Percy Jackson Tập 3: Lời Nguyền Của Thần Titan

Chương 16




“Chúng ta sẽ không bao giờ làm được điều đó,” Zõe nói. “Chúng ta đang đi quá chậm. Nhưng chúng ta cũng không thể bỏ mặc Ophiotaurus.”

“Mooo,” Bessie kêu. Nó bơi cạnh tôi khi chúng tôi đi bộ dọc theo bờ sông. Chúng tôi đã cách trung tâm mua sắm một khoảng xa. Chúng tôi đang nhằm hướng cầu Cổng Vàng, nhưng nó xa hơn nhiều so với những gì tôi nhận định. Mặt trời đang lặn dần xuống ở phía tây.

“Tớ không hiểu,” tôi nói. “Tại sao chúng ta phải đến đó vào lúc hoàng hôn?”

“Chị em nhà Hesperides là các nữ thần của hoàng hôn,” Zõe nói. “Chúng ta chỉ có thể vào khu vườn của họ khi ngày chuyển sang đêm.”

“Chuyện gì xảy ra nếu chúng ta bỏ lỡ nó?”

“Ngày mai là ngày Đông Chí. Nếu chúng ta bỏ lỡ hoàng hôn đêm nay, chúng ta sẽ phải đợi đến tối mai. Và khi đó, hội nghị trên đỉnh Olympus đã kết thúc rồi. Chúng ta phải giải thoát được nữ thần Artemis trong đêm nay.”

Hoặc Annabeth sẽ chết, tôi nghĩ, nhưng tôi đã không nói điều đó.

“Chúng ta cần một chiếc xe,” Thalia nói.

“Nhưng còn Bessie thì sao?” Tôi hỏi.

Grover ngừng bài hát của cậu ta. “Tớ có ý tưởng này! Ophiotaurus có thể xuất hiện trong bất cứ loại nước nào, phải không?”

“Ừ, đúng,” tôi nói. “Ý tớ là, nó đã ở Long Island Sound. Sau đó, nó xuất hiện ở đập Hoover. Và bây giờ nó ở đây.”

“Vậy thì có lẽ chúng ta có thể dỗ ngọt cho nó quay về Long Island Sound,” Grover nói. “Sau đó, bác Chiron có thể giúp chúng ta đưa nó lên đỉnh Olympus.”

“Nhưng nó đi theo tớ,” tôi nói. “Nếu tớ không có ở đó, liệu nó có biết phải đi đâu không?”

“Moo,” Bessie khổ sở nói.

“Tớ… Tớ có thể chỉ cho nó,” Grover nói. “Tớ sẽ đi với nó.”

Tôi nhìn chằm chằm cậu ấy. Grover không mặn mà gì với nước. Cậu ấy đã gần như chết đuối vào hè trước ở Biển Quái Vật, và cậu ấy không thể bơi giỏi với cái mông dê.

“Tớ là người duy nhất có thể nói chuyện với nó,” Grover nói. “Điều này có lý đấy chứ?”

Cậu ấy cúi xuống và nói gì đó vào tai của Bessie. Bessie rùng mình, sau đó tạo ra một âm thanh có vẻ mãn nguyện.

“Món quà của tự nhiên,” Grover nói. “Nó sẽ giúp cho chuyến đi Annabeth toàn. Percy, cậu cũng cầu nguyện cha cậu đi. Để ông ấy giúp chúng tớ vượt biển an toàn.”

Tôi không biết làm thế nào họ có thể bơi trở lại Long Island từ California. Hơn nữa, quái vật khổng lồ di chuyển như con người. Tôi đã thấy rất nhiều bằng chứng về điều đó.

Tôi cố gắng tập trung vào những con sóng, mùi của đại dương, âm thanh của dòng nước.

“Cha,”tôi nói. “Xin giúp chúng con. Đưa Ophiotaurus và Grover an toàn về trại. Hãy bảo vệ họ trên biển.”

“Một lời cầu nguyện như thế cần có một vật tế lễ,” Thalia nói. “Một cái gì đó lớn.”

Tôi nghĩ giây lát. Sau đó, tôi cởi áo ra.

“Percy,” Grover nói. “Cậu chắc chứ? Da con sư tử đó… nó thực sự hữu ích. Hercules đã từng dùng nó đấy!”

