Hậu kí
(Lời của tác giả)
Dịch: Hallie/ Beta: Raph
---
Tên của Ngọc Trần Phi xuất phát từ câu thơ của Ngô Văn Anh: Biển trời mênh mông, sáng cưỡi bạch mã, tay cầm phất trần, mặc áo lông chồn, phủ tướng đến nay có được mấy anh hùng.
[*Bài thơ "Thấm Viên Xuân - tiễn Ông Tân Dương đi Hồ Bắc" của Ngô Văn Anh (khoảng 1200-1272).]
Lúc viết Quyển 1 đến đoạn xem bói, tôi đã đi tìm kiếm tên của hắn, đó là đại hung, được luận giải như sau: Số 10 - Tuyết bay phủ đầy, có lúc thành công, nhưng lại mịt mờ.
[*Luận giải: Trong thuật số học, số 10 được coi là "số tận", biểu tượng cho sự kết thúc của mọi thứ và sự bắt đầu của sự thay đổi, với sự kết thúc này có thể mang đến cảm giác tương lai không chắc chắn.
Tìm theo quẻ số: Nhà tan cửa nát, quỷ khóc thần gào. Số đoản mệnh, bệnh tật, mất máu, tuyệt đối không được dùng.
Danh lợi đều không, cô độc khốn cùng, bất lợi cho gia vận, bất lợi cho quan hệ quyến thuộc, thậm chí bệnh nạn, kiện tụng, đoản mệnh. Nếu tam tài phối hợp tốt, có thể sinh ra cao tăng, triệu phú hoặc quái kiệt. Nguồn: Tài liệu tham khảo.]
Khi đó tôi đã định kết thúc là trận tuyết lở, nhưng sau khi đọc được luận giải quả thật cảm thấy rất huyền học.
Đối với Ngọc Trần Phi, dân văn truyền thống như tôi có một sự ưu ái dành cho cái đẹp gọi là "Anh hùng hết thời, hồng nhan bạc phận", và cái "chết" khi hắn tự tử chính xác là lấy cảm hứng từ Tây Sở Bá vương. Thông qua sử bút của Tư Mã Thiên, màn tự vẫn ở Ô Giang đã trở thành biểu tượng bất hủ, tráng lệ mà bi thương.
Đây cũng một trong những cảnh hiện ra sớm nhất trong đầu tôi, bạch y, bạch mã và một thanh kiếm giữa đêm hè thảo nguyên làm kinh động thế gian.
Đến đây có thể nói là dẫu bại nhưng vẫn còn vinh, có điều vẫn chưa thể chết được.
Nước mất nhà tan, không còn chốn về, sự phù hoa buông thả của nửa đời trước và sự lẻ loi thê lương của nửa đời sau đã tạo thành hình ảnh tương phản rõ nét. "Tại sao phải sống tiếp? Chi bằng chết quách cho xong.", "Nếu đã không thể tìm đến cái chết thì cũng không thể tiếp tục sống" đây là kiểu tự sám hối phổ biến trong quần thể tri thức của giao thoa thời đại, bao gồm cả tác giả Trương Đại, người mà tôi rất thích. Nếu đọc đến kết cục mà bạn cảm thấy uất nghẹn thì cảm xúc như trên cũng không phải là không thể tìm được.
Màn tự sát ở Ô Giang vốn phải trở thành kết thúc đẹp đẽ oanh liệt, nhưng sau đó hắn trở thành kẻ lạc lõng, lang thang do nước mất, nên sống thế nào, phải sống làm sao, đây là mệnh đề đã tác động đến tôi.
Tôi đã thử trừu tượng hóa nó thành hai lựa chọn.
Một cái là chết, là báo thù. Chết cùng con, thiên hạ cùng khoác áo tang.
Một cái là sống, là dựng nước, là tộc nhân và vợ con.
Sự điên cuồng trong lựa chọn đầu tiên "Ta muốn thiên hạ cùng chết" phù hợp với gu trẻ trâu của tôi hơn, đây là kết cục theo dự định ban đầu.
Nhưng càng viết càng không nỡ, ít nhất là trong lòng tôi hắn đã dần trở thành một con người có sự sống có da có thịt, không còn là hình mẫu thiếu niên bị đả kích trên sân khấu rực rỡ nữa. Tôi mong hắn có thể sống tiếp, cho dù đang mang nỗi khổ sở, hối hận và tủi nhục vô tận cũng phải tiếp tục sống. Thậm chí vẫn có thể lựa chọn có được hạnh phúc. Đấy là sự mạnh mẽ và bền bỉ khi làm người trong lòng tôi.
Từ anh hùng đến con người, đây là mệnh đề mà tôi muốn thể hiện trên Thẩm Kính Tùng. Quá trình này đã được miêu tả rất nhiều trong chính văn nên tôi không bổ sung nữa.