4 giờ rưỡi sáng sớm ngày hôm sau, báo thức Đinh Mục đặt reo, anh mơ mơ màng màng nằm thừ ra trên giường một lúc, khi tiếng chuông báo thức thứ hai vang lên thì phải cam chịu rời giường. Trong lúc đánh răng rửa mặt, anh vẫn có cảm giác bị người khác nhìn chòng chọc, chỉ có điều ít hơn rất nhiều so với cảm giác của buổi tối hôm qua. Không biết có phải là do đã quen rồi hay không, thế mà anh lại có thể không thấy ghê tởm như buổi tối hôm qua.
Ra khỏi phòng, anh chưa đi được mấy bước thì nhớ ra không nghe thấy động tĩnh của phòng kế bên, chẳng lẽ Trương Hải Phong chưa dậy sao? Lỡ đâu lại đến trễ, hối hận thật khó mới đến một chuyến, lại chẳng chơi được trò trống gì, quê biết bao nhiêu.
Nghĩ đoạn, anh liền đến gõ cửa phòng số 0105: “Kỹ sư Trương, chú dậy chưa?”
Không ai trả lời.
Có chuyện gì vậy? Vẫn chưa dậy à? Hay là đã đi ngang qua phòng anh luôn rồi?
“Kỹ sư Trương, dậy đi chúng ta đi leo núi.” Anh lại nâng cao giọng gọi một lần nữa.
Vẫn cứ là không ai trả lời.
Ngủ gì say như chết vậy? Sẽ không phải là đã đi ngang qua rồi không gọi anh đó chứ. Đinh Mục có chút lo lắng, anh móc di động ra gửi tin nhắn cho Trương Hải Phong, hỏi: “Kỹ sư Trương, chú có ở trong phòng không, chúng ta đi tập trung thôi.”
Tín hiệu vẫn chập chờn như cũ, xoay vòng xoay vòng cả nửa ngày cuối cùng mới gửi đi được.
Má, nếu trải qua ở đây một tháng, không, chẳng đến nửa tháng nữa, anh sẽ phát điên mất thôi.
“Dậy rồi.” Trong phòng cuối cùng cũng truyền ra tiếng của Trương Hải Phong.
Giọng nói này nghe có vẻ trầm thấp mà gai tai, như là một đứa trẻ cố hết sức bắt chước lối nói chuyện của người lớn đang dùng dụng cụ biến âm để giả vờ làm người lớn.
Kiểu so sánh rách nát gì vậy trời, Đinh Mục lắc lắc đầu, hất văng ý nghĩ không phù hợp ra khỏi đầu mình.
Anh cảm thấy đứng trước cửa phòng người ta nghe ngóng không hay ho gì cả, thế là gõ gõ cửa, gọi với vào bên trong: “Kỹ sư Trương, cháu đi tập trung trước nhé.”
“Ờ, được rồi.” Qua cả buổi Trương Hải Phong mới đáp lại.
Đinh Mục nhìn nhóm người đi trên hành lang bắt đầu ra khỏi phòng, cũng theo sau đi đến cửa nhà ăn.
Trước tiên là đi nhận cơm, người phát bữa sáng là nhân viên của khách sạn, trên đồng phục may cẩu thả có in “Khách Sạn Lớn Vạn Gia Đăng Hỏa”, cái chữ “Lớn” này làm Đinh Mục cảm thấy khách sạn này thôi đừng nói gì nữa, chỉ mỗi tâm lý này đã đủ huênh hoang rồi.
Nhân viên ấy có trang điểm, đánh phấn, khuôn mặt trắng bợt giống như ma, môi đỏ chót như ăn thịt người, tổng thể cách trang điểm chẳng có ưu điểm nào khác ngoài việc khiến khách hàng sản sinh tâm lý sợ hãi, thậm chí còn thấy cô ta hơi già, ngay cả những ưu điểm để tôn lên khí chất cơ bản nhất trong trang điểm cũng không có.
Cô ta đang cầm khay đựng bữa sáng, dựa theo danh sách gọi tên từng người một, Đinh Mục nhớ là mình ở hàng đầu, không đợi cô ta gọi liền lấy bữa sáng.
Anh cầm khay đi đến chỗ ngồi, luôn cảm thấy ánh mắt nhìn anh của người nữ ấy mới rồi rất hung ác, nhìn lần nữa lại hết sạch hung ác mất rồi, chẳng lẽ là ảo giác sao?
Đến ăn bữa sáng vẫn có ba người kia, người đàn ông vẻ ngoài ưa nhìn nọ ngồi ngay trung tâm, khiến người khác vừa nhìn là có thể thấy được anh ta.
