Lúc Tống Quan Triều cưới vợ, Từ Thủ Chước đã can ngăn đủ điều.
Tuy là cả hai đều làm việc cho Hiền Vương, nhưng lý tưởng và phong cách làm quan của họ khác nhau một trời một vực.
Từ Thủ Chước từng trải qua những ngày tháng khốn khó, nếu chỉ là một mình chịu khổ, ông ta cũng chẳng day dứt như thế, nhưng người muội
muội ông ta yêu thương nhất là Từ Niệm Thanh đi theo ông ta phải chịu quá nhiều oan uổng.
Từ Thủ Chước không bao giờ quên, mùa đông ở Dương Châu giá rét ẩm thấp. Từ Thủ Chước bẻ cái màn thầu khô cằn làm hai nửa, một nửa cho chính mình, một nửa nhét vào tay Từ Niệm Thanh.
Từ Niệm Thanh cùng huynh trưởng ngồi trong góc khuất gió bắc không thổi tới trên ngõ nhỏ, cắn từng miếng màn thầu.
Lúc đó bọn họ nhìn thấy một tiểu thiếu gia ngồi bên ô cửa sổ, tay cầm bánh nướng hành nhân thịt lừa, bàn tay và khóe miệng của tiểu thiếu gia bóng nhẫy dầu mỡ. Từ Niệm Thanh nhìn nó không chớp mắt.
Từ Thủ Chước nhẹ giọng hỏi: “Muội muốn ăn à? Ca ca cướp một cái cho muội nhé.”
Lúc đó, trong lòng ông ta bất giác sinh ra dục vọng.
Từ Niệm Thanh mỉm cười, cắn một miếng màn thầu, thân thể gầy gò cuộn tròn lại tựa vào Từ Thủ Chước, đáp lời: “Không muốn đâu, muội chỉ muốn ở cạnh ca ca mãi mãi.”
Từ Thủ Chước trước nay chưa bao giờ hay biết, hóa ra một nụ cười lại có thể làm cõi lòng tan nát như thế.
Ông ta không muốn Từ Niệm Thanh phải trải qua những ngày tháng cơ cực như thế, một lòng muốn làm nên chuyện, hận không thể dùng tất cả trân bảo trên thế gian bù đắp cho những ngày tháng khổ sở của muội muội.
Những năm đầu đi theo Tiên đế, Từ Thủ Chước vì muốn thể hiện bản thân mà không ngừng lập mưu bày kế, dùng hết thủ đoạn.
Tống Quan Triều chứng kiến hết thảy, cũng hiểu cho tấm lòng của nghĩa huynh, nhưng cũng không tán đồng cách làm việc cực đoan của ông ta.
Sau đó Bùi Thừa Cảnh gia nhập, Tống Quan Triều cùng y vô cùng hợp cạ, một lòng vì dân chúng quốc gia, không màng quyền thế, lâu ngày, hai người Tống Bùi càng thân thiết hơn.
Tiên đế vì muốn làm mai cho Tống Quan Triều và Mạnh Nguyên Nương nên lập một hội thơ.
Tống Quan Triều hiểu ý Tiên đế, không muốn chuyện chung thân của mình bị cuốn vào quyền mưu, từ sớm đã không muốn cưới vợ, liền muốn từ chối.
Nhưng Bùi Thừa Cảnh lại xem đây là một mối nhân duyên tốt, khuyên Tống Quan Triều đến gặp gỡ Mạnh tiểu thư.
Bùi Thừa Cảnh nói: “Nếu gặp rồi mà không thích thì cũng có lý do tốt để từ chối, cứ trốn tránh thế này chẳng khác nào nói Mạnh Nguyên Nương kia là hồng thủy mãnh thú, khiến Quan Triều huynh chưa gặp đã sợ bỏ chạy.”
Tống Quan Triều nghe Bùi Thừa Cảnh nói thế, nghĩ thầm, cứ gặp thử một lần cũng được, mặc kệ nàng ta là thiên tiên, cho dù y không thích, cho dù Đại La thần tiên hạ phàm trói y đến thành thân y cũng có cách chạy trốn.
Ai ngờ sau khi gặp gỡ, Tống Quan Triều mới biết cái gì gọi là ‘anh hùng khó qua ải mỹ nhân’.
Mạnh Nguyên Nương vốn cũng chẳng phải mỹ nhân khuynh quốc khuynh thành, nhưng đêm đó đứng dưới ánh trăng và hoa rơi, quạt phù dung che khuất nửa sườn mặt, chỉ để lộ một đôi mắt hạnh lấp lánh, câu mất một Tống Quan Triều. Nàng mím môi, nhỏ giọng nói với tì nữ bên cạnh: “Nhìn đẹp thì có ích gì? Quả là đồ mọt sách ngu ngốc.”
Tống Quan Triều lập tức hồi thần.
Bùi Thừa Cảnh ở bên cạnh thấy bộ dạng như mất hồn của y, huých Tống Quan Triều một cái, nhịn cười nói: “Quan Triều huynh, đây là hồng thủy mãnh thú đó, bây giờ chạy còn kịp.”
