Song Bích

Chương 196: Hầu bệnh




Lần này Thái thượng hoàng bệnh nặng, Minh Hoa Thường hầu bệnh mấy ngày liên tục, thật sự là nàng không thể chịu nổi nữa, bị Lý Hoa Chương cưỡng ép đưa về nghỉ ngơi. Nàng ngủ một giấc từ buổi tối đến tận buổi trưa của ngày hôm sau, khi tỉnh dậy thì phát hiện ra trong cung điện yên tĩnh, nàng hỏi ra thì mới biết, Hoàng đế dẫn theo Hoàng tử Hoàng nữ và tôn thất đến, cung nữ thái giám trong Thượng Dương cung đều đi đến chủ điện hầu hạ.


Đế Hậu đại giá, lẽ ra Minh Hoa Thường nên tiến ra nghênh đón, nhưng khi Hoàng đế đến, Minh Hoa Thường đang ngủ say, Lý Hoa Chương không cho người ta đánh thức nàng.


Dù sao thì cũng đã muộn rồi, Minh Hoa Thường làm “lợn chết không sợ nước sôi”, dứt khoát đi tắm, sau khi thay đồ xong thì mới đi gặp vua. Bấy giờ, trong tẩm điện của Thái thượng hoàng đã đầy người, Minh Hoa Thường bước vào, người bên trong đều quay đầu lại nhìn.


Minh Hoa Thường vô cùng thản nhiên, thong dong bình tĩnh đi qua đám người, hành lễ với người ngồi trên cùng: “Thánh nhan vạn tuế, Hoàng hậu vạn phúc. Bái kiến Tương Vương, Thái Bình Trưởng Công chúa.”


Vi Hoàng hậu đang nghe ngự y bẩm báo tình hình sức khỏe của Thái thượng hoàng, thấy Minh Hoa Thường mới đến thì liếc nàng một cái, khẽ nhíu mày hỏi: “Sao muộn thế này rồi Ung Vương phi mới đến?”


Lý Hoa Chương đã bình tĩnh đi đến bên cạnh Minh Hoa Thường, nghe vậy thì hắn thản nhiên nói: “Mấy ngày nay bệnh tình của Thái thượng hoàng tái lại nhiều lần, nhị nương đã trông trước giường Thái thượng hoàng một ngày một đêm, giờ Sửu mới về nghỉ. Là ta không cho người ta đánh thức nàng ấy, nếu như Hoàng hậu có nghi vấn gì thì cứ chất vấn ta là được.”


Trong khoảng thời gian này, Vi Hoàng hậu đã nắm hết mọi quyền hành, đã lâu lắm rồi chưa cảm nhận mùi vị bị người ta chống đối như thế này. Sắc mặt bà ta có chút không vui, nhưng nhớ tới thân phận của Lý Hoa Chương, cuối cùng bà ta cũng không nổi giận gì ngay trước mặt mọi người, chỉ cười nói: “Ung Vương phi tận hiếu thay ta và bệ hạ, ta đau lòng cho Ung Vương phi còn không kịp, sao ta lại bất mãn với Ung Vương phi cho được kia chứ? Đáng thương quá, một cô nương lúc thành hôn thì tươi như hoa, mới mấy ngày không gặp thôi mà đã gầy đi nhiều như vậy rồi. An Lạc, nhanh qua đây đi, thật sự là con rất nên học hỏi Ung Vương tẩu của con đấy.”


An Lạc Công chúa không hề muốn nhưng mà vẫn phải tiến lên, cho dù đang đến đây để thăm bệnh, nhưng nàng ta vẫn mặc váy bách điểu tinh xảo, lần này váy đổi thành lông chim công màu trắng, màu sắc đơn giản hơn rất nhiều nhưng mức độ xa hoa thì lại không hề giảm.


An Lạc Công chúa nhẹ nhàng cúi người, sau đó nói: “Nhị huynh, nhị tẩu vất vả rồi. Khổ lao của hai người, ta và mẫu thân sẽ ghi nhớ.”