Ngay sau khi cậu ta nói vậy, tôi nhận ra điều gì đó.

Tôi liếc nhìn Zõe lúc này đang nhìn tôi chăm chú. Tôi nhận ra tôi đã biết người anh hùng của Zõe là ai- người đã phá hủy cuộc sống của cô, khiến cô bị đuổi ra khỏi nhà, và thậm chí không bao giờ đề cập đến chuyện cô đã giúp anh như thế nào. Hercules, một anh hùng mà tôi ngưỡng mộ cả đời.

“Nếu tớ sống sót,” tôi nói, “thì không phải bởi vì tớ có một chiếc áo choàng da sư tử. Tớ không phải là Hercules.”

Tôi ném chiếc áo xuống vịnh. Nó biến lại thành bộ da sư tử vàng, tỏa sáng lấp lánh. Sau đó, nó bắt đầu chìm dưới những con sóng, và dường như tan vào ánh nắng đang chiếu lấp lánh trên mặt nước.

Gió biển thổi nhè nhẹ.

Grover hít thật sâu. “Ồ, không có nhiều thời gian để mất nữa rồi.”

Cậu ấy nhảy xuống nước và ngay lập tức chìm xuống. Bessie lướt đến bên cạnh cậu ấy để Grover có thể túm lấy cổ mình.

“Hãy cẩn thận nhé,” tôi nói với họ.

“Chúng tớ sẽ cẩn thận mà,” Grover nói. “Được rồi, ừm… Bessie? Chúng ta sẽ đi đến Long Island. Chúng ta sẽ đi về phía đông. Qua lối này.”

“Moooo?” Bessie kêu.

“Ừ,” Grover trả lời. “Long Island. Đó là hòn đảo này. Và… nó dài. Ồ, chúng ta bắt đầu nào!”

“Mooo!”

Bessie lao về phía trước. Nó bắt đầu lặn xuống và Grover kêu lên, “Tao không thể thở dưới nước! Tao chưa nói điều này hả…Ực… ực!”

Họ đã đi, và tôi hy vọng sự bảo hộ của cha tôi sẽ được kèm theo việc Grover có thể thở dưới nước nữa.

“Thế là xong một việc,” Zõe nói. “Nhưng làm thế nào chúng ta có thể tới được khu vườn của các chị em tôi đây?”

“Thalia đã đúng,” tôi nói. “Chúng ta cần một chiếc xe hơi. Nhưng chẳng có ai ở quanh đây để giúp chúng ta cả. Trừ khi chúng ta, ờ, mượn một chiếc.”

Tôi không thích lựa chọn đó. Ý tôi là, chắc chắn đây là một chuyện sống còn, nhưng đó vẫn là ăn cắp, và nó chắc chắn khiến chúng tôi bị chú ý.

“Chờ đã,” Thalia nói. Và cô ấy bắt đầu lục ba lô. “Có người ở San Franciso có thể giúp chúng ta. Tớ có địa chỉ rồi, vứt đâu đó thôi.”

”Ai cơ?” Tôi hỏi.

Thalia lấy ra một mảnh giấy vở nhàu nát và đưa nó lên. “Giáo sư Chase. Cha của Annabeth.”

Sau khi nghe Annabeth phàn nàn về cha mình trong hai năm, tôi đã nghĩ là ông ta sẽ có sừng quỷ và răng nanh. Tôi không hy vọng ông ta sẽ mang mũ và kính phi công kiểu cũ. Ông ta trông rất kì quái với đôi mắt như đang lồi ra phía sau cặp mắt kính. Điều đó đã buộc chúng tôi bước lùi lại khi ông ấy xuất hiện ở mái hiên phía trước nhà.

“Xin chào,” ông ta nói với giọng thân thiện. “Các cậu đến giao máy bay cho ta à?”

Thalia, Zõe và tôi nhìn nhau cảnh giác.

“À, không, thưa ông,” tôi nói.

“Chết tiệt,” ông nói. “Ta cần thêm ba chiếc Sopwith Camela[18] nữa.”

“Phải rồi,” tôi nói, dù chẳng biết ông ta đang nói tới cái gì. “Chúng cháu là bạn của Annabeth.”

“Annabeth?” Ông ta thượt người ra như vừa bị cú điện giật. “Con bé ổn cả phải không? Có chuyện gì xảy ra à?”

