Song Bích

Chương 59: Ngọc Quỳnh




Giang Lăng phẫn nộ lên án, Minh Hoa Thường sờ sờ mũi, cũng thấy hơi xấu hổ.

Nhưng mà, hy sinh bằng hữu để bảo vệ huynh trưởng mà, nàng cũng đâu thể để cho vị huynh trưởng tuấn tú, ngọc thụ [*] danh chấn khắp đế đô một mình gánh vác cái danh “rong chơi thanh lâu” được, vậy nên, chỉ đành để cho Giang Lăng gánh thôi.

[*] Ngọc thụ ở đây chỉ người tài ba.

Minh Hoa Thường nghiêm mặt, nói: “Khi gặp đại sự, cần gì phải quan tâm đến vinh nhục của bản thân mình? Chúng ta là người phải làm đại sự, không thể giới hạn bản thân mình trong từ thanh danh được. Lát nữa người của Thiên Hương các sẽ tới, chúng ta tranh thủ phân công nhiệm vụ trước đi. Giang Lăng, Nhậm tỷ tỷ, lát nữa hai người chặn tú bà và Ngọc Quỳnh lại, cố gắng nói mấy chuyện sáo rỗng với bọn họ, rồi sau đó dò hỏi bọn họ về các mối quan hệ trong Thiên Hương các này. Còn ta thì sẽ ra ngoài xem xét cấu trúc của Thiên Hương các, cố gắng tới hiện trường án mạng xem thế nào.”

Nhậm Dao hơi do dự: “Một mình muội ra ngoài à? Có phải là quá nguy hiểm rồi hay không?”

“Không sao đâu.” Minh Hoa Thường nói: “Bây giờ chúng ta là thị nữ của Giang Lăng mà, Thiên Hương các e ngại quyền thế của Giang An Hầu, không ai dám làm gì ta đâu. Ngược lại, nếu tỷ bỏ công tử lại một mình rồi ra ngoài cùng ta thì mới dễ bị lộ tẩy.”

“Huống hồ chi…” Minh Hoa Thường chớp mắt mấy cái, nhỏ giọng nói: “Còn có Nhị huynh ta và Tạ huynh ở đây mà.”

Nhậm Dao thở hắt ra: “Chỉ có thể như thế thôi, muội cẩn thận nhé.”

“Hai người cũng thế.”

Ngay lúc ba người họ vừa bàn bạc xong chiến thuật, bên ngoài vang lên một tiếng động lớn, ba người nhìn nhau rồi ngồi thẳng người dậy. Giang Lăng bày ra dáng vẻ hưởng thụ, ngang ngược kiêu ngạo nói: “Rót rượu cho ta.”

Nhậm Dao nhìn Giang Lăng đầy kinh ngạc, hoài nghi hắn ta đang “ngứa da”. Nhưng mà mấy người tú bà đã vào đến cửa rồi, Nhậm Dao chỉ đành nhịn khát khao muốn đấm vào mặt Giang Lăng xuống, tươi cười rót rượu cho hắn ta: “Dạ, lang quân, nô tỳ cho ngài uống.”

Nói rồi, nàng ấy rót ra một chén rượu đầy, sau đó thì trút thẳng vào trong miệng Giang Lăng. Giang Lăng bị sặc, liên tục ho khan, Nhậm Dao vẫn còn tỏ vẻ dịu dàng, thấy thế thì vội hỏi han: “Lang quân, sao ngài uống vội vã như vậy thế? Để nô tỳ tới vỗ lưng cho ngài.”

Nói xong, nàng ấy vỗ mạnh một cái vào lưng Giang Lăng. Từ tư thế sặc rượu, Giang Lăng chuyển thẳng sang tư thế như ho ra máu. Đừng nói là rượu, chỉ e là đến cả tim gan phèo phổi cũng sắp bị bay ra ngoài luôn rồi.

Minh Hoa Thường ở bên cạnh thấy thế thì mặt hơi biến sắc và có phần run rẩy, trong nháy mắt ấy, nàng cảm thấy đau lưng vô cùng.

Tú bà vừa dẫn người tới thì thấy cảnh thế tử Hầu phủ và tỳ nữ của hắn ta thân mật ngay, cảnh tượng ấy làm cho người ta phát ngấy lên được.