Lúc ăn cơm được đối diện với người có vẻ ngoài ưa nhìn, tâm trạng đương nhiên vui sướng cực kỳ, cũng không biết người thế nào mới có thể xứng đôi với anh ta.
Đinh Mục ăn hai cái bánh bao, mùi vị bánh bao không tồi, chỉ là hơi bị mặn. Anh húp một chén cháo xong vẫn thấy khát, thế là lại bới nhiều thêm nửa chén. Có người thấy anh bới ít còn khuyên anh lấy thêm chút nữa đi, dù sao cũng không mất tiền, Đinh Mục ngẫm nghĩ cảm thấy gì thì gì lại chẳng ăn hết, bới nhiều cũng lãng phí, thế là không bới thêm, húp sạch nửa chén vừa đẹp không khát nữa.
Lúc anh đang húp cháo, Trương Hải Phong đi đến, sắc mặt không tốt làm sao ấy, đoán chừng chưa bao giờ dậy sớm như thế, dưới hai mắt có quầng thâm.
Đinh Mục lịch sự chào hỏi một câu, nhưng Trương Hải Phong chỉ gật đầu, không ngồi cùng anh mà là ngồi một mình trong góc.
Đinh Mục hơi xấu hổ nhưng lập tức suy nghĩ thông suốt, cũng đâu có thân thiết mấy, cần gì phải ngày nào cũng ngồi cùng nhau. Anh nghĩ đoạn, lại đột nhiên nhớ đến một vấn đề: Có nên nói với mấy người kỹ sư Trương chuyện không nên nói tên của mình cho người khác không.
Nếu như bất thình lình nói đến vấn đề này, không có căn cứ cũng không có lý lẽ gì thì cảm thấy rất khó xử.
Thôi bỏ đi, chắc không phải thứ gì đặc biệt quan trọng đâu ha? Lát nữa tìm cơ hội thích hợp rồi nói sau cũng được.
Dùng bữa xong, bọn họ tập trung trước xe rồi đi bộ lên núi. Nhan Minh Nguyệt lại bừng lên một ít nhiệt huyết, thăm dò muốn nói cùng anh đôi câu, trong lòng anh căng thẳng, nói được vài ba câu, nhưng do mồm miệng không khéo nên chỉ đành ngậm miệng lại.
Cho đến khi đến trước ngôi miếu trên núi, anh mới phát hiện ba người kia cũng theo bọn họ đi lên cùng, cao nhất chính là người đàn ông khí chất siêu mạnh mẽ nọ, trên lưng anh ta cõng theo cái hộp dài, cô gái nhỏ đen đen gầy gầy nọ còn mỉm cười với anh. Anh cảm thấy cô bé này dễ thương hơn Nhan Minh Nguyệt nhiều, ít nhất thì cô gái bé nhỏ này không phải là đối tượng xem mặt của anh, anh không cần trưng ra vẻ mặt tươi cười với người khác, cũng không cần phải nghĩ cách duy trì tình cảnh êm đềm giả dối.
Nhan Minh Nguyệt thấy anh và cô gái đó “mắt qua mày lại”, cảm thấy sức hấp dẫn của bản thân áng chừng là không có vấn đề gì, hẳn là do đàng trai không có ý nghĩ gì với cô ta, thế là chủ động hỏi anh: “Anh thích kiểu người như thế à?”
Đinh Mục lắc đầu, hiện tại anh không có dự định kết hôn, chỉ muốn đợi bản thân có thể trả xong tiền cọc của căn hộ ba phòng ngủ trong thành phố rồi nói sau. Không biết sao mà người trong công ty rảnh rỗi sinh nông nổi nhét đối tượng xem mặt cho anh, cũng đã đứt gánh hết ba người rồi.
Đây là người thứ tư, phỏng chừng cũng phải thất vọng thôi.
Nhan Minh Nguyệt bĩu môi, hiển nhiên là không tin, cô ta lại kể lể vài câu. Không muốn để bà mai trong đội ngũ cảm thấy cô ta phản ứng tiêu cực rồi phát hiện ra anh không muốn tán dóc nữa, cô ta liền bỏ đi nói chuyện với người khác. Đinh Mục mới thở phào ra một hơi.
Ngôi miếu này trông rất kỳ lạ, bé xíu xiu mà lấp đầy cảm giác quái dị, ngoài cửa không phải là Bí Hí[1], không phải Kỳ Lân[2], càng không phải Sư Tử[3], mà là hai con quỷ khòm lưng đầu vươn dài, mặt quỷ chạm khắc rất cẩu thả, đầu mọc hai sừng, nhe răng trợn mắt, hai mắt lồi to, đầu bù tóc rối, tai dài mà dựng thẳng bên sườn mặt, nhìn có hơi đáng sợ, cấu tứ[4] của nó được chạm trổ rời rạc chắp vá.