Không ai trong chúng tôi trả lời, nhưng khuôn mặt của chúng tôi có lẽ đã cho ông biết có điều gì đó rất không ổn. Ông bỏ mũ và kính ra. Ông có mái tóc màu cát giống như Annabeth và đôi mắt màu nâu đậm. Tôi đoán là người đàn ông đã lớn tuổi mà nói thì ông ấy rất đẹp trai. Nhưng hình như ông ấy không cạo râu vài ngày rồi, và áo sơ mi thì lệch cúc, do đó một bên cổ áo có nút cao hơn bên kia.

“Các cháu vào nhà đi,” ông nói.

Trông nơi này không giống như một ngôi nhà mới. Có những chú rô bốt Lego trên cầu thang và hai con mèo ngủ trên ghế sofa trong phòng khách. Bàn cà phê được xếp đầy các cuốn tạp chí và áo khoác mùa đông của trẻ em thì bày la liệt trên sàn. Toàn bộ ngôi nhà có mùi như bánh quy ngọt nướng sô cô là. Tiếng nhạc jazz từ nhà bếp vọng lại. Ngôi nhà có vẻ hơi lộn xộn một chút, nhưng đây là ngôi nhà hạnh phúc – nơi người ta có thể sống cả đời.

“Bố ơi!” một cậu bé thét lên. “Nó đang tháo robot của con!”

“Bobby,” tiến sĩ Chase gọi lơ đãng, “không tháo robot của anh nữa.”

“Con là Bobby,” cậu bé phản đối. “Nó là Matthew!”

“Matthew,” tiến sĩ Chase gọi lại, “không tháo robot của anh nữa!”

“Vâng, thưa bố!”

Tiến sĩ Chase quay sang chúng tôi. “Giờ hãy lên cầu thang tới phòng làm việc của ta. Lối này.”

“Anh yêu,” Một người phụ nữ cất tiếng gọi. Mẹ kế của Annabeth xuất hiện trong phòng khách, tay đang lau trên một chiếc khăn ăn. Bà là một phụ nữ châu Á đẹp với mái tóc đỏ nổi bật được búi gọn lại.

“Khách của chúng ta là ai vậy anh?” bà hỏi.

“Ồ,” tiến sĩ Chase nói. “Đây là…”

Ông nhìn chằm chằm vào chúng tôi thất thần.

“Frederick,” bà ấy khiển trách. “Anh quên hỏi tên bọn trẻ à?”

Chúng tôi hơi không thoải mái khi giới thiệu bản thân mình, nhưng bà Chase có vẻ rất tốt bụng. Bà ấy hỏi chúng tôi liệu đã đói bụng chưa. Chúng tôi thừa nhận là đang rất đói, và bà ấy sẽ mang tới cho chúng tôi một số bánh ngọt, sandwich va nước ngọt.

“Em yêu,” tiến sĩ Chase nói. “Họ đến đây vì Annabeth.”

Tôi ngỡ rằng bà Chase sẽ gào lên như mất trí lúc đề cập đến con gái chồng, nhưng bà ấy chỉ mỉm cười và nhìn có vẻ lo lắng. “Được thôi. Cứ đi đến phòng làm việc đi rồi ta sẽ mang cho các cháu một chút đồ ăn.” Bà mỉm cười với tôi. “Rất vui khi gặp cháu, Percy. Ta đã nghe kể rất nhiều về cháu.

***

Lên tầng trên, chúng tôi bước vào phòng làm việc của tiến sĩ Chase, “Whoa!”, tôi không thể không thốt lên.

Căn phòng phủ kín sách, nhưng những gì thực sự gây chú ý với tôi lại là các đồ chơi chiến tranh. Có một chiếc bàn lớn với xe tăng và binh lính chiến đấu thu nhỏ dọc theo một con sông và những thứ tương tự thế. Những chiếc máy bay hai tầng cổ được treo trên dây từ trần nhà, nghiêng góc điên loạn như thể chúng đang ở giữa một cuộc không chiến vậy.

Tiến sĩ Chase mỉm cười. “Vâng. Đây là trận Ypres lần thứ ba. Ta đang viết một bài, như các cháu thấy đấy, về việc sử dụng để Sopwith Camels bắn phá biên giới kẻ thù. Ta tin chúng đóng vai trò quan trọng hơn nhiều so với những gì người ta ca ngợi cho nó.