Uống rượu cũng phải có người bón cho, có thể thấy, đây đúng thật là một đại thiếu gia được cưng chiều từ bé. Ở trước mặt người khác mà đã thế này rồi, chẳng biết lúc ở riêng thì sẽ làm bừa thế nào nữa đây.

Tú bà chợt thấy khó chịu, chắc chắn là tỳ nữ này đang cố tình làm thế để thị uy với bọn họ! Nực cười, muốn đoạt nam nhân trên địa bàn của bà ta cơ à? Thế thì cũng phải xem bản thân mình có bản lĩnh hay không đã.

Nụ cười trên gương mặt tú bà vẫn không thay đổi, hơi nghiêng cơ thể đẫy đà để họ có thể trông thấy người phía sau. Tú bà nói một cách đầy khoa trương: “Lang quân, trước đó là do nô gia thất lễ, thế nên bây giờ nô gia dẫn theo Ngọc Quỳnh đến để nhận lỗi với ngài. Ngọc Quỳnh, vị này là Giang An Hầu thế tử, còn không mau vấn an đi?”

Một nữ tử yếu đuối cao gầy, thướt tha nhẹ nhàng bước tới chào Giang Lăng: “Giang công tử an.”

Minh Hoa Thường và Nhậm Dao đều dồn ánh mắt vào nàng ta. Trông thì có vẻ như nàng ta khoảng hai mươi tuổi. Về dung mạo, tuy không thể nói là quá xuất sắc, nhưng ít nhất là ngũ quan có phần mộc mạc hơn so với vị Sơn Trà cô nương lúc ban nãy. Thế nhưng, chính nhờ điều ấy mà khi mặc trang phục màu trắng, khí chất của nàng ta mới càng được tôn lên, trông tươi trẻ mà thướt tha, mang đến cảm giác không tranh không giành, thanh nhã như phù dung trong nước.

Minh Hoa Thường và Nhậm Dao nhìn nhau, Minh Hoa Thường hỏi: “Đây là hoa khôi của Thiên Hương các các ngươi à?”

Tú bà âm thầm đắc ý, bà ta nhìn thấy sắc mặt Minh Hoa Thường hơi thay đổi, càng tự tin hơn vì nghĩ rằng mình đã giẫm vào chỗ đau của các nàng, đã làm cho những nàng hầu này nóng nảy rồi! Tú bà nói: “Phải, Ngọc Quỳnh trở thành hoa khôi từ năm mười sáu tuổi, tới bây giờ thì cũng đã được bốn năm rồi. Người nổi danh trong phường Bình Khang cứ người tới người đi, nhưng chỉ có mỗi mình Ngọc Quỳnh là vẫn được sủng ái như lúc ban đầu.”

Minh Hoa Thường nhìn vào ánh mắt của tú bà, nàng cảm thấy, có lẽ là bà ta đã có hiểu nhầm gì đó rồi. Nhưng mà không sao, Minh Hoa Thường nương theo đó mà giả vờ ra vẻ ghen ghét, châm chọc: “Chỉ dựa vào bản thân nàng ta?”

“Ôi, vị tiểu huynh đệ này, ngươi chớ có xem thường Ngọc Quỳnh của chúng ta.” Tú bà chỉ muốn đánh dập đầu hai con rắn các nàng, bắt đầu nói năng hùng hồn: “Ngọc Quỳnh trông xinh đẹp, dáng người lại đẹp, nhưng đó chỉ là những ưu điểm không đáng nhắc tới nhất của con bé. Thứ lợi hại nhất của con bé chính là tài hoa. Ngọc Quỳnh của chúng ta thông thạo âm luật, biết viết văn, chỉ gảy một khúc tỳ bà thôi mà cũng được cả sảnh đường reo hò khen ngợi, tài vẽ cũng hấp dẫn được vô số văn nhân hiệp khách, khiến họ phải theo đuổi con bé. Lang quân à, sau khi ngài rời khỏi phường Bình Khang, ngài thử hỏi những người có học xem có ai không biết Ngọc Quỳnh của Thiên Hương các hay không?”