Mọi người thấy hai bức tượng quỷ này, sắc mặt đều có chút kỳ quái, thế mà lại có người giương giọng nói rằng: “Hẳn là miếu đây sẽ không thờ phụng loại quỷ này đâu nhỉ?”
Đinh Mục nhìn sang, cái người nói chuyện ấy tên là Lâm Dược, thường ngày ở công ty thích nói nhăng nói cuội gây chú ý, ngờ đâu đi ra ngoài vẫn không biết tém bớt lại.
Lâm Dược lên tiếng, thấy mọi người đều quay đầu nhìn anh ta, trong lòng hơi đắc chí, không màng hướng dẫn viên tối sầm mặt mày, lại nói: “Cái miếu nát gì đây, tôi thấy đều là tàn dư phong kiến hết, nên kiểm kê dọn dẹp từ lâu rồi mới phải.”
“Chúng ta vào trong thôi.” Hướng dẫn viên không nói gì, chỉ nhìn chòng chọc Lâm Dược.
Nhìn thấy cô ta nổi giận, Lâm Dược trợn mắt ngược lại mà đối phương vẫn cứ nhìn tiếp, đã thế còn chẳng hề chớp mắt, chỉ dùng ánh mắt vô hồn nhìn anh ta lom lom, anh ta làm kiểu gì cũng tránh không thoát đường nhìn đó, con ngươi tối đen như mực như vậy dưới hoàn cảnh kiểu này có vẻ cực kỳ khiến người ta khiếp sợ. Cuối cùng anh ta không chịu được nữa, mắng chửi: “Mẹ mày nhìn ông đây làm gì?! Có bị điên không?”
Hướng dẫn viên nghe thấy vậy, lúc này mới thu lại ánh mắt nhìn chằm chằm, bình tĩnh đẩy cửa ra. Sau khi kính cẩn cúi đầu chào bên trong sân, cô ta ngoảnh đầu lại, nói: “Các vị cúi chào Thần Hòa Trạch là được rồi, làm lễ xong có thể tự do tham quan. Mọi người chú ý, ngôi miếu này thờ phụng thần linh địa phương, tên là Thần Hòa Trạch, nhất định phải cung kính, không được phép nói lời dơ bẩn, đừng lớn tiếng ồn ào.”
Cô ta dặn đi dặn lại xong lại đi về phía chính điện, quỳ xuống bồ đoàn, kính cẩn trịnh trọng dập đầu ba cái, đứng dậy thầm niệm cái gì đó.
“Này, ở đây không có hòa thượng hả?” Lâm Dược thấy hướng dẫn viên không nhìn anh ta nữa, lại bắt đầu được đằng chân lân đằng đầu, vỗ lên những món cống phẩm trên bàn, chậc một tiếng. Trong lòng vô duyên vô cớ xộc ra một cơn phẫn nộ xúi giục anh ta nảy sinh tà hỏa ấy với một thứ nào đó. Anh ta nhìn quanh bốn phía, cuối cùng, nhìn trừng trừng bức tượng thần không phải người cũng không còn cách nào ngoài việc dán mắt vào anh ta.
“Nơi đây vốn dĩ là có, sau này…” Hướng dẫn viên còn chưa nói xong đã bị một tiếng “ôi vãi” của Lâm Dược xen ngang.
“Đây là thần gì vậy hả? Một nam một nữ? Ôi vcl, mày xem mày xem, người phụ nữ đó… bà ta không mặc quần áo phải không? Ủa, còn là ngực phẳng nữa chứ, mày nhìn bàn tay của bà ta xem, khắc giống hệt chân gà luôn.” Lâm Dược kéo người bên cạnh cho nhìn, chỉ chỉ trỏ trỏ, ác ý và bực tức bốc lên trong lồng ngực càng vượng hơn, chừng như muốn kéo căng cả người anh ta đến mức vặn vẹo. Cảm giác ban nãy bị hướng dẫn viên đè đầu cũng biến thành ngọn lửa không rõ nguồn cơn, không ngừng muốn tiêu diệt toàn bộ lý trí của anh ta. Anh ta nói rồi nói, lời lẽ càng thêm thất kính, thái độ càng thêm kích động, hệt như vị thần ấy là kẻ thù giết cha anh ta, khua chân múa tay, mặt mày dữ tợn.
Nhưng những người có mặt ở đó lại không có ai cảm thấy có điều gì bất thường.