Giọng nói của An Lạc Công chúa lơ đễnh, nghe như thể đang xem đây là chuyện hiển nhiên, giống như là, người khác có thể làm việc thay cho nàng ta là vinh hạnh vô thượng. Lý Hoa Chương lẳng lặng nhìn thoáng qua An Lạc Công chúa rồi nói: “Ta đến Thượng Dương cung hầu bệnh, một là muốn tận thiếu thay cho phụ thân ta, hai là kính trọng công lao sự nghiệp của Thái thượng hoàng, thế nên ta bỏ ra chút sức mọn mà thôi. Những gì ta làm đều xuất phát từ tấm lòng của ta, không phải vì bất cứ ai hết, đương nhiên là ta cũng không dám luận công nhận thưởng.”


An Lạc Công chúa nghẹn lại, không biết nên trả lời như thế nào. Thái Bình Trưởng Công chúa nhìn về phía bình hoa xinh đẹp nhưng lại lỗ mãng và ngu xuẩn đó, rồi bà ta nói: “Mẫu thân bệnh nặng, chúng ta thân làm con cái, vốn nên là người chịu khổ cực, chịu cực nhọc, ở bên người ngày đêm. Ấy thế mà bây giờ lại cần một vãn bối như nhị lang tận hiếu thay chúng ta, thật sự là nên thấy hổ thẹn.”


Trong lời nói của Thái Bình Trưởng Công chúa mang theo cả sự châm chọc, có thể nhìn ra được là bà ta mang thành kiến rất sâu nặng với mẹ con Vi hậu. Tương Vương như một người hòa giải bất đắc dĩ, thấy thế thì lên tiếng giảng hòa: “Mẫu thân còn đang ở bên trong dưỡng bệnh, đừng ầm ĩ nữa, có chuyện gì thì ra ngoài mà nói đi.”


Mọi người không dị nghị gì, lần lượt đi ra ngoài. Lúc Thái tử Lý Trọng Tuấn ra ngoài thì đã chủ động để cho An Lạc Công chúa đi trước, An Lạc Công chúa khinh thường “xùy” một tiếng, rồi nàng ta ngẩng cao đầu, từ xa xa đã tránh khỏi Lý Trọng Tuấn, đi ra ngoài từ cánh cửa khác, như thể là trên người Lý Trọng Tuấn có thứ gì đó dơ bẩn lắm, như thể là nàng ta chỉ sợ mình sẽ không tránh kịp.


Lý Trọng Tuấn chủ động lấy lòng lại bị nàng ta làm cho mất mặt như vậy, nhất là ở trước mặt tôn thất và cung nhân, hắn ta thấy vô cùng khó xử. Các cung nữ đều im lặng cúi đầu, mấy Quận vương thì đi ra ngoài với sắc mặt bình thản như thường, như thể là không nhìn thấy cảnh tượng vừa diễn ra. Hoàng đế và Vi Hoàng hậu đi phía trước nói đùa với An Lạc Công chúa, mỗi lần Hoàng đế mở miệng ra thì đều chỉ nói mấy lời cưng chiều nữ nhi, không hề để ý đến việc, ông ấy vẫn còn một nhi tử khác.


Đám người lần lượt đi lướt qua Lý Trọng Tuấn, mọi người không hẹn mà cùng giữ im lặng, bỏ qua sự khó xử của Lý Trọng Tuấn hòng giữ sĩ diện cho hắn ta. Nhưng, loại im lặng này lại càng khiến Lý Trọng Tuấn thấy nhục nhã hơn, ngoài mặt hắn ta vẫn duy trì sự cao quý của một vị Thái tử, nhưng ở nơi không ai nhìn thấy, hắn ta lại siết chặt các ngón tay vào nhau.


Minh Hoa Thường im lặng đi đến rìa đám người, nàng nhân lúc không ai chú ý, thì thầm hỏi Lý Hoa Chương rằng: “Trưởng bối đến mà sao lại chàng không gọi ta dậy thế?”


Lý Hoa Chương cầm tay nàng, thản nhiên nói: “Không cần thiết.”


Cái gì mà không cần thiết kia chứ? Không cần phải gặp những người thân cùng tộc cùng họ với hắn, hay là nói, bọn họ không được tính là người thân?


Minh Hoa Thường không hỏi nữa, rõ ràng là Lý Hoa Chương cũng không muốn tiếp tục chủ đề này.


Trước kia Lý Hoa Chương không quen nhìn cái cảnh Nữ hoàng dùng người không khách quan, người Võ gia hoành hành ngang ngược, làm loạn triều cương, hắn tâm tâm niệm niệm muốn giúp đỡ chính nghĩa, khôi phục Đại Đường, vì thế mà đã không tiếc công nỗ lực bằng mọi giá. Bây giờ người cầm quyền trở thành hoàng thất Lý Đường, hắn mới phát hiện ra rằng, thân tộc của hắn chẳng hơn gì người Võ gia cả.