Minh Hoa Thường lạnh lùng “hừ” một tiếng, khinh thường nói: “Mua danh chuộc tiếng, cố ý lừa bịp.”

Giang Lăng được nhận vào Huyền Kiêu Vệ cũng đâu phải là danh hão, hắn ta lập tức hiểu ý của Minh Hoa Thường, ra vẻ không vui nhíu mày: “Ta tới phường Bình Khang mua vui, không phải là để nhìn ngươi giở chứng. Cái này ngươi chướng mắt, cái kia ngươi cũng không thích, rốt cuộc là ngươi muốn làm gì?”

Nhậm Dao nương theo câu chuyện này mà châm thêm một cây đuốc: “Đúng vậy, muội muội à, hôm nay lang quân coi trọng người mới, muội phải hiểu chuyện đi, đừng làm lang quân mất hứng.”

Tú bà còn chưa kịp cảm thán thủ đoạn châm ngòi ly gián hay, bỗng, bà ta nghe thấy Minh Hoa Thường vỗ mạnh vào bàn rồi phẫn nộ đứng bật dậy: “Được rồi, hoa khôi này có tri thức lại hiểu lễ nghĩa, đa tài đa nghệ, mạnh hơn ta nhiều! Ta không dám làm thế tử mất hứng, giờ ta đi!”

Nói rồi, Minh Hoa Thường nóng nảy hệt như cây pháo vừa được châm vậy, đẩy mạnh Ngọc Quỳnh và tú bà ra, bực bội lao ra ngoài. Tú bà khoa trương kêu “Ôi chao”, che chỗ bị đụng đau lại, ra vẻ khó xử: “Lang quân, ngài xem chuyện…”

“Mặc kệ nàng ta đi.” Giang Lăng cũng bắt đầu bày cái tính tình khó chịu khó chiều của mình ra, lạnh lùng nói: “Để nàng ta ra ngoài đi, cho nàng ta ngang ngược.”

Tú bà mừng thầm, vừa ỡm ờ khuyên bảo, vừa nháy mắt với Ngọc Quỳnh. Ngọc Quỳnh lặng lẽ nhìn bọn họ rồi nàng ta ôm đàn tỳ bà mà ngồi xuống bên đối diện bàn, ngón tay nàng ta lướt qua dây đàn, một chuỗi các âm thanh trong trẻo nhanh chóng vang lên.

Ngọc Quỳnh gật đầu ra hiệu với Giang Lăng, nói: “Công tử bớt giận, nô gia kém cỏi, xin đàn một khúc cho công tử.”

Minh Hoa Thường tức giận lao ra khỏi Nghiễm Hàn Nguyệt Uyển, sau khi nghe thấy tiếng tỳ bà vang lên sau lưng thì biết rõ chuyện đã thành. Kể từ đây, sẽ không có ai xem nàng diễn kịch nữa, Minh Hoa Thường chậm rãi thu “cơn tức” ấy lại, giả vờ tỏ vẻ “hồn xiêu phách lạc”, bước dọc theo hành lang mà từ từ quan sát.

Thiên Hương các sừng sững đầy khí thế, nhất là vũ đài, trông nó vô cùng lộng lẫy, xa hoa. Vì thế, chủ nhân của nơi đây đã phải hy sinh không ít phòng hai bên để không làm khuất tầm nhìn khách quan khi họ muốn nhìn về phía vũ đài. Mỗi bên Đông – Tây là một dãy bao sương, hai dãy phòng “giao nhau” tại nơi trung tâm. Minh Hoa Thường đứng trên hành lang phía Tây của Thiên Hương các, nếu bây giờ nàng muốn đi tới mấy căn phòng ở phía Đông, nàng phải xuống lầu, đi ngang qua sảnh lớn, sau đó lại lên cầu thang lên lầu hai.

Đúng là phiền phức quá.

Minh Hoa Thường muốn xuống lầu xem thử xem, lúc nàng đi về hướng cầu thang, cửa phòng bên cạnh bỗng bị ai đó mở ra, hai người giật nảy mình.

Minh Hoa Thường đánh đòn phủ đầu, lập tức nhướng lông mày chất vấn: “Ngươi lén lút làm gì đấy?”