Ông giật một chiếc máy bay hai tầng ra khỏi dây treo và giả bộ cho nó bay trên chiến trường, và miệng tạo tiếng động cơ máy bay khi ông đánh bại vài tên lính Đức.

“Ồ, phải rồi,” tôi nói. Tôi biết cha của Annabeth là một giáo sư lịch sử quân đội. Nhưng cô ấy không bao giờ đề cập đến việc ông chơi với đồ chơi.

Zõe tiến đến gần hơn và nghiên cứu chiến trường. “Biên giới quân Đức thụt hẳn ở phía bên kia bờ sông.”

Tiến sĩ Chase nhìn cô chằm chằm. “Làm thế nào cháu biết điều đó?”

“Tôi đã từng ở đó,” cô ấy nói một cách thật hiển nhiên. Nữ thần Artemis muốn chỉ cho chúng ta chiến tranh kinh khủng như thế nào – cái cách mà những người trần mắt thịt tàn sát lẫn nhau. Một điều vô cùng ngu ngốc. Chiến tranh là lãng phí.”

Tiến sĩ Chase há hốc miệng sốc. “Cháu…”

“Cô ấy là một Thợ Săn, thưa bác” Thalia nói. “Nhưng đó không phải lí do tại sao chúng cháu ở đây. Chúng cháu cần…”

“Cháu đã thấy Sopwith Camels?” Tiến sĩ Chase hỏi. “Có bao nhiêu chiếc ở đó? Chúng bay theo một đội hình như thế nào?”

“Tiến sĩ Chase,” Thalia chen ngang lần nữa.

“Annabeth đang gặp nguy hiểm.”

Điều đó khiến ông chú ý. Ông đặt chiếc máy bay xuống.

“Tất nhiên,” ông ta nói. “Kể cho ta tất cả xem nào.”

Không dễ dàng để kể lại, nhưng chúng tôi đã cố gắng. Trong khi đó ánh sáng buổi chiều đang mờ dần bên ngoài. Chúng tôi đang dần hết thời gian.

Khi chúng tôi nói với ông, tất cả những gì chúng tôi biết, tiến sĩ Chase ngồi ụp xuống chiếc ghế tựa bằng da. Ông nắm tay lại. “Annabeth kiên cường tội nghiệp của ta. Chúng ta phải nhanh lên thôi.”

“Thưa ông, chúng ta cần có phương tiện để đến Núi Tamalpals,” Zõe nói. “Và chúng tôi cần nó ngay bây giờ.”

“Ta sẽ chở các cháu đi. Hừm, sẽ nhanh hơn nếu bay bằng chiếc Camel của ta, nhưng chỉ có hai chỗ ngồi thôi.”

“Whoa, bác có một chiếc máy bay hai tầng thật à?” Tôi hỏi.

“Ở khu vực Crissy Field,” tiến sĩ Chase tự hào. “Đó là lí do ta phải chuyển đến đây. Nhà tài trợ của ta là một nhà sưu tập tư nhân với một số di vật giá trị nhất thế giới về Thế Chiến Thứ Nhất. Ông ta cho phép ta khôi phục lại chiếc Sopwith Camel…”

“Thưa bác,” Thalia nói. “Chỉ cần một chiếc ô tô là tuyệt lắm rồi ạ. Và sẽ tốt hơn nếu chúng cháu đi mà không có bác. Nó quá nguy hiểm.”

Tiến sĩ Chase cau mày khó chịu. “Chờ một chút đã, cô gái trẻ. Annabeth là con gái của ta. Nguy hiểm hay không, ta- ta không thể chỉ…”

“Đồ ăn tới đây,” bà Chase đem đồ ăn lên. Bà đẩy cửa với một khay đầy sanwith và PB & K, Coca cola và bánh ngọt vừa mới ra lò, những hạt sô cô la vẫn còn ướt. Thalia và tôi ăn một vài chiếc bánh ngọt trong khi Zõe nói, “Tôi có thể lái xe, thưa ông. Tôi không quá trẻ như ông tưởng đâu. Tôi hứa sẽ không phá hoại chiếc xe của ông.”

Bà Chase nhíu mày. “Chuyện gì thế này?”