Thậm chí là còn ác độc hơn, ngu xuẩn hơn, ức hiếp dân chúng hơn.


Hoàng đế, Vi Hoàng hậu dẫn đám tôn thất đi đến trắc điện, hỏi về bệnh tình của Thái thượng hoàng, nói những lời màu mè không đau không ngứa, sau đó thì bãi giá hồi cung.


Thậm chí là bọn họ còn chẳng chờ đến khi Thái thượng hoàng tỉnh lại. Minh Hoa Thường thật sự nghi ngờ là bọn họ chỉ cố ý như thế thôi, cố ý đến ngay lúc Thái thượng hoàng đang hôn mê, vậy thì vừa có thể thể hiện sự hiếu thuận, vừa không cần chăm sóc bệnh nhân.


Thượng Dương cung nhanh chóng khôi phục lại sự tĩnh lặng như thường ngày, ngày tháng chăm sóc bệnh nhân vừa buồn tẻ lại vừa cực khổ. Minh Hoa Thường dần dần tìm được cảm giác cân bằng, sẽ không khiến mình mệt mỏi đến mức đau đầu bất tỉnh nữa. Nhưng những gì nàng gánh vác chỉ là một phần nhỏ mà thôi, đa số thời gian đều là Lý Hoa Chương trông coi trước giường bệnh.


Cuộc sống như vậy cứ trôi qua, không biết là đã qua bao lâu, vào một buổi hoàng hôn nọ, Thái thượng hoàng tỉnh khỏi cơn mơ, bất ngờ ngửi thấy một mùi hương thơm dịu. Bà ấy cố hết sức mở mắt ra, thì chợt nhìn thấy trước giường cắm một cành hoa quế. Sau bức bình phong, một bóng dáng mơ hồ nhưng không che giấu được sự rắn rỏi, người nọ đang tính toán gì đó, nghe thấy tiếng vang, hắn nhẹ nhàng đặt bút xuống, đứng dậy đi vào nội điện và hỏi: “Thái thượng hoàng, ngài tỉnh rồi. Ngài có thấy khó chịu ở chỗ nào không?”


Thái thượng hoàng nhìn cái bóng sau bức bình phong đó, hắn cực kỳ tự giác, biết rõ bà ấy không muốn nhìn thấy bọn họ nên không chủ động xuất hiện. Nhưng mỗi lần bà ấy tỉnh lại khỏi cơn đau ốm, bà ấy đều có thể nhìn thấy hắn, hoặc là nữ tử kia canh giữ ở cách đó không xa.


Cảm giác này rất kỳ lạ, chắc chắn là Thái thượng hoàng phải căm hận hai kẻ phản bội này, nhưng lâu dần, đến cả bản thân Thái thượng hoàng cũng phải căm ghét cái cơ thể mục nát tỏa ra mùi hương khác thường này, mà hai người này lại luôn yên tĩnh kiên nhẫn mớm thuốc, gác đêm, xử lý những thứ dơ bẩn cho bà ấy, vẻ mặt họ còn chẳng thay đổi gì cả. Nếu như đó chỉ là diễn trò, vậy thì thật sự là sự kiên nhẫn trong bọn họ quá tốt.


Thái thượng hoàng thở dài một tiếng, lần đầu tiên hỏi: “Ngươi đang xem gì vậy?”


Ánh mắt Lý Hoa Chương khẽ thay đổi, rõ ràng là hắn cũng thấy cực kỳ bất ngờ. Nhưng tâm tình chập chờn này lại nhanh chóng lắng xuống, hắn hơi cụp mắt, không nhanh không chậm chắp tay trước ngực trả lời: “Bẩm Thái thượng hoàng, là sổ sách quý trước của Quang lộc tự, thần đang hạch toán giá lương thực và giá thịt.”


“Quang lộc tự.” Thái thượng hoàng lẩm bẩm, giọng điệu khiến người ta không thể nghe rõ ý nghĩ: “Thì ra ngươi đã từ phủ Kinh Triệu bị điều đến Quang lộc tự.”