Tiểu nha hoàn thanh lâu nhận ra nàng là thị nữ mà Giang thế tử dẫn tới, nàng ta thầm mắng “chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”, nhưng vẫn không dám đắc tội với người của phủ Giang An Hầu, cúi đầu nói: “Xin lỗi, là do ta không thấy bên ngoài có người, xin đại nhân tha tội.”

Minh Hoa Thường nhìn cánh cửa phía sau nha hoàn, hỏi: “Đây là nơi nào?”

“Nơi bọn hạ nhân nghỉ ngơi thôi ạ.” Nha hoàn ngoan ngoãn nói: “Bao sương Đông Tây không nối nhau, đôi lúc chuyển đồ bất tiện nên ma ma dựng một gian phòng nhỏ ở đây để đựng đồ tạm thời. Bình thường, nếu các cô nương tiếp khách mệt thì họ cũng sẽ nghỉ ngơi ở đây.”

Minh Hoa Thường nhìn qua gian phòng nhỏ này và Nghiễm Hàn Nguyệt Uyển, hai nơi này nối liền với nhau, bên cạnh gian phòng nhỏ là phần đầu cầu thang, Minh Hoa Thường hỏi: “Có thể đi vào Nghiễm Hàn Nguyệt Uyển từ gian phòng nhỏ này không?”

“Tất nhiên là không được rồi ạ.” Nha hoàn vội nói: “Đây là nơi ở của hạ nhân, sao có thể quấy rầy khách quý cho được ạ?”

Minh Hoa Thường gật đầu, sau đó, nàng chẳng thèm khách sáo một câu nào mà đi thẳng xuống cầu thang, kiêu ngạo giống hệt như một con khổng tước vậy. Nha hoàn giận mà không dám nói gì, chỉ dám lặng lẽ trừng mắt nhìn rồi vội vã đi làm mấy việc lặt vặt.

Sau khi Minh Hoa Thường xuống lầu thì lại bị chấn động trước đại sảnh xa hoa đầy khí thế. Minh Hoa Thường nhớ lại lời Nguyệt Hồ nói, theo như vị trí mà Nguyệt Hồ cung cấp, ngày ấy Trương Tử Vân đã vào bao sương phía Đông Bắc ở tầng hai, tên là “Phong Tình Tư Uyển”. Nguyệt Hồ đã ngồi ở đại sảnh lầu một, đối diện bao sương, thế nên, Nguyệt Hồ đã ngồi ở vị trí phía Tây của vũ đài.

Minh Hoa Thường tìm phương hướng xung quanh đại sảnh, bỗng nhiên phát hiện ra rằng, vừa hay Nghiễm Hàn Nguyệt Uyển và Phong Tình Tư Uyển khá giống nhau, bên cạnh đều là cầu thang, theo như lời tiểu nha hoàn ban nãy nói, có phải là ở bên cạnh Phong Tình Tư Uyển cũng có một gian phòng nhỏ để nghỉ tạm hay không?

Minh Hoa Thường muốn tới Phong Tình Tư Uyển xem thử, lúc nàng đi qua đại sảnh thì có bức bình phong sơn thủy cực lớn phía sau vũ đài đã hấp dẫn ánh mắt nàng. Minh Hoa Thường không nhịn được mà dừng chân lại, ngẩng đầu nhìn bức bình phong này.

Trong bức tranh, màu mực được dùng để làm mờ độ cao thấp khác biệt nhau và khoảng cách nhấp nhô của những ngọn núi xanh, phần thân của các dãy núi được viền lại bằng đá khổng tước màu xanh lục, trong màu xanh có màu máu đào. Nhìn từ nhiều hướng khác nhau thì sẽ thấy được nhiều sắc độ khác nhau của các màu sắc ấy. Ở phần màu trắng phía bên dưới, có một ông cụ mặc áo mưa xơ dừa đang ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ mà câu cá trên sông.

Bức tranh mỏng manh như chứa đựng hàng nghìn dặm núi sông, thời gian và không gian như đều ngưng tụ tại nơi đây, Minh Hoa Thường cảm thán từ tận đáy lòng: “Vẽ đẹp quá.”

Nha hoàn đi ngang qua nghe thấy thì cũng phải lên tiếng nịnh nọt: “Đây là do Ngọc Quỳnh tỷ tỷ vẽ đấy ạ.”