“Annabeth đang gặp nguy hiểm,” tiến sĩ Chase nói. “Trên núi Tamalpais. Anh sẽ lái xe chở chúng, nhưng… dường như không có chỗ cho người thường ở đây.”

Có vẻ như rất khó khăn cho ông ấy để thốt ra những từ cuối.

Tôi chờ bà Chase nói không. Ý tôi là, cha mẹ nào cho phép ba đứa trẻ dưới độ tuổi thanh thiếu niên mượn xe của họ? Nhưng tôi phải kinh ngạc khi bà Chase gật đầu. “Thế họ nên đi nhanh thôi.”

“Đúng thế,” tiến sĩ Chase nhảy lên và bắt đầu vỗ vào túi. “Chìa khỏa của tôi…”

Vợ ông thở dài. “Frederick, thật thà mà nói. Anh sẽ mất bình tĩnh nếu anh không đội chiếc mũ phi công. Chìa khóa được treo trên móc ở cửa trước.”

“Đúng rồi,” tiến sĩ Chase nói.

Zõe cầm lấy một cái sandwith. “Cám ơn cả hai người. Chúng tôi nên đi. Ngay bây giờ.”

Chúng tôi lật đật chạy ra cửa và chạy xuống cầu thang. Ông bà Chase ỏ ngay sau chúng tôi.

“Percy,” bà Chase gọi khi tôi đang chuẩn bị rời đi. “Hãy nói với Annabeth… Nói với nó rằng nó vẫn có một ngôi nhà ở đây, được không? Hãy nhắc nó về điều đó nhé.”

Tôi nhìn lại lần cuối căn phòng khách lộn xộn, hai người em cùng cha khác mẹ của Annabeth đánh đổ Legos và tranh cãi nhau, mùi bánh ngọt tràn ngập trong không khí. Không phải một chỗ tệ, tôi nghĩ.

“Cháu sẽ nói với cô ấy,” tôi hứa.

Chúng tôi chạy ra chiếc VW vàng mui trần đang đậu trên lối lái xe vào nhà. Mặt trời đang lặn dần. Tôi tính toán chúng tôi có khoảng chừng một giờ để cứu Annabeth.

“Thứ này không thể đi nhanh hơn được à?” Thalia hỏi.

Zõe quay sang Thalia liếc xéo. “Tôi không thể kiểm soát được giao thông.”

“Hai người nó giống hệt mẹ tớ ấy,” tôi nói.

“Im miệng!” Họ đồng thanh nạt tôi.

Zõe lượn lách qua các phương tiện giao thông trên cầu Cổng Vàng. Mặt trời như một vệt đỏ trên đường chân trời khi chúng tôi cuối cùng cũng vào tới hạt Marin và thoát khỏi xa lộ.

Những con đường hẹp kinh khủng, quanh co qua các khu rừng và lên bên đồi và xung quanh các cạnh của khe núi dốc. Zõe vẫn không đi chậm chút nào.

“Sao mọi thứ đều có mùi như như mùi viên thuốc ho vậy?” Tôi hỏi.

“Cây bạch đàn,” Zõe chỉ những cây lớn xung quanh chúng tôi.

“Những thứ mà gấu Koala ăn?”

“Và cả những con quái vật,” cô nói. “Chúng thích nhai lá. Đặc biệt là những con rồng.”

“Rồng nhai lá bạch đàn á?”

“Tin tôi đi,” Zõe nói. “Nếu cậu có hơi thở của rồng, cậu cũng sẽ nhai bạch dàn quá đi ấy chứ.”

Tôi không hỏi cô ấy nữa, nhưng tôi cố giữ cho đôi mắt mình mở to và nhìn kĩ hơn khi chúng tôi lái xe, Núi Tamalpais từ từ hiện ra phía trước chúng tôi. Tôi đoán, xét về những ngọn núi, nó là một ngọn núi nhỏ. Nhưng nó trông thật sự to lớn khi chúng tôi lái xe về phía đó.

“Vậy ra đó là Núi của Sự Trừng phạt à?” Tôi hỏi.

“Đúng thế,” Zõe nói chắc nịch.

“Sao họ gọi nó như thế vậy?”