Lý Hoa Chương im lặng, Thái thượng hoàng đã nắm giữ triều chính nhiều năm, là chuyên gia “đùa giỡn lòng người”, đương nhiên hiểu được hàm ý đằng sau sự điều động này, dù hắn có biện hộ gì thì cũng đều không có ý nghĩa gì cả. Quả nhiên, Thái thượng hoàng nhẹ nhàng cười một tiếng rồi hỏi: “Vậy ngươi tính ra được gì rồi?”


“Trong năm Võ Đức, Đại Đường vừa lập, hủy bỏ Tùy thù [*], lập nên thông bảo [**], đặc xá thiên hạ, nhưng bởi vì chiến sự liên miên không ngớt, Đột Quyết quấy nhiễu, dân chúng phải kiếm sống trong khó khăn, người chết đói ở độ tuổi mười hai, mười ba. Cho đến khi Thái Tông kế vị, giá gạo, giá ngũ cốc cứ luôn cao lên không hạ xuống, một thớt lụa mới đổi được một đấu gạo. Thái Tông chủ trương tiết kiệm, ban bố ân điển, mặc dù dân chúng có gì ăn nấy nhưng vẫn vô cùng ủng hộ Thái Tông, không hề bất mãn với triều đình. Trinh Quan năm thứ ba, lúa ở Quan Trung chín, giá gạo mới dần hạ, đến Cao Tông Lân Đức năm thứ ba, giá gạo trong Trường An luôn duy trì ở mức một đấu ba bốn đồng. Nhưng giai đoạn sau của triều Cao Tông, Quan Trung liên tục thất thu nhiều năm, tháng Tư trong Vĩnh Thuần năm đầu tiên, gạo Quan Trung một đấu bốn trăm đồng, cộng thêm dịch bệnh, người chết rất nhiều. Cao Tông vì Quan Trung mất mùa đói kém mà chuyển đến Đông Đô, sau đó thì thường ở Đông Đô, rất ít khi về Trường An. Bây giờ, ngài có biết giá gạo trong dân gian là bao nhiêu không?”


[*] Thù: Đơn vị đo lường thời cổ của Trung Quốc, bằng lạng.


[*] Thông bảo: Là một loại tiền đúc của Nhà Đường, được phát hành từ năm 621 dưới thời của Đường Cao Tổ và vẫn được tiếp tục đúc và lưu hành trong hầu hết các đời Hoàng đế Nhà Đường cho đến tận năm 907.


Thái thượng hoàng không trả lời, Lý Hoa Chương chủ động nói ra đáp án: “Gạo Trường An một đấu cả trăm đồng, trộm cướp rất nhiều, lính canh thì ít nhất ba ngày không ăn gì.”


Thái thượng hoàng bình tĩnh nghe, rồi bà ấy thản nhiên nói: “Trước Lân Đức năm thứ nhất đều là do Cao Tông chấp chính, sau năm Lân Đức, ta buông rèm chấp chính, Nhị Thánh lâm triều, quả nhiên Lân Đức năm thứ ba đã bộc phát đại hạn, giá gạo tăng lên bốn trăm đồng một đấu. Ngươi đang muốn nói, vì nữ nhân chấp chính nên mới không đủ sức trị quốc, đức hạnh không hợp lễ pháp cho nên ông trời đưa cảnh báo xuống, giá gạo tăng cao mấy năm liên tục ư?”