Minh Hoa Thường kinh ngạc: “Bức tranh lớn thế này mà chỉ có một mình nàng ta vẽ thôi sao?”

Nha hoàn gật đầu, nói: “Rất nhiều người tới Thiên Hương các chỉ để nghe Ngọc Quỳnh tỷ tỷ chơi đàn, thật ra tỷ ấy giỏi nhất là vẽ. Lúc ma ma xây dựng vũ đài, vốn dĩ người muốn làm một bức tường khắc hoa sau vũ đài cơ. Nhưng Ngọc Quỳnh tỷ tỷ lại nói làm như thế quá dung tục, rồi bảo ma ma để bức bình phong ở đó đi, không chỉ làm cho Thiên Hương các trông có vẻ rộng lớn hơn, mà còn không chắn tầm nhìn, không ảnh hưởng đến việc đi qua đi lại giữa hai hướng Đông – Tây. Ma ma không tin, bảo tỷ ấy vẽ ra xem thử, Ngọc Quỳnh tỷ tỷ vẽ một tháng trời rồi làm ra bức bình phong này.”

Minh Hoa Thường gật đầu, thật lòng tán thành: “Không sai, làm bức tường chạm khắc hoặc tường hoa thì quá chật chội, sẽ làm mất đi khí thế của vũ đài, còn làm cho nó trông có vẻ chật hẹp nữa. Để bức bình phong ở đây rất hợp lý, lúc bước vào, đúng là ta cũng cảm thấy rộng rãi thoải mái.”

Nha hoàn nở mày nở mặt theo, nói: “Không chỉ có vậy thôi đâu, Ngọc Quỳnh tỷ tỷ còn biết thủy thác họa [*], đến cả họa sĩ của triều đình cũng không thể học được kỹ thuật vẽ này đâu…”

[*] Thuỷ thác hoạ: Một kỹ thuật vẽ tranh cọ nước.

Nha hoàn đang nói chuyện rất hưng phấn, bỗng, ở phía đối diện truyền tới một tiếng hừ lạnh. Minh Hoa Thường ngẩng đầu lên thì nhìn thấy Sơn Trà, nàng ta đang dựa vào lan can, ánh mắt thì như lưỡi dao.

Nha hoàn bỗng im bặt, Sơn Trà túm khăn, uốn éo đi tới, giở giọng quái gở: “Ngươi quả đúng là một con chó ngoan, gặp người là sủa, hận không thể kéo hết khách tới chỗ nàng ta. Đáng tiếc thay, nàng ta trời sinh đen đủi, chỉ e là không thể gánh nổi nhiều phúc phần như vậy.”

Có vẻ như trong nội bộ Thiên Hương các, mọi người cũng “đấu đá” nhau rất nhiều. Sơn Trà và Ngọc Quỳnh bất hòa với nhau, đây đã là lần thứ hai Sơn Trà công khai chèn ép Ngọc Quỳnh. Minh Hoa Thường nhớ rõ, ban nãy tú bà đã nói, Ngọc Quỳnh làm hoa khôi được bốn năm rồi, còn Sơn Trà cô nương trước mặt vừa có dung mạo diễm lệ lại vừa trẻ tuổi, nhìn qua thì thấy, hình như đây là sự phân tranh giữa hoa khôi cũ và mới.

Minh Hoa Thường cảm thấy câu nói này của Sơn Trà còn mang hàm nghĩa khác, xem ra, nàng ta cũng biết được không ít tin xấu của Ngọc Quỳnh. Minh Hoa Thường cố ý giả vờ không tin, hỏi: “Thật không? Chắc không phải là do ngươi ghen tỵ với nàng ta nên mới cố tình nói xấu nàng ta đâu nhỉ?”

“Cái gì?” Suýt chút nữa thì Sơn Trà đã tức chết rồi, nàng ta cao giọng nói: “Ta nói xấu nàng ta ư? Haiz, cũng chẳng biết kẻ nào tới Vệ phủ hầu rượu rồi Vệ phủ xảy ra án mạng; ở trong các [*] thì tranh giành khách, không chịu hầu hạ khách cho tốt mà lại còn dẫn quan phủ tới. Nếu không phải là do nàng ta gây chuyện, thì tại sao Thiên Hương các lại vắng vẻ như thế này? Ta vất vả luyện múa, đến cơm cũng chẳng dám ăn nhiều, ngủ cũng phải buộc chân lên [**], vất vả lắm mới giữ được khách lại. Nàng ta thì hay rồi, đi đến đâu là khắc đến đó, hủy hoại hết tất cả!”