Cô ấy im lặng một dặm trước khi trả lời. “Sau cuộc chiến giữa các thần khổng lồ Titan và các vị thần, có rất nhiều các thần khổng lồ Titan đã bị trừng phạt và bị bỏ tù. Kronos đã bị cắt thành nhiều mảnh và bị ném vảo Tartarus. Cánh tay phải của Kronos, Tướng quân của các đội quân của ông ta, bị bỏ tù ở đó, ở bên kia khu vườn của Hesperides.”

“Tướng quân,” tôi thốt lên. Mây như xoáy xung quanh đỉnh núi, giống như một ngọn núi đang kéo chúng vào, và xoay tròn chúng. “Điều gì đang diễn ra ở trên đó? Một cơn bão à?”

Zõe không trả lời. Tôi có cảm giác cô ấy biết chính xác những đám mây đó có nghĩa là gì, và cô ấy không thích nó.”

“Chúng ta phải tập trung,” Thalia nói. “Sương mù ở đây giày đặc quá.”

“Kiểu ma thuật hay tự nhiên?” Tôi hỏi.

“Cả hai.”

Những đám mây xám thậm chí còn cuộn xoáy dày hơn ngay trên núi, và chúng tôi vẫn tiếp tục lái xe thẳng về hướng đó. Hiện tại chúng tôi đã ra khỏi rừng, đi vào những không gian rộng của các vách đá, cỏ, đá và sương mù.

Tôi nhìn xuống đại dương khi chúng tôi đi qua một đoạn đường cong tuyệt đẹp. Và tôi đã thấy cái gì đó khiến tôi phải nhảy ra khỏi chỗ ngồi của mình.

“Nhìn kìa!” Nhưng chúng tôi đi qua khúc cua và đại dương biến mất đằng sau những ngọn đồi.

“Cái gì thế?” Thalia hỏi.

“Một con tàu lớn màu trắng,” tôi nói. “Thả neo gần bãi biển. Nó trông giống như một con tàu du lịch.”

Cô ấy mở to mắt. “Tàu của Luke phải không?”

Tôi muốn nói rằng tôi không chắc. Nó có thể là một trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng tôi biết hơn thế. Chiếc tàu công chúa Andromeda, con tàu ma quỷ của Luke, đã cập cảng ở bãi biển đó. Đó là lý do tại sao anh ta muốn đưa con tàu đi về phía kênh đào Panama. Đó là cách duy nhất để đi thuyền từ Bờ Đông đến California.

“Vậy chúng ta sắp có đồng minh rồi.” Zõe nói dứt khoát. “Đội quân của Kronos.”

Tôi định trả lời thì đột nhiên dựng tóc gáy. Thalia hét lên. “Dừng xe. NGAY BY GIỜ!”

Zõe chắc đã cảm nhận được điều gì đó không ổn, bởi vì có phanh gấp mà không hề hỏi thêm. Chiếc VW vàng quay tròn hai lần trước khi dừng lại ở rìa của vách đá.

“Ra ngoài mau!” Thalia mở cửa và đẩy mạnh tôi ra ngoài. Chúng tôi cả hai cuộn tròn lăn trên vỉa hè. Chỉ vài giây tiếp theo: BÙMMMM!

Một tia chớp lóe lên và chiếc Volkswagen của Tiến sĩ Chase nổ tung như một quả lựu đạn màu vàng hoàng yến. Có lẽ tôi đã bị giết bởi mảnh đạn nếu không có tấm khiên của Thalia xuất hiện phía trước người tôi. Tôi nghe như âm thanh của mưa kim loại. Và khi tôi mở mắt, chúng tôi đã bị bao vây bởi các mảnh vụn của xe. Một phần chắn bùn của chiếc VW đã tự đâm xuống mặt đường. Capô bốc khói đang xoay tít theo vòng tròn. Các mảnh kim loại vàng rải rác khắp mặt đường.

Tôi nuốt mùi khói dầu khỏi miệng. “Cảm ơn.”

“Một người sẽ chết dưới tay cha mẹ của chính mình,” Thalia thì thầm. “Nguyền rủa ông ta. Ông ta sẽ tiêu diệt ai? Tôi ư?”

Phải mất một giây, tôi mới có thể nhận ra cô ấy đang nói về cha mình. “Ôi, này, đó không thể nào tia chớp của thần Zeus. Không đời nào.”

“Vậy thì là của ai?” Thalia hỏi.

