bị Tần Mạt hấp dẫn. Lại thấy cô bé này dung mạo mặc dù bìnhthường, nhưng da thịt lại trắng nõn mềm mịn, thân thể tuy gầy yếu, nhưng khíchất lại chẳng hề thua kém. Tư thế thưởng trà của nàng thập phần tao nhã, độngtác nâng chén trà nhấp nhẹ mang theo phong vận tiêu sái trong hiện đại cực kỳkhó gặp. Nàng lúc này, cho dù quần áoơn giản mộc mạc, nhưng Triệu Chu phảngphất lại thấy trên người nàng có tư thái nhanh nhẹn, phóng khoáng không kềm chếđược.
Đây là một loại cảm giácthập phần mâu thuẫn, người trước mắt rõ ràng là một cô nhóc hiện đại còn đanghọc phổ thông, trong lúc lơ đãng nàng lại toát ra khí chất tao nhã cổ xưa,thanh thản ung dung như vương công quý tộc đi ra từ lịch sử. Rất kỳ lạ, TriệuChu lại nghĩ đến vương tử, không phải công chúa.
Trong mắt Triệu Chu lạimang thêm vài phần tìm tòi nghiên cứu, ông không thể tưởng tượng, gia đình nhưthế nào mới có thể nuôi dạy thành một cô bé tài năng như vậy. Là người bề trên,bằng sự trải nghiệm của Triệu Chu, dù là thanh niên có gia thế giàu sang phúquý, cũng không có lấy một, có phong thái như Tần Mạt.
Cô bé này, chính vì mâuthuẫn, ngược lại vô cùng khác người thường. Hơn nữa khí chất tiềm ẩn của nàng,nhìn một lần, nàng bất quá cũng chỉ như mọi người, nhưng nhìn vài lần rồi, sẽphát hiện dù nhìn đến thế nào cũng không nhìn thấu nàng.
“Đạt đến màu đẹp, hươngthơm mãi còn.” Mắt Tần Mạt nửa khép, reo nhẹ một tiếng.
Triệu Chu đắc ý như mộtđứa trẻ, chính ông cũng nhấp kỹ lại, lại hỏi: “Tần cô nương có gì muốn chỉ giáokhông?”
Tần Mạt mở mắt, khẽ mỉmcười nói: “Ngài gọi cháu là ược rồi, chỉ giáo không dám nhận, nhưng có ý kiếnhơi khác, nói ra cũng là tôn trọng ngài.”
“Ha Ha, tự nhiên đi, cháuuống trà ta pha, sao lại không nói vài câu đạo lý chứ?”
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(*) BáNha và Tử Kỳ là hai người bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sách Lã Thị XuânThu có chép: “Bá Nha gảy đàn, Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm”. Tử Kỳ còn khen tiếngđàn của Bá Nha lúc thì “nguy nguy hồ chí tại cao sơn”, lúc thì “dương dương hồchí tại lưu thủy”.
Bá Nha,họ Du tên Thụy, là người nước Sở, nhưng làm quan Thượng Ðại Phu nước Tấn. BáNha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhấtđời và không bao giờ rời cây Dao cầm yêu quý của mình.
Tử Kỳ,họ Chung tên Huy, là một danh sĩ ẩn dật làm nghề đốn củi để báo hiếu cha mẹtuổi già nua, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương.
Phần I
Năm đó,Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua nước Sở. Trên đường về, khi thuyền đến cửasông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu sáng trăng, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cholịnh cắm thuyền dưới chân núi Mã Y để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạochơi một vài khúc đàn, Bá Nha sai quân hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm,xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây vặn trục. Sauđó đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói trầm. Chưadứt bài, đàn bỗng đứt dây.
Bá Nhagiựt mình tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế nầy ắt có người nghe lén tiếng đàn, bènsai quân hầu lên bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt. Quân hầulãnh lịnh lên bờ thì bỗng có người từ trên bờ lên tiếng:
- Xinđại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghetiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành!
Bá Nhacười lớn bảo:
- Ngườitiều phu nào đó dám nói hai tiếng nghe đàn với ta?