[*] Các ở đây chỉ Thiên Hương các.

[**] Ngủ buộc chân lên để tránh việc chân bị sưng phù.

Giọng nói của Sơn Trà sắc nhọn, chẳng hề có ý kiềm chế, nha hoàn lúng túng, vội nói: “Sơn Trà tỷ tỷ, ma ma nói là không thể lan truyền việc xấu trong nhà ra ngoài, không cho nói những chuyện này…”

“Ai cùng một nhà với nàng ta?” Sơn Trà lạnh lùng vung tay áo: “Mệnh nàng ta kém, khắc chết gia tộc phụ mẫu, khắc chết ân khách, có nói chuyện xấu thì cũng chỉ là chuyện xấu của một mình nàng ta, có liên quan gì tới ta đâu?”

Ánh mắt nha hoàn không ngừng liếc tới chỗ Minh Hoa Thường, vừa nóng nảy vừa xấu hổ: “Sơn Trà tỷ tỷ…”

Vốn dĩ Minh Hoa Thường chỉ muốn “kích nổ” thử thôi, không ngờ lại nghe thấy tin tức bất ngờ này. Minh Hoa Thường giận tái mặt, lạnh lùng khiển trách: “Quan phủ gì? Tính mạng kẻ nào? Các ngươi đang nói cái gì vậy?”

Cuối cùng thì Sơn Trà cũng tỉnh táo hơn một chút sau sự nóng nảy vừa qua, nhận ra bản thân đã gây ra họa lớn, đã nói ra chuyện mà ma ma nghiêm cấm và lệnh không cho họ nói ra. Minh Hoa Thường thấy họ muốn trốn tránh không nói thì lạnh lùng lên tiếng: “Được rồi, các ngươi không nói thì ta đi bẩm báo với thế tử. Dám gạt người của phủ Giang An Hầu chúng ta, các ngươi làm phản thật rồi!”

“Đừng mà.” Sơn Trà luống cuống, vội vàng kéo tay Minh Hoa Thường, ấp a ấp úng nói: “Người của phủ Kinh Triệu từng tới và nói là do ân khách nghĩ quẩn rồi tự sát, không liên quan tới chúng ta.”

“Tự sát?” Minh Hoa Thường nhíu mày, nương theo tình thế mà lạnh lùng chất vấn: “Người đó chết ngay trong nơi này của các ngươi ư? Ở chỗ nào?”

Sơn Trà do dự mà chỉ vào Phong Tình Tư Uyển ở lầu hai rồi vội vã thu tay lại: “Đại nhân, người của quan phủ đã đến điều tra, thật sự là không liên quan tới chúng ta.”

“Người chết là ai?”

“Trương Tam lang, tục danh Tử Vân.”

“Bây giờ thi thể của hắn ta đang ở đâu?”

Sơn Trà biết rõ loại người quyền quý rất kiêng kỵ chuyện này, chẳng cần phải nói tới Hầu phủ làm gì, mỗi ngày, lúc nàng ta ngủ, chỉ cần nhớ tới chuyện có một người chết ở lầu hai là lại thấy sợ hãi. Sơn Trà vội làm sáng tỏ mọi chuyện: “Sau khi quan phủ kiểm tra thì đã kéo thi thể tới nghĩa trang rồi ạ. Ngài yên tâm, ma ma đã mời cao tăng tới tụng kinh rồi, hắn ta tự sát và cũng không oán hận chúng ta, sẽ không quanh quẩn ở trong Thiên Hương các đâu.”

Minh Hoa Thường ngẩng đầu nhìn lầu hai, mơ hồ thấy giấy niêm phong dán ngoài cửa bao sương thật. Minh Hoa Thường chỉ lên lầu, hỏi: “Đuổi tà bên trong chưa?”