Trong hai vị thần có một người mặc áo choàng màu trắng, mái tóc dài màu trắng, hai mắt nhắm lại, trên mặt lấp đầy nét cười từ bi, chỉ có một chiếc cánh màu trắng bên phải. Ông ấy ôm một vị thần khác cao như ông ấy, vị thần kia chỉ khoác trên vai chiếc áo choàng đen một nửa, mái tóc dài màu đen, gương mặt không cảm xúc, trên lưng chỉ có một chiếc cánh màu đen bên trái, nửa người dưới nhẵn bóng trần trụi, dường như không có giới tính.
“Bung xõa thế này cơ à, trông cũng không giống thần linh gì vĩ đại ha, hớ hớ hớ hớ, nhìn cũng đẹp lắm đó chứ, một lát tao phải mua một bức tượng mang về để cùng với bả… há há há.” Cái người mà anh ta kéo đến cũng chẳng phải thứ tốt lành gì, bình thường ở công ty hay ham chặn tiền người khác, tuy gã nói câu cuối cùng với âm lượng cực khẽ, nhưng vẫn có thể bị người đứng gần gã nghe thấy được.
Lâm Dược nghe thấy, cùng lúc phát ra tiếng cười “há há há” với gã, vừa cố ý cười cho to vừa khẩu nghiệp.
Mồm miệng hai người này chính là tục tằng bẩn thỉu, không nhìn thấy vẻ mặt càng lúc càng hoảng sợ của hướng dẫn viên.
Hướng dẫn viên quỳ trên bồ đoàn lẩm bẩm một mình: “Người trần ngu dốt, xin thần linh đừng tức giận.”
Bọn họ đều không nghe thấy, trong chính điện này đang vang lên từng đợt tiếng “răng rắc” nho nhỏ.
Chú thích:
1. Bí Hí là con thứ nhất của rồng, còn có tên gọi khác là Bá Hạ, Quy phu bát phúc, Bát phúc hay Thạch long quy. Con vật đầu rồng, mình rùa có sức mạnh và khả năng mang vác nặng, chịu được trọng lượng lớn, có thể cõng được tam sơn ngũ nhạc. Ngày nay, chúng thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ cho các bệ đá, cột đá, bia đá.
Trên đồ đồng Thương Chu nét biểu tượng của Rùa Bí Hí nằm ở những cái chân của các đồ vật. Chân đỉnh, chân vạc, chân ấm của các đồ đồng thời kỳ này đều làm to, ngắn, trông giống như chân rùa. Từ Bí Hí có thể cùng nghĩa là chống đỡ từ phía dưới. Tên gọi Bí Hí dùng để chỉ Rùa khi nó đội các vật nặng (tháp, công trình kiến trúc, bia đá…), hoặc chỉ các chân đỡ giống như chân rùa. (Theo Wikipedia) ↑
2. Kỳ lân hay còn gọi là lân, li, là một trong bốn linh vật của tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Á Đông như tại Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên… Lân đầu nửa rồng nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng, do không húc ai bao giờ nên sừng này là hiện thân của từ tâm. Phần nhiều lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò. Chúng thường được thể hiện trong tư cách đội tòa sen, làm chỗ dựa cho Văn Thù bồ tát hay các Hộ pháp, và nhiều khi ngồi trên đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà. Trong những tư cách này chúng xuất hiện cho sức mạnh của linh vật tầng trên, cho trí tuệ và như thể chúng có khả năng kiểm soát tâm hồn những người hành hương. (Theo Wikipedia) ↑
3. Sư tử đá là một mô típ phổ biến trong nghệ thuật Trung Quốc được sử dụng lần đầu tiên trong nghệ thuật vào cuối thời Xuân Thu (thế kỷ thứ năm hoặc thứ sáu trước công nguyên) và trở nên phổ biến hơn vào thời nhà Hán (206 trước Công nguyên – năm 220 sau Công nguyên). Bởi vì sư tử chưa bao giờ có nguồn gốc từ Trung Quốc, những mô tả ban đầu có phần không thực tế; Sau khi du nhập nghệ thuật Phật giáo đến Trung Quốc vào thời nhà Đường sau thế kỷ thứ sáu sau Công nguyên, sư tử thường được miêu tả không cánh với thân hình ngắn hơn, dày mình hơn và bờm xoăn. Ở Trung Quốc và Việt Nam rất thịnh hành tượng sư tử đá Trung Quốc, người Trung Quốc sử dụng con sư tử đá của họ để canh mộ trong khi rất nhiều người Việt Nam lại kính cẩn thờ chúng, đặt chúng trước cửa cơ quan, công sở, chùa chiền, nhà riêng và thậm chí trước các di tích lịch sử. (Theo Wikipedia) ↑
4. Để cho dễ hiểu thì đối với các tác phẩm nghệ thuật như tranh vẽ, tượng khắc, cấu tứ là để chỉ tinh thần và phong thái của tác phẩm. ↑