Vành tai Tống Quan Triều đỏ hồng, vội cúi đầu chỉnh lại y quan, lúng túng hỏi: “Hôm nay, ta trông cũng được chứ nhỉ?”
Bùi Thừa Cảnh bật cười.
Tình chàng ý thiếp, tài tử giai nhân, một mối duyên lành như thế, không ai không vui mừng.
Nhưng cũng không ai biết, trên hội thơ người nhìn Mạnh Nguyên Nương đến xuất thần không chỉ có mình Tống Quan Triều, mà còn có cả Sùng Thiệu Đế, lúc đó vẫn còn là Hiền Vương Thế tử Tạ Dịch.
Nhưng khác với Tống Quan Triều, Tạ Dịch không phải nhất kiến chung tình với Mạnh Nguyên Nương, mà là tình sâu không dứt.
Mạnh gia là thế gia nổi danh, Tiên đế lại mang vương tước cao quý, thế nên Hiền Vương phủ và Mạnh gia đã có qua lại từ lâu, Tạ Dịch cũng đã sớm quen biết Mạnh Nguyên Nương. Tạ Dịch mến nàng đoan trang lại tinh nghịch, dịu dàng lại hoạt bát.
Nhưng Mạnh Nguyên Nương bản tính cao ngạo, chỉ chịu gả cho người làm chính thế, mà Tạ Dịch thân là Hiền Vương Thế tử, chuyện hôn nhân không đến lượt hắn làm chủ.
Tạ Dịch vẫn luôn không dứt được mối tình trong lòng, vẫn luôn ôm chí lập được công lao, đợi phụ vương phong thưởng sẽ đề nghị ra chỉ nạp phi, cưới Mạnh Nguyên Nương làm vợ.
Năm đó Tạ Dịch chủ trì xây dựng mười ba kênh đào ở Dương Châu, ngày đêm không ăn không ngủ mới hoàn thành công trình to lớn, được nhân gian tán tụng. Về đến Vương phủ, Tạ Dịch vừa muốn thỉnh cầu phụ vương đưa sính lễ tới Mạnh gia, nào ngờ Hiền Vương lại muốn làm mai Mạnh Nguyên Nương cho Tống Quan Triều.
Tạ Dịch vốn còn ôm hy vọng trong lòng, dù sao Tống Quan Triều đã sớm lập chí không cưới thê, ai cũng không nghĩ tới, sau khi y gặp được Mạnh Nguyên Nương lại thay đổi chủ ý.
Chỉ thiếu một bước, một bước duy nhất, khiến Tạ Dịch ôm nuối tiếc đến cả đời.
Tống Quan Triều và Mạnh Nguyên Nương tình đầu ý hợp, là thần tiên quyến lữ, mà Tạ Dịch đường đường là Thế tử Hiền Vương, phải theo sắp xếp của phụ thân cưới muội muội của Từ Thủ Chước là Từ Niệm Thanh làm trắc phi.
Ngày nạp phi, Từ Thủ Chước, Bùi Thừa Cảnh, Tống Quan Triều đều đến chúc mừng, Tạ Dịch miễn cưỡng mỉm cười, không ngừng chuốc rượu tìm say.
Đêm động phòng hoa chúc, người mặc áo cưới đội mũ phượng chẳng phải người trong lòng Tạ Dịch. Từ Niệm Thanh ngoan ngoãn hiểu chuyện, tuy không biết nói ngon nói ngọt, nhưng ánh mắt nhìn Tạ Dịch chứa đầy ái mộ và sùng bái.
Tạ Dịch biết đây là một người con gái tốt, nhưng hắn lại không thể thích nàng.
Hắn ôm lấy Từ Niệm Thanh, vuốt ve nàng, hôn nàng, lại không cảm nhận được một chút hoan hỉ, trong lòng tràn ngập ủy khuất và phẫn hận, thế nên hắn buông Từ Niệm Thanh, cất bước rời khỏi hỉ phòng.
Đêm đó, Mạnh Nguyên Nương vẫn còn chong đèn đợi Tống Quan Triều về nhà.
Tống Quan Triều giản dị cần kiệm, chỗ mà đôi phu thê đang ở chỉ là một tòa trúc viện nho nhỏ đơn giản, trừ nô tì cùng Mạnh Nguyên Nương bồi giá cũng chẳng còn nô bộc nào.
Nửa đêm có người gõ cửa, Mạnh Nguyên Nương nghĩ rằng là Tống Quan Triều về, bèn tự mình ra mở cửa. Người đó ngã vào lòng nàng, Mạnh Nguyên Nương chưa kịp nhìn rõ, chỉ ngửi thấy mùi rượu nồng nặc.
Nàng chau mày, nhéo vành tai nam nhân, cằn nhằn: “Tống Quan Triều, ai cho chàng cái gan uống rượu thế?”
“Nguyên Nương…”
Người đó ôm chầm lấy nàng, không màng tất cả hôn nàng, lúc này Mạnh Nguyên Nương mới nhìn rõ khuôn mặt nam nhân, mặt nàng liền trắng bệch.
Người đến không phải Tống Quan Triều mà là Tạ Dịch. Đêm đó, hắn lăng nhục thần tử của hắn, huynh đệ của hắn.