Sơn Trà và nha hoàn đều lúng túng, Minh Hoa Thường thầm thấy mừng, biết rõ là không có ai đi vào hiện trường. Nàng thầm nói lời xin lỗi với phủ Giang An Hầu, nàng không cố ý hủy hoại thanh danh Giang gia đâu, sau đó thì lạnh mặt, nhìn họ một lượt từ trên xuống dưới và quát lớn: “Nói, sao lại câm rồi?”

Hiển nhiên là Minh Hoa Thường đang thể hiện cái gọi là “Tể tướng trước cửa nhà quan thất phẩm”, Sơn Trà không dám đắc tội với tỳ nữ của Giang An thế tử, nén giận nói: “Chưa ạ. Sau khi ma ma phát hiện ra người chết thì vội vã đi báo quan. Người của quan phủ tới điều tra, không phát hiện ra dấu vết giết người nên để nha dịch phong tỏa cánh cửa kia lại. Còn nói là về sau sẽ phái người tới hỏi, bảo chúng ta phối hợp bất cứ lúc nào. Người hầu hạ người khác như chúng ta đâu dám đắc tội với quan sai, vì không thể động vào tờ giấy niêm phong trên cửa nên chỉ mời cao tăng ở Thanh Long tự tới niệm sinh siêu độ trên hành lang.”

Đây là một tin cực kỳ tốt với Minh Hoa Thường, nha dịch quan phủ đã được huấn luyện nên sẽ không trắng trợn phá hỏng hiện trường trong lúc điều tra, sau đó thì họ dùng giấy niêm phong để ngăn không cho người không liên quan ra vào, trong phòng còn giữ nguyên trạng thái lúc xảy ra án mạng. Hiện trường nguyên vẹn thì càng có lợi cho Minh Hoa Thường tìm bức tranh.

Nhưng cũng mang tới một vấn đề, giấy niêm phong đã được dán trên cửa rồi, nàng vào thế nào đây?

Việc Minh Hoa Thường giả vờ làm tỳ nữ ngang tàng vẫn chưa đủ để bọn họ bỏ qua lệnh cấm của quan phủ mà xé giấy niêm phong ra, cũng chưa đủ để không bị người ta hoài nghi. Xem ra, nàng vẫn cần phải tính toán kỹ lại xem nên tiến vào hiện trường như thế nào, Minh Hoa Thường âm thầm nghĩ ngợi, hỏi: “Vậy, ban nãy các ngươi có nói đến án mạng ở Vệ phủ, đã có chuyện gì xảy ra vậy?”

Nói đến chuyện này, Sơn Trà đỡ lo lắng hơn nhiều, thái độ không rõ ràng, nói: “Chuyện này lại càng không liên quan gì tới chúng ta. Mấy hôm trước, danh sĩ nổi danh lừng lẫy Trường An mở tiệc, mời Thiên Hương các tới bữa tiệc trợ hứng. Theo lý, phải là ta đi, nhưng ma ma thiên vị, nhường cơ hội cho Ngọc Quỳnh. Ngọc Quỳnh tới Vệ phủ đàn. Kết quả là, bữa tiệc diễn ra được một nửa thì bỗng nhiên Vệ Đàn sùi bọt mép, toàn thân run rẩy, quản gia vội vã đi mời lang trung, nhưng lang trung còn chưa kịp tới thì Vệ Đàn đã chết rồi. Xảy ra chuyện lớn như vậy, chắc chắn là sẽ kinh động đến quan phủ. Ngày đó, mấy người Ngọc Quỳnh bị giữ lại tra hỏi, tới khi đến giờ giới nghiêm ban đêm mới được thả về.”

Nói xong, Sơn Trà vung khăn, hầm hừ nói: “Nghe nói trước kia Ngọc Quỳnh còn là một tiểu thư quan gia đấy, mà nàng ta vừa ra đời thì nhà bọn họ đã bị trị tội mưu phản; nàng ta tới Vệ phủ hầu rượu, chủ nhân Vệ phủ xảy ra chuyện; nàng ta ở trong các với Trương Tam lang, Trương Tam lang cũng tự sát. Ta thấy nàng ta là sao chổi, là loại tang môn, đi đến đâu là mang tai họa đến đó.”