“Tớ không biết. Zõe đã nói tên của Kronos. Có lẽ hắn ta…”

Thalia lắc đầu, vẻ mặt đầy giận dữ và choáng váng. “Không, không thể thế được.”

“Chờ chút,” tôi nói. “Zõe đâu rồi? Zõe!”

Cả hai chúng tôi cùng đứng dậy và chạy quanh chiếc VW đã nổ tung. Không có gì bên trong. Cũng không có gì ở phía cuối con đường. Tôi nhìn xuống vách đá. Không có dấu hiệu của cô ấy.

“Zõe,” tôi hét lên.

Sau đó cô ấy đứng ngay bên cạnh tôi, kéo cánh tay của tôi. “Yên nào, đồ ngốc! Cậu muốn đánh thức Ladon đấy à?”

“Ý cậu là chúng ta đang ở đấy rồi à?”

“Rất gần,” cô ấy nói. “Theo tôi.”

Từng mảng sương mù trôi dạt trên đường. Zõe bước vào một trong số chúng. Và khi sương mù trôi qua, cô ấy đã không còn ở đó nữa. Thalia và tôi nhìn nhau.

“Chú ý vào Zõe ấy,” Thalia khuyên. “Chúng ta đang theo cô ấy. Đi thẳng vào đám sương mù và phải ghi nhớ điều đó.”

“Chờ đã, Thalia. Về những gì đã xảy ra ở bến tàu lúc trước… Tớ muốn nói đến gã Manticore và sự tế lễ…”

“Tớ không muốn nói về chuyện đó.”

“Cậu đã không thực sự… cậu biết đấy?”

Cô ấy ngập ngừng. “Tớ chỉ bị sốc. Vậy thôi.”

“Thần Zeus không giáng tia sét xuống xe hơi của chúng ta. Đó là Kronos. Hắn đang cố gắng để thao túng cậu, làm cho cậu giận cha mình.”

Cô ấy hít thật sâu. “Percy, tớ biết cậu đang cố gắng để khiến tớ cảm thấy ổn hơn. Cảm ơn cậu về điều đó. Nhưng thôi nào. Chúng ta cần phải đi tiếp”.

Cô ấy bước vào trong sương mù – vào Màn Sương mù – và tôi theo sau.

Khi lớp sương mù bắt đầu mờ dần, tôi vẫn còn ở một bên sườn núi nhưng con đường chỉ toàn là đất. Cỏ mọc rậm rạp hơn. Hoàng hôn tạo ra một vết cắt đỏ tươi ngang qua biển. Giờ đây, đỉnh núi dường như đã trở nên gần hơn, cuốn xoáy theo những đám mây bão và sức mạnh bất lương. Chỉ có một lối mòn duy nhất dẫn lên đỉnh núi ở ngay phía trước chúng tôi. Và nó băng qua một bãi cỏ xanh tốt đầy những bóng râm và các loài hoa – một khu vườn chạng vạng, giống hệt những gì mà tôi thấy trong giấc mơ.

Nếu không có con rồng khổng lồ thì khu vườn sẽ trở thành nơi đẹp nhất mà tôi từng thấy. Bãi cỏ tỏa sáng lung linh dưới ánh sáng đang chuyển sang đêm và những bông hoa rực rỡ đầy sắc màu, chúng hầu như chỉ tỏa sáng trong bóng tối. Những hòn đá bằng cẩm thạch đen sáng bóng trải dọc bên cạnh của cây táo cao khoảng năm tầng nhà, tất cả những cành cây đều sáng lấp lánh với những quả táo vàng – ý tôi không phải muốn nói đến những quả táo có màu vàng được bán trong cửa hàng tạp phẩm. Tôi muốn nói đến những quả táo bằng vàng thực sự. Tôi không thể diễn tả nổi tại sao chúng lại hấp dẫn đến như vậy. Nhưng ngay sau khi tôi ngửi mùi thơm của chúng, tôi biết rằng chỉ cần ăn một miếng táo thôi thì miếng táo đó sẽ trở thành thứ tuyệt vời nhất mà tôi từng được thưởng thức.

“Những quả táo mang đến sự bất tử,” Thalia nói. “Quà cưới của thần Zeus dành cho nữ thần Hera.”

Tôi muốn bước thẳng lên và hái một quả nếu như không có con rồng đang cuộn tròn quanh thân cây.