Quan Trừng

Chương 38




A Âm không nhớ rõ khi ấy còn có ai đấu giá. Giá mở màn của Hàn Thính Trúc quả thực không hề thấp nhưng cũng không cao đến bất thường, nếu thực sự là người có mắt nhìn thì có lẽ sẽ đấu giá thêm nữa. Có lẽ là do bọn họ không dám và không muốn tranh với Hàn Thính Trúc.

Bất kể là có hay không, bất kể là thêm hay không thêm thì cuối cùng Vĩnh Trừng vẫn vào tay Hàn Thính Trúc, hay nói cách khác là vào tay A Âm.

Anh làm tất cả mọi chuyện đều vì cô.

Khi ấy A Âm mang tâm trạng như thế nào, giờ nhớ lại bỗng thấy lòng đắng chát. Lúc người đấu giá tuyên bố “Bức tượng gỗ được điêu khắc thời Thiên Bảo nhà Đường thuộc về Hàn tiên sinh, cô thậm chí còn muốn sửa lại niên đại bị sai, khóe mắt bỗng thấy cay cay đồng thời có chút cảm xúc không tên dâng lên. Xung quanh là những tràng vỗ tay chúc mừng Hàn Thính Trúc có được bảo vật, đồng thời cũng như tuyên bố, hãy yên tâm, tất cả vật được đấu giá ở đây đều là đồ quý giá. Dù trời sập xuống thì cũng có Hàn Thính Trúc chống đỡ, không đổ xuống mấy người thường nhỏ bé như bọn họ được.

Hàn Thính Trúc nhìn dáng vẻ nhiệt tình của mọi người xung quanh, A Âm kéo khăn tay cài cạnh vạt áo lau khóe mắt, anh phất phất tay, ra hiệu cho người đấu giá tiếp tục chương trình, cuối cùng cảnh tượng cũng bình thường trở lại. Anh nghiêng người nắm bàn tay lạnh buốt của A Âm, dường như tiếng vỗ tay đã biến thành chùm sáng chói mắt khiến cô rơi lệ.

“Lấy được rồi sao A Âm còn sầu não?”

Cô nắm tay anh, cố nặn ra một nụ cười, “Vì sao?”

Không nói rõ ràng mà chỉ một câu vì sao duy nhất, trong lòng anh biết cũng rõ đáp án là gì.

“Vì A Âm.”

Nghe anh đè thấp giọng nói ra ba chữ, A Âm khẽ bật cười, nước mắt cũng không kìm nén được lăn dài, nhỏ xuống mu bàn tay, rồi trượt xuống lòng bàn tay giao nhau của hai người.

“Ngốc chết.”

Bức tượng này vốn do em điêu khắc, thế mà lại phải dùng nhiều tiền để mua về, ở bến Thượng Hải còn ai ngốc hơn Hàn Thính Trúc? Không chỉ bến Thượng Hải mà cả Trung Quốc cũng không ai bằng anh. A Âm nghĩ thầm.

Người thường như Hàn Thính Trúc chỉ sống lâu nhất không quá trăm năm, thế mà đã chiếm được trái tim của A Âm cô nương.

Bốn bàn tay chồng lên nhau siết thành một cụm, tay của anh ấm nóng còn tay của cô mát lạnh.

Có người nói nỗi hận triền miên như nước, không thể chia ly và từ biệt là khổ. Nhà Phật nói “phàm tất cả thứ hữu hình đều là hư ảo”, khuyên bạn không nên ôm hận quá lâu, suy nghĩ cũng nguôi ngoai theo đó. Nhưng xét kỹ ý nghĩa của cuộc đời, cũng không phải là chỉ có mỗi đường lên trời là con đường đúng đắn. Hận thì sẽ kéo dài không dứt, khó nguôi ngoai thì sẽ mãi không nguôi ngoai, đau khổ sẽ là một phần của tình yêu.

Khoảnh khắc của cuộc đời rất rõ ràng, người thật sự nắm được chỉ đếm trên đầu ngón tay, dù là thế nào thì cũng nên trân trọng.

Hai người không nói gì nữa, lặng lẽ quan sát từng món đồ được đấu giá thành công, Đường Tam cũng không hô giá nữa, dường như nhiệm vụ hôm nay đã hoàn thành. Hộp khảm xà cừ bị vừa bị lạnh nhạt, còn có chén sứ men xanh thời Ung Chính lại được mang lên, tất cả đều có người mua. Trần Vạn Lương cười không khép được miệng, đã kiếm được đầy bồn đầy bát, dư dả nộp lên trên, nhưng ông ta muốn bòn rút một phần, cũng không uổng công cả đêm nay nom nớp lo sợ.