Nha hoàn nghe không nổi nữa, đỏ mặt nói: “Sơn Trà tỷ tỷ, tỷ nói năng thì tích đức chút đi. Vệ Đàn đại nhân chết như thế nào thì đến bây giờ quan phủ cũng chưa điều tra ra được, Trương Tam lang lại là tự sát vì tài vẽ tranh của hắn ta, khi ấy Ngọc Quỳnh tỷ tỷ vẫn còn đang tiếp khách ở Nghiễm Hàn Nguyệt Uyển, sao tỷ ấy có thể biết được? Về phần tỷ nói về cảnh ngộ nhà người ta thì càng không nên nhắc tới. Lúc đầu tỷ ấy vốn là tiểu thư nhà quý nhân, nếu chẳng phải vì năm bốn tuổi gia tộc bị cuốn vào án mưu phản, tỷ ấy bị ép phải lưu lạc giáo phường ty, thì hôm nay chúng ta còn chẳng xứng được xách giày cho người ta đâu. Sơn Trà tỷ tỷ, ngẩng đầu ba thước có thần linh, lúc tỷ nói những lời này nên nhớ tới bản thân mình.”

Sơn Trà cười nhạo, nâng mắt lên, trông có vẻ hả hê lắm, nàng ta nói: “Lợi hại đến vậy à? Ta sợ thật đó. Có phải về sau ta gặp nàng ta thì phải quỳ xuống, cung kính gọi hai tiếng tiểu thư không?”

Sơn Trà nói xong thì cười khanh khách, nha hoàn bị chọc giận đến mức gương mặt đỏ bừng, giậm mạnh chân rồi chạy đi.

Minh Hoa Thường bị buộc phải xem màn kịch này, nàng nhìn bộ dạng kiêu ngạo của Sơn Trà lại không hề thấy đáng giận, chỉ cảm thấy thật đáng buồn.

Những lời Sơn Trà vừa nói quả đúng là rất ác độc, lấy thân thế khốn khổ của Ngọc Quỳnh ra để nói đùa, phàm là người có chút lương tri thì sẽ không thể cười nổi. Nhưng, trong chuyện này, có thể trách được Sơn Trà sao?

Minh Hoa Thường bình tĩnh nhìn nhận, nếu như nàng ở vị trí của Sơn Trà, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, không được đọc sách, không biết chữ, chỉ biết dùng nhan sắc để hầu hạ người khác, phải giành được sự yêu thích của nam nhân thì mới có những tháng ngày tốt lành, thì e là nàng cũng sẽ biến thành như thế.

Tất nhiên là, tháng ngày tốt lành cũng chỉ là nói tương đối thôi.

Bông hoa không có mưa móc, không có ánh mặt trời tưới tắm, thì không thể trách vì sao nàng ta lại không trở thành bông hoa lan ngay thẳng, xán lạn, khí khái được.

Minh Hoa Thường cảm thấy, việc Sơn Trà xem thường Ngọc Quỳnh tựa như việc ngoại thất xem thường nữ tử thanh lâu, chính thê xem thường tiểu thiếp vậy. Các nàng ấy đều phải phụ thuộc vào người khác, không dám phản kháng căn nguyên làm cho các nàng ấy bất hạnh cả đời, rồi lại vung đao hướng về phía đồng loại yếu thế hơn mình. Việc tạo ra giai cấp thấp hơn mình, việc ra sức chà đạp lên nữ tử bất hạnh hơn mình, sẽ làm cho bản thân các nàng ấy trở thành người cao quý hơn người khác sao?

Cũng không thể. Kẻ yếu khinh bỉ lẫn nhau chỉ vì muốn tìm ra lý do khiến cho kẻ mạnh bóc lột mình, thật ra, chẳng cần phải như vậy.

Nha hoàn chân thành ủng hộ Ngọc Quỳnh bị Sơn Trà chọc giận đến mức đã bỏ đi, ở trong góc chửi rủa Sơn Trà tiểu nhân đắc chí với tiểu tỷ muội, chắc chắn ngày sau sẽ ngã thảm hại hơn. Minh Hoa Thường lại vỗ vỗ tay Sơn Trà, hỏi: “Có thể dẫn ta tới chỗ các ngươi ở xem thử không?”