“Không phải.” Lý Hoa Chương nói: “Thóc gạo bốn trăm đồng một đấu là giá cao nhất, bởi vì Quan Trung gặp lũ lụt trước, sau đó đến nạn châu chấu, tiếp đó là dịch bệnh, sau này mới dần hạ xuống. Sở dĩ giá gạo có thể giảm, không đến mức bị lái buôn nâng giá ào ào làm giàu từ thiên tai, chính là vì sự can thiệp của Thường bình thự. Thường bình thự là do Cao Tông tạo ra, bình thường sẽ dùng giá cao hơn giá thị trường để mua thóc gạo về, khi thiếu lương thực thì sẽ bán ra với giá thấp hơn giá thị trường, thậm chí là còn có một lần dùng ngũ cốc đổi lấy tiền để điều tiết khống chế giá hàng, bởi vậy, trong thời Cao Tông, mặc dù gạo còn quý hơn triều Trinh Quan nhưng vẫn duy trì ở phạm vi mà đại đa số bách tính ăn nổi. Lúc đó ngài đã chấp chính, chính sự dù lớn hay nhỏ thì đều do trung cung xử lý, có lẽ ngài biết rõ những hành động này hơn ta, không chừng ngài chính là một trong số những người lập ra. Giá gạo đắt sau khi Nhị Thánh lâm triều, đa số là vì mất mùa mấy năm liên tục, nói gà mái gáy lớn chính là điềm báo họa quốc, chính là dơ bẩn bất lực, những nam nhân kia không có năng lực thay đổi hiện trạng bèn đẩy mầm tai vạ lên một nữ nhân. Mấy năm nay ta làm một người dân của Đông Đô, tận mắt nhìn thấy giá gạo lên xuống không ngừng, nhưng xét trên tổng thể thì vẫn đã ổn định lại, cảm thấy cũng không có gì lớn; sau này ta vào làm quan mới biết được rằng, có thể duy trì một chính sách theo cách ổn định và huyền diệu như vậy thì cần phải tiêu tốn không biết bao nhiêu tâm huyết. Không phải là ta đang nịnh nọt, mà ta đang thật lòng thừa nhận, ngài đã làm được tốt nhất, nếu đổi thành Hoàng đế khác, chưa chắc là đã hơn được bây giờ. Nhưng mấy năm qua giá gạo liên tục tăng lên là sự thật, ngài đã từng nghĩ tới nguyên nhân hay chưa?”


Thái thượng hoàng tin Lý Hoa Chương không nịnh nọt thật, nếu như hắn là người biết nói lời nịnh nọt, bây giờ mới quay lại tâng bốc bà ấy thì cũng muộn quá rồi. Sau khi bị đoạt quyền, Thái thượng hoàng hiếm khi bàn luận chuyện quốc gia, hôm nay bà ấy có hứng thú lâu rồi không thấy, thở dài một tiếng rồi nói: “Ông trời không tốt, mấy năm liên tục không hạn hán thì cũng ngập úng, con người thì có thể có cách gì được nữa đây?”


Ban nãy, khi nhắc đến Thường bình thự, giọng điệu của Lý Hoa Chương còn bao gồm cả sự tán thưởng, bây giờ lại bắt bẻ với giọng điệu cực kỳ nghiêm khắc: “Lãnh thổ Đại Đường rộng lớn như vậy, rất hiếm có năm nào mưa thuận gió hòa, không có chuyện gì xảy ra. Thiên tai thì năm nào cũng có, nhưng vì sao năm Trinh Quan lại có thể chống đỡ được sự ảnh hưởng của thiên tai nhân họa, giữ cho giá gạo thấp, dân sinh an ổn giàu có?”


Thái thượng hoàng hiếm khi im lặng, Lý Hoa Chương dừng lại một lúc rồi nói ra đáp án: “Vì tình hình chính trị thời Trinh Quan ổn định, Hoàng đế biết nghe lời can gián, trọng dụng thần tử biết khuyên ngăn, quyền thần đều là kẻ có tài, Tể tướng quen biết lẫn nhau lại chấp chính trong thời gian dài, có thể đảm bảo chính sách được thúc đẩy một cách ổn định. Thái thượng hoàng tạo điều kiện để mọi người phát biểu ý kiến, thiết lập khoa cử, để con cháu nhà nghèo trong thiên hạ có ngày nổi danh, khiến triều đình không bị ngũ tính thất vọng [*] làm lũng đoạn, đây là chuyện tốt. Bên cạnh ngài không hề thiếu người tài, bàn về năng lực của thần tử thì chưa chắc gì đã kém năm Trinh Quan, nhưng trong triều của ngài lại đấu đá quá kịch liệt, biến động xảy ra quá thường xuyên. Sau khi Tể tướng đi nhậm chức thì việc đầu tiên người nọ làm không phải là giải quyết vấn đề dân sinh, mà là bảo đảm mình sẽ không bị ác quan nắm được khuyết điểm, trên đề phòng dưới, dưới căm thù trên, đến cả việc nói chuyện mà cũng không thể nói ra lời thật lòng, vậy thì còn hợp tác trị quốc thế nào cho được?”