Tiếngnói từ trên núi lại đáp lại:
- Đại nhân nói vậy, kẻhèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa:“Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín” (Trong một ấp có mười nhà ắt có ngườitrung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến… Nếuđại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, thì cũng không nên khảyênkhúc đàn tuyệt diệu làm gì.
Bá Nha có vẻ ngượng khinghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, liền tiến sát đến mũi thuyềndịu giọng nói:
- Ngườiquân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không?
- Khúc đàn đại nhân vừatấu đó là: Ðức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời rằng:
Khả liên Nhan Hồi mệnhtảo vong
Giáo nhân tư tưởng mấnnhư sương
Chỉ nhân lậu hạng đanbiều lạc
Hồi nãy, đại nhân đangđàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu bốn là:
Lưu đắc hiền danh vạn cổdương.
[ Tạm dịch thơ:
Nhan Hồi mất sớm thật đau thương,
Tư tưởng dạy người tóc bạc sương.
Ngõ hẹp nước bầu cơm giỏ hẩm (1)
Danh hiền lưu mãi cỏi trần dương.
PMTâm ]
(1)Nhan Hồi vui trong cảnh khốn khổ, sống trong ngõ hẹp chỉ với giỏ cơm và bầunước.
(**) Niêmhoa vi tiếu (拈花微笑, nenge-mishō) nghĩa tiếng Việt: cầm hoa mỉmcười. Đây là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích-caMâu-ni đưa cành hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp phá nhanmỉm cười.
Hôm nọ, trên núi LinhThứu (Gṛdhrakūṭa) trước mặt đông đảo đại chúng, Đức Thế Tôn không tuyên thuyếtpháp thoại như mọi ngày, mà lặng lẽ đưa lên một cành hoa. Đại chúng ngơ ngácchẳng ai hiểu gì, duy chỉ có đại trưởng lão Ma-ha Ca-diếp (Mahākāśyapa)phá nhan mỉm cười. Đức Phật liền tuyên bố với các thầy tì kheo: “Ta có chính pháp vô thượng trao cho Ma-haCa-diếp. Ca-diếp là chỗ nương tựa lớn cho các thầy tì kheo, cũng như Như Lai làchỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh”. Từ câu nói này, chư vị Thiền sư tiền bốiđã diễn đạt thành: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm, thật tướngvô tướng, pháp môn vi diệu, bất lậpvăn tự, truyền ngoài giáo pháp, nay trao cho Ca-diếp”. Điều này có ý nghĩa gì?
Đức Phật đã mở bày nhiềupháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho tr người đều được lợi lạc.Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứngtự nội, tự thực hành thể nghiệm hay tự chứng cảnh giới và hằng sống với cảnhgiới ấy bằng nhận thức trực tiếp về chân lý mà không thể chia sẻ cho người khácbằng lí luận. Trạng thái giác ngộ vượt ra ngoài nhận thức phân biệt của conngười. Điều đó làm sao diễn tả bằng lời?
Sự thật thì trong giáo lígiác ngộ giải thoát của Đức Thế Tôn cũng có một sự hiểu biết có thể với tớiđược bằng cách tư duy, học hỏi giáo lý, diễn đạt bằng ngôn ngữ; nhưng cũng cómột sự hiểu biết vượt trên lý luận, tư duy và không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ.
Thế nhưng, nếu không diễnđạt bằng ngôn ngữ, không nói gì cả, thì làm sao để hiểu được? Phải mượn hìnhảnh để ví dụ, để diễn đạt những điều không thể diễn đạt bằng lời. “Niêm hoa” làcách khai mở kho tàng tuệ giác vượt lên trên lý luận, tư duy, phân biệt bằnglời đó. Mọi tư duy phân biệt một khi đã bị cắt đứt thì tuệ giác vắng lặng uyênnguyên bình đẳng trong tâm thức của mỗi chúng sinh vốn vượt ngoài giới hạn củamọi hình thức tư duy khái niệm sẽ được khai mở.
Do đó, khi Đức Phật đưacành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca-diếp mỉm cười (vi tiếu) là biểu thị cho phápmôn lấy tâm truyền tâm, một pháp môn siêu ngôn ngữ, siêu văn tự. Trong pháp mônnày chỉ có sự giao cảm, sự rung động giữa hai tâm thức Thầy và Trò, và hai tâmthức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết bàn.>