Lúc kết thúc, thời gian đã khá muộn. Nhưng trong sảnh yến hội rộng rãi của câu lạc bộ vẫn có vô số ánh đèn lấp lánh, đêm vẫn chưa tàn. Trần Vạn Lương gọi mấy người đến chụp ảnh chung, thợ chụp ảnh được mời đến đợi đã đâu cuối cùng cũng bắt đầu làm việc. Cánh phụ nữ đứng chờ ở phía xa, nhìn cánh đàn ông đứng thành một hàng, có người trẻ tuổi như Hàn Thính Trúc, cũng có người đã lớn tuổi, râu ria trắng toát.
Loading...


Đây không phải lần đầu tiên A Âm nhìn thấy anh chụp ảnh. Cô biết, anh không thích chuyện này. Tay anh dịch ra sau lưng, sắc mặt trầm hơn ngày thường mấy phần, lại thêm ngày nào anh cũng mặc trường bào màu đen, thực sự hơi giống Quỷ sai tên Phạm Vô Cứu ở Âm Ti, mọi người hay gọi anh ta là Hắc Vô Thường. Mỗi một tấm hình treo trên tường phòng khách đều như thế này.

Hàn Thính Trúc và tiểu hòa thượng khác nhau. Tiểu hòa thượng là người có tư cách “thật” nhất, cả đời cầu một chữ “thật” quanh muôn ngàn hư ảo. Mà Hàn Thính Trúc thì cầu không được. Anh chỉ có thể bình tĩnh chấp nhận và đối mặt với những thứ thật thật ảo ảo ấy.

Đường Tam ôm Vĩnh Trừng quay lại đứng cạnh A Âm, cô thấy những người kia không còn ý định chụp ảnh nữa thì nảy ra một suy nghĩ.

Cô và Thính Trúc chưa từng chụp ảnh chung.

Một tấm cũng không có.

Ngẫm lại, những cơ hội tốt để chụp ảnh thì hai người họ đều bỏ qua. Hôm đãi tiệc thành hôn ấy, không đợi yến hội kết thúc cô đã chạy đến hành lang, Hàn Thính Trúc cũng chạy theo, đêm Thượng Nguyên thì càng không cần nhắc đến, cô “bực bội” nên một mình lên lầu quay về phòng, Hàn tiên sinh vì dỗ cô mà tổ chức buổi biễu diễn náo nhiệt tại nhà nhưng nhân vật chính lại không xem. Thời gian sớm hơn thì cũng không phải thời điểm tốt.

A Âm cười bước lên trước, cản Hàn Thính Trúc đang định đi, nói với Trần Vạn Lương: “Ông chủ Trần, bảo thợ chụp cho tôi và Thính Trúc một bức ảnh chung được chứ?”

Anh sững sờ, cảm thấy không chân thực khi nghe thấy những lời này. Trần Vạn Lương gật đầu liên tục, ông ta hận không thể ôm Hàn Thính Trúc nói lời cảm tạ, bây giờ Hàn phu nhân lại nhờ một chuyện nhỏ rất dễ làm thế này. Ông ta còn gọi Đường Tam, bảo anh ta đặt bức tượng gỗ xuống bàn, làm vật tô điểm.

Hôm nay cô mặc đồ trắng, còn anh vẫn đồ đen như cũ, một đen một trắng, giống như là đang chụp hình kết hôn.

Người khác đều biến thành vật làm nền, A Âm cười giục anh: “Cười một cái.”

Anh giương khóe miệng cứng ngắc, vẫn còn đắm chìm trong hoảng hốt. Thợ chụp hình lớn giọng đếm ngược, chui vào trong màn che, chỉ trong một cái chớp mắt đã chụp xong hình.

Sau này vẫn là Đường Tam đến tiệm chụp ảnh lấy hình. Thật ra là Hàn Thính Trúc ngày nào cũng thúc giục anh đến xem thử.

Đương nhiên chuyện này không thể nói với A Âm.

Phong thư đựng ảnh nằm trong tay anh, A Âm dựa người vào mép bàn, đường cong yểu điệu. Anh thành kính mở ra, khi ấy công nghệ vẫn chưa hiện đại, tấm hình rất mờ nhưng bóng người được khắc họa rất rõ nét. Váy trắng áo bào đen, đôi mắt sáng mỉm cười nhẹ nhàng, cô khẽ kéo tay anh, đứng cạnh một bức tượng cũ đã có tuổi, cảnh này đã được chụp lại.

Quả thật người không thể vĩnh cửu nhưng ảnh chụp có thể vĩnh cửu.