[*] Ngũ tính thất vọng: 7 gia tộc hùng mạnh nhất thời Đường. Từ thời Ngụy Tấn, 5 họ “Trịnh, Thôi, Lý, Lư, Vương” luôn là danh gia vọng tộc. “Ngũ tính thất vọng” bao gồm: Lũng Tây Lý thị, Bác Lăng Thôi thị, Thanh Hà Thôi thị, Phạm Dương Lư thị, Triệu Quận Lý thị, Huỳnh Dương Trịnh thị và Thái Nguyên Vương thị.


Thái thượng hoàng im lặng hồi lâu rồi hỏi hắn: “Đây là nguyên nhân ngươi phản bội ta ư?”


“Ta vẫn nhớ khi gia nhập Huyền Kiêu Vệ, ta đã tuyên thệ không cầu công danh, không màng sống chết, làm người đứng trong bóng tối bảo vệ dân chúng. Ta có thể phản bội ngài, nhưng tuyệt đối không phản bội thiên hạ.” Lý Hoa Chương nói: “Ban đầu ngài lo lắng quần thần phản bội nên đã thiết lập Huyền Kiêu Vệ âm thầm giám sát, sau đó ngài lại lo lắng Huyền Kiêu Vệ phản bội, thiết lập người giám sát cho người giám sát. Kẻ chơi với lửa sẽ dẫn lửa tự thiêu, dùng nỗi sợ để thống trị người khác sẽ chỉ dẫn đến càng nhiều thứ tai họa khác hơn. Đầu tiên là ác quan như Lai Tuấn Thần, sau đó lại xuất hiện hai huynh đệ Trương gia lộng quyền, ngài đã không còn có thể khống chế được ngọn lửa do ngài châm lên nữa, muốn bảo toàn xã tắc thì chỉ có chính biến.”


Thái thượng hoàng cười một tiếng rất nhẹ, không biết đang giễu cợt Lý Hoa Chương hay là đang tự giễu cợt chính mình, rồi đột nhiên bà ấy thay đổi lời nói: “Ngươi phát động Thần Long chính biến, là công thần hàng đầu trong việc khôi phục giang sơn của Lý Đường, nhưng bây giờ lại bị xa lánh đến vùng ngoài rìa của quyền lực, chỉ có thể tính giá gạo xem sổ sách, liên lụy thê tử, khiến nàng cũng bị lạnh nhạt theo ngươi. Nếu biết trước có ngày hôm nay, liệu ngươi có hối hận khi đã giúp đỡ Lý Hiển tranh giành hoàng vị hay không?”


Nếu nói Lý Hoa Chương không oán hận một chút nào thì là giả, còn chưa qua cầu mà đã bị người ta rút ván, khó tránh khỏi việc khiến lòng người rét lạnh. Nhưng Lý Hoa Chương lại im lặng một lát, rồi chậm chạp mà kiên định lắc đầu và đáp: “Không đâu. Dù có làm lại một lần nữa, ta vẫn sẽ làm như vậy.”


Thái thượng hoàng nhướng mày, hỏi hắn rằng: “Thật sự là không hối hận ư? Ngươi cũng biết đấy, Lý Hiển không thích hợp làm Hoàng đế. Qua nhiều năm như vậy, biểu hiện của nó vẫn giống như lần đầu tiên đăng cơ, vẫn ham mê hưởng thụ, xa lánh lão thần, đề bạt nhà ngoại, như thể là chỉ cần đổi tất cả Tể tướng thành người hoàng gia thì nó có thể khống chế triều chính, ổn định giang sơn. Uổng cho nó bị lưu đày nhiều năm như vậy, không hề tiến bộ thêm được chút nào. Năm đó ta trẻ tuổi nóng tính, khăng khăng xử tử Lý Hiền, đâu có nghĩ đến việc nhi tử sau này còn hơn thế nữa. Có điều, bây giờ bù đắp lại vẫn chưa muộn, thay vì trông cậy vào người khác thì chi bằng nắm giữ quyền lực trong tay mình, ngươi có bao giờ nghĩ tới việc làm Hoàng đế hay chưa?”


Vẻ mặt Lý Hoa Chương vẫn bình tĩnh như nước, nhàn nhạt nhìn Thái thượng hoàng và nói: “Ngài đang lôi kéo ta, ngài muốn ly gián ta và Lý gia.”


Thái thượng hoàng “xùy” một tiếng, trên khuôn mặt đột nhiên nhuốm vẻ uy nghiêm, dù đã dần già đi nhưng vẫn không thể che lấp được sự uy phong của một vị Nữ hoàng: “Trẫm chính là chủ của thiên hạ, trẫm truyền vị cho người nào thì người đó mới là chính thống, còn cần phải lôi kéo nữa à?”