Trong mơ màng, Tạ Dịch nhìn thấy đôi mắt hạnh đẫm lệ, men say áp chế lý trí vốn thanh tỉnh, nhưng hắn thà rằng đây là một giấc mơ, một giấc mơ ngọt ngào.
Hắn ôm chặt lấy thân thể lạnh lẽo đang run rẩy ấy, say mê hôn lên từng tấc da trắng ngần. Tạ Dịch biết hắn đã phạm tội tài trời, nhưng tâm hồn bị giam cầm quá lâu, luôn phải cẩn thận từng li từng tí, thế nên cho dù hắn biết hắn có lỗi, nhưng chỉ càng làm hắn thêm hưng phấn càn rỡ chứ chẳng có chút ăn năn nào.
Đến khi hắn hoàn toàn tỉnh táo, trong ánh ban mai nhỏ giọt, hắn thấy Mạnh Nguyên Nương cầm một cây kéo, chĩa mũi kéo bén nhọn trên ngực hắn.
Nàng nắm chặt tay, khớp xương trắng bệch, cổ tay run rẩy.
Tạ Dịch nghĩ, nếu hắn được ch/ết dưới tay nàng, cũng xem như là hoàn thành mộng chung thân.
Nhưng Mạnh Nguyên Nương nghĩ đến Tống Quan Triều, nghĩ đến tiền đồ tự cẩm của y, nước mắt lăn dài bên má, nàng buông kéo xuống, gào khóc: “Cút! Cút đi!”
Đến trưa ngày hôm đó Tống Quan Triều mới về tới nhà, vừa vào cửa đã nhào vào lòng thê tử làm nũng, nói là mùi rượu trên thân vẫn chưa tan
hết, nên không dám về nhà, mong Nguyên Nương tha thứ.
Lòng Mạnh Nguyên Nương chỉ có bi ai cùng nhục nhã, gục mặt trong ngực Tống Quan Triều khóc lớn một hồi lâu, cuối cùng cũng chẳng nói một lời.
Hai tháng sau, Mạnh Nguyên Nương có hỉ mạch, vốn là chuyện mừng lớn, nhưng trong lòng nàng biết rõ đây là huyết mạch của ai.
Tống Quan Triều hay tin thì vui mừng khôn xiết, càng thêm yêu thương Mạnh Nguyên Nương, nhưng tình yêu này lại biến thành hình phạt không ngừng dày vò nàng.
Tinh thần của Mạnh Nguyên Nương càng ngày càng sa sút, tính tình cũng theo đó mà thay đổi thất thường, lại đúng thời điểm Hiền Vương khởi binh đoạt ngôi, tâm tư của Tống Quan Triều đều dồn vào chuyện phò trợ Hiền Vương lên ngôi, ít có thời gian bồi bạn với Mạnh Nguyên Nương.
Mạnh Nguyên Nương nhiều lần muốn bỏ đi nghiệp chủng này, ba lần bảy lượt đều thất bại. Đôi khi nàng vỗ về làn da trên bụng, thầm nghĩ, có khi đứa trẻ huyết mạch tương liên với nàng là một quái vật đến đòi mạng.
Tạ Dịch theo Hiền Vương xuất chinh, bởi vì cánh tay bị thương cần tĩnh dưỡng nên từng trở về Dương Châu một thời gian.
Hắn tới thăm Mạnh Nguyên Nương, thấy nàng sắc mặt tiều tụy, không còn nét sáng lán xinh đẹp như ngày nào, lại không ngừng hành hạ bản thân, bèn nghiến răng uy hiếp: “Trước mắt cục thế đã rõ, phụ vương đăng cơ là chuyện sớm muộn, rồi cũng sẽ tới ngày ta ngồi lên Hoàng vị. Nguyên Nương, nếu nàng dám làm hại bản thân và đứa trẻ trong bụng nàng, ta nhất định sẽ giết Tống Quan Triều!”
Mạnh Nguyên Nương nghe hắn nói vậy, khuôn mặt trắng bệch nặn ra một nụ cười: “Ta dùng nhiều cách lắm đấy, nhưng mạng đứa trẻ này quá dai dẳng. Nó là nghiệp chướng, là yêu quái! Tạ Dịch, ngươi cứ chống mắt lên chờ xem, ta sẽ sinh nó ra, nó đến đòi mạng ta, cũng có thể đến đòi mạng ngươi! Sớm muộn gì nó cũng biết thân thế của mình, biết hết những chuyện nhục nhã mà ngươi làm ra, nếu nó là nữ nhi thì cũng chịu, nhưng nếu nó là nam nhi, sát phụ đoạt ngôi cũng không phải là không thể!”
Nàng cười lớn, ánh mắt điên cuồng, lệ dài bên má.
Tạ Dịch sững người trước nụ cười vặn vẹo lại thê lương của nàng, nhiều năm sau đó, hắn nhìn thấy Tạ Tùng Tuyển sẽ nhớ tới câu nói ấy.
Nếu nó là nam nhi, sát phụ đoạt ngôi cũng không phải là không thể.