Cô ngồi trên đùi anh, rút cây bút dầu tốt nhất, lật ra mặt sau ảnh chụp, đề bên trên dòng chữ “Kỷ niệm năm Tân Tị Đông Nguyệt”, nét chữ đẹp đẽ, nó rất đẹp theo cái nhìn truyền thống của đàn ông. Viết xong, Hàn Thính Trúc cười khẽ trêu nàng, “A Âm ngốc quá, Đông Nguyệt 9 (tháng 11 âm lịch ) là âm lịch, bây giờ vẫn chưa đến. Giờ mới là tháng mười một.”

Cô vô thức hỏi, “Sao anh không nói với em mà cứ để em viết.”

Giờ không sửa được.

“Không sao, như thế này cũng tốt.”

Bởi vì anh biết, bất kể là tháng Mười một hay là Đông Nguyệt, em đều ở cạnh anh, đáng để làm kỷ niệm.

Cất ảnh vào khung ảnh lồng kính mà Đường Tam thuận tiện mua. Anh tự mình xuống lầu, bắc thang, sắp xếp lại khung hình treo khắp tường, chỉ để lại bức hình của Hàn phu nhân và Hàn tiên sinh chụp chung.

A Âm ở dưới giữ thang, ngửa đầu hỏi, “Anh chuyển nhiều thế làm gì? Bên cạnh có chỗ trống, treo ở đó là được.”

“. . .” Anh vẫn đang dịch chuyển khung hình khác, “Em tập trung giữ đi, anh treo hay là em treo?”

“Anh ít ra vẻ chuyên chế với em đi, anh xem em là thuộc hạ trong bang hội của anh à?”

“Anh nghĩ phụ nữ nào cũng thích vậy.”

“Sao anh lại có ảo tưởng kiểu đó?”

“A Âm thích kiểu đàn ông nào?”

“Anh đang bẫy em đúng không. Em đã lấy anh một năm mà anh còn hỏi em câu này này, em. . .”

Hàn Thính Trúc ném khung hình đang cố gắng điều chỉnh cho hợp mỹ quan xuống, động tác trên tay không ngừng, thuận miệng nói dông dài với cô, “Cũng không hẳn vậy, anh chỉ thuận miệng hỏi thôi.”

Bầu không khí rất ấm áp, A Âm thật sự thả lỏng. Nói là giữ thang giúp anh, nhưng kỳ thật cái thang này rất thấp, trừ phi Hàn Thính Trúc khiêu vũ ở trên, không thì không thể nào ngã dễ dàng vậy được.

“Cũng không phải như vậy.”

Không phải chỉ cần có dáng vẻ giống em là anh sẽ thích.

Nếu nhất định phải như vậy thì, “Tính tình phải trái ngược hoàng toàn với anh.”

Anh xụ mặt thoáng dừng tay, mở miệng nói với giọng lạnh căm, “Hửm, như Chi Nam chẳng hạn?”

Trời, A Âm thậm chí muốn vỗ trán, tặng cho con sói mắt trắng này một cái lườm. Chi Nam là bạn tốt đã rời khỏi Thượng Hải, ông chủ Chu, Chu Chi Nam. Nhìn rất dịu dàng nhưng thật ra là người miệng nam mô, bụng bồ dao găm. Đây không phải lần đầu tiên Hàn Thính Trúc nghĩ cô thích Chu Chi Nam, đàn ông cũng phải ghen không kém phụ nữ.

“Không phải. Em chỉ nói bừa thôi mà anh ghen dữ vậy, anh đúng là phiền.”

“Em có thấy phiền cũng vô ích, giấy đăng ký kết hôn vẫn còn đặt trong ngăn tủ được khóa lại ở trong thư phòng, em phải nhớ kỹ.”

A Âm nghĩ có lẽ bởi vì cô đã sống hơn ngàn năm nên luôn cảm thấy đàn ông dù đã 30 tuổi đầu vẫn ngây thơ như cũ. Cô cười rất tươi, đứng sau lưng vào lúc anh không nhìn thấy thì dùng ánh mắt khoét lỗ trên người anh, lời nói ra cũng giống thế: “Em không nhớ, anh nhớ phải khóa kỹ đấy, chưa biết chừng nó bị em xé lúc nào không hay.”

Cuối cùng anh cũng sắp xếp khung hình xong, cẩn thận đặt tấm hình chụp chung của hai người ở giữa rồi trèo xuống thang, kéo cô từ sau lưng đến trước ngực.

“Em dám.”

“Có chuyện gì mà em không dám làm?”

“Không có.”

“Vậy mau xin em tha thứ đi.”

“. . .” Anh ngắm nhìn bức ảnh ở chính giữa, hơi thất thần, “Xin A Âm, đừng làm bậy.”

Cô cũng thất thần, cẩn thận nhấm nuốt hai chữ làm bậy kia. Dù vẫn nhớ đến nhưng lúc này cô bình thản hơn rất nhiều.

“Ừm.”

Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt. Thượng Hải, Ôn Tố Y diễn ở rạp hát thường xuyên, vé xem hí lúc nào cũng hết sạch. Lý Tự Như hay đến nhà họ, có đôi khi ba người nhàn nhã uống trà, hoặc là anh ta sẽ bắt mạch cho Hàn Thính Trúc, cuộc sống trôi qua cũng không tệ lắm. Tin tức mang thai ở Anh truyền đến, cuộc sống của bạn cũ cũng ổn định, dù bọn họ đang ở trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, vẫn thấy cuộc đời vẫn có ánh sáng, có hi vọng.

Đó là vào ngày mùng 7 tháng 12 năm Dân quốc 30, A Âm nhớ rõ, bởi vì này này được ghi vào sử sách. Khi Hàn Thính Trúc nhận được tin hội đấu giá được tổ chức, anh đã khẳng định người Nhật Bản sẽ có hành động lớn.

Quả nhiên.

Mấy hôm trước, cô thấy radio trong nhà phủ bụi đã lâu, liền bảo Đường Tam sửa, không mà mới chạm vài cái đã sửa xong. Hàn Thính Trúc không có hứng thứ với mấy món đồ này, để mặc cô loay hoay.

Ráng chiều mờ nhạt, Hàn Thính Trúc tiếp tục lật xem vở kịch của mình, A Âm đến phòng bếp đi dạo, ăn vụng một hai viên mắt cá, còn định mang theo mùi máu tanh hôn anh. Người trước mắt cũng không phải người kia, chưa hẳn anh đã nhìn thấy máu ít hơn A Âm, mặc dù có thể thích ứng, nhưng vẫn không nhịn được nhíu mày né cô, chỉ cảm thấy chưa lúc nào muốn né tránh thân mật với A Âm như lúc này.

“A Âm hư, ít nhất em cũng nên súc miệng, miệng toàn là mùi. . .”

“Được lắm, bây giờ anh bắt đầu chê em, không cho hôn thật à? Vậy em hôn người khác cũng được, lúc nào cũng có người bằng lòng.”

“Quay lại.”

“Hàn tiên sinh có gì chỉ bảo?”

“Cho em hôn.”

. . .

“A Âm, mùi vị rất khó ngửi.”

“Ưm, đương nhiên em biết, em cố ý.”

Lò sưởi âm tường rực nóng, căn phòng rất ấm áp, dưới lớp sườn xám A Âm để chân trần đùa giỡn với Hàn Thính Trúc trên sofa. Con mèo đen nằm ngủ yên trong góc, dạo này nó quá ôn hòa, mấy ngày gần đây cũng thích ngủ hơn.

Giữa tiếng thì thầm vụn vặt của đôi nam nữ, radio truyền đến từng dòng sóng âm, tiếp theo là giọng nữ nghiêm túc vang lên: “Sau đây là một thông báo khẩn cấp: Rạng sáng hôm nay, hải quân Nhật Bản đã tập kích hạm đội hải quân Thái Bình Dương Hoa Kỳ đóng quân ở căn cứ Hawaii và Trân Châu Cảng, lục quân và hải quân Hoa Kỳ ở đảo Oahu lên máy bay chiến đấu, hạm đội hải quân Thái Bình Dương Hoa Kỳ bị tổn thất nặng nề.”

Lúc đó, cô dựa vào lòng anh, hai người nghe tiếng thì đồng loạt xoay qua nhìn chiếc radio không có sự sống kia .

Đây chính là một sự kiện lớn sau này xuất hiện trên mỗi cuốn sách giáo khoa của học sinh Trung Quốc, ngày mùng 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản đánh lén Trân Châu Cảng, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ.

Hàn Thính Trúc loáng thoáng nghe hí, có một khoảng thời gian rất dài, anh thích nhất là vở Mộng Xuân Khuê do Trình Nghiên Thu viết. Anh không hiểu thơ ca, A Âm từng nói, câu “Khả liên vô định hà biên cốt, do thị xuân khuê mộng lý nhân” (Thương thay xương trắng chất đống bên bờ Vô Định, hãy còn là người trong mộng của chốn khuê phòng) do Trần Tung Bá thời Đường sáng tác. Giữa thời đại loạn lạc này, không thể dấn thân vào cách mạng, thực sự không được xem là anh hùng.

Anh không si vọng trở thành một anh hùng, anh sợ chết.

Kiếp trước tiểu hòa thượng vì bảo vệ kinh thư mà chết, quyết không thể xảy ra lần nữa.

Đời này Hàn Thính Trúc sợ nhất là nhắm mắt vĩnh viễn, sợ không thể gặp A Âm, sợ cô sẽ cô độc một mình.

Cuộc đời của Hàn Thính Trúc đầy ắp “tham sống”.