Ánh mắt Lý Hoa Chương sáng trong, vẫn giữ lại được lý trí mà nói: “Nhưng ngài cũng không thật lòng muốn truyền vị cho ta, ngài chỉ muốn cướp quyền lực lại thôi. Nếu ngài thật sự cầm quyền, thì chắc chắn là ngài sẽ giết ta. Nếu như ta đồng ý thì ta mới rơi vào bẫy của ngài. Ta sẽ không ngu xuẩn đến vậy đâu, nếu như bệ hạ tại vì thì cùng lắm ta, Tương Vương, Thái Bình Công chúa chỉ thất thế không có quyền thôi. Nhưng nếu như ngài khôi phục ngai vàng, thì tất cả bọn ta đều sẽ chết không có chỗ chôn thây. Về phần câu hỏi trước đó của ngài, ta có thể nói một cách rõ ràng cho ngài nghe rằng, trước khi khởi sự ta đã đoán trước được, ta làm con của Thái tử Chương Hoài, đương nhiên hoàng thất mới sẽ không dung nạp ta. Nhưng ta vẫn không hối hận, vì lúc đó muốn cung biến thành công thì chỉ có thể đẩy Thái tử lên đăng cơ, bỏ qua vinh nhục của một mình ta, bảo đảm hoàng thất Lý Đường thuận lợi cầm quyền, ta chịu đựng gian khổ, ta không oán trách không hối hận.”


Thái thượng hoàng khẽ nhướng một bên mày, lắc đầu cười: “Nếu ngươi đã hiểu hết rồi, vì sao lại còn muốn làm chuyện ngu xuẩn?”


“Bởi vì đây là việc ta nên làm.” Lý Hoa Chương thản nhiên nói: “Đạo đức là thứ dùng để trói buộc chính mình, không thể yêu cầu người khác cũng giống ta, cũng phải tuân giữ đạo đức. Chỉ cần bản thân ta biết thống nhất nhận thức và hành động, không thẹn với lương tâm, vậy là đã đủ rồi.”


“Dù cho người không tuân giữ đạo đức giẫm lên ngươi, càng chạy càng cao, mà ngươi thì thất bại thảm hại, ngày càng phiền muộn, thì ngươi cũng vẫn sẽ không hối hận à?”


Lý Hoa Chương lắc đầu, khi nghĩ đến một người khác, trong giọng nói bất giác mang theo cả sự ấm áp: “Không. Ta đã có được điều quý giá nhất rồi, đời này ta không còn mong cầu gì khác nữa.”


“Ngươi đúng là một người rất có đầu óc.” Thái thượng hoàng bình luận đúng sự thật: “Minh gia đã dạy cho ngươi quá nhiều sách thánh hiền, dạy ngươi ngây thơ lý tưởng, không biết thay đổi theo tình hình. Tính cách thế này, làm văn nhân thì cũng thôi đi, nhưng ở trong quan trường thì chắc chắn sẽ phải chịu thua thiệt.”


Lý Hoa Chương không để bụng, thản nhiên nói: “Vậy thì có làm sao? Không làm quan được thì cùng lắm là làm người thảnh thơi, cùng nàng ấy ngao du non nước, đi khắp thiên hạ.”


Thái thượng hoàng hơi bất ngờ: “Ngươi chắc chắn là thê tử của ngươi không thèm để ý đến việc phong Cáo mệnh chứ?”


Lý Hoa Chương cúi mặt xuống, khuôn mặt dần hiện lên ý cười dịu dàng, trông vô cùng tự nhiên: “Nàng ấy không để ý. Chỉ cần người yêu ở bên cạnh, nàng ấy không bao giờ để ý đến quan cao quan thấp, gia sản bao nhiêu.”


Thái thượng hoàng từng thấy rất nhiều cặp phu thê ân ái, đương nhiên bà ấy cũng biết là có rất nhiều đôi phu thê ngoài miệng thì nói đồng cam cộng khổ, nhưng trên thực tế, khi gặp nạn thì mệnh ai nấy bay. Vốn dĩ ban đầu bà ấy còn muốn vạch trần ảo tưởng của Lý Hoa Chương, nói cho hắn biết rằng, lời đối phương nói chỉ là lời khách sáo mà thôi, nhưng khi nhìn thấy ánh sáng dịu dàng trong mắt Lý Hoa Chương, Thái thượng hoàng chợt sinh ra một suy nghĩ hoang đường, có lẽ, lời hắn nói là sự thật thì sao?


Có lẽ là trên thế giới này vẫn có tình yêu chân thành và đơn thuần, không lẫn lộn bất cứ một thứ lợi ích nào.


Thái thượng hoàng im lặng hồi lâu, rồi bà ấy thở ra một hơi thật dài. Dường như là đến tận lúc bấy giờ bà ấy mới chính thức thả lỏng, bà ấy lại nói: “Ngươi có biết, lúc trước ta phế truất Lý gia, tự lập đế vị, vì sao ta có thể thành công hay không?”


Lý Hoa Chương biết lời nói của Nữ hoàng lúc này mới là lời thật lòng, vẻ mặt hắn trở nên trang nghiêm, hắn chỉ chậm rãi lắc đầu.


“Có lẽ là ngươi cảm thấy do ta “tiên hạ thủ vi cường”, sử dụng ác quan để giết sạch tất cả hoàng tộc Lý thị không thuận theo ta, có lẽ còn bởi vì tai mắt của ta trải rộng khắp triều đình, dù là gió thổi cỏ lay thì cũng không thể giấu được hay qua được mắt ta. Đây cũng là một trong những nguyên nhân, nhưng đây chỉ là phương pháp thôi, không phải là phương hướng.”


“Lý do chân chính mà ta có thể ổn định giang sơn, là vì ta xuôi theo thời thế. Ta giết rất nhiều quan viên, tàn sát gần như là toàn bộ hoàng tộc, khắp nơi bạo phát mấy đợt phản loạn nổi danh khắp nơi, nhưng đều không ra thể thống gì. Không phải là do ta dùng binh giỏi, binh phản quân yếu, mà là vì không có dân chúng hưởng ứng. Thiên hạ khổ vì thế gia lâu như vậy, mà ta thì lại thúc đẩy khoa cử để bọn họ nhìn thấy hy vọng người bình thường có thể thay đổi vận mệnh. Thiên hạ này là thiên hạ của dân chúng, không phải là thiên hạ của một gia tộc, một Hoàng đế. Chỉ cần thuận theo lòng dân, thì cuối cùng người đứng đầu là ai, rốt cuộc Hoàng đế mang họ Lý hay họ Võ, thật ra chỉ là chuyện râu ria mà thôi.”


Lý Hoa Chương nghe xong thì có chút chấn động, hắn thân làm người Lý gia sống mai danh ẩn tích, trưởng thành đến bây giờ, hắn chỉ thấy Nữ hoàng tàn bạo, ác quan thối nát, lại chưa bao giờ thử nghĩ từ góc độ khác, chưa bao giờ nghĩ xem vì sao Nữ hoàng lại có thể thành công, vì sao người thành công lại là Võ Tắc Thiên chứ không phải là những Thái hậu buông rèm chấp chính khác.


Khi Võ Tắc Thiên thay đổi lịch sử, thì sao lại chẳng phải là lịch sự cũng chọn bà ấy kia chứ?


Lý Hoa Chương im lặng một lúc lâu, hắn cụp mắt trầm tư. Thái thượng hoàng nói lâu như vậy nên đã hơi mệt, bà ấy chậm rãi nằm trên gối, nhìn hoa quế ở trên tủ đầu giường đến ngẩn ngơ.


Thì ra, thì ra là đã đến mùa thu rồi sao? Trí nhớ của bà ấy chỉ dừng lại vào một đêm đông nào đó, bất tri bất giác mà nửa năm trôi qua mất rồi.


Việc đời thật khó đoán biết bao, năm đó bà khăng khăng ép chết Lý Hiền, đâu có thể ngờ đến cái cảnh, nhiều năm sau, khi bà ấy hết quyền sắp chết, bệnh tật quấn người, thì cũng lại là nhi tử và con dâu Lý Hiền cùng bà ấy đi hết đoạn đường cuối cùng của sinh mệnh.


Thái thượng hoàng bất giác nghĩ, nếu như năm đó biết được kết cục của ngày hôm nay, thì liệu bà ấy có tha cho Lý Hiền hay không?


Bà ấy không có đáp án, bởi vì vận mệnh không có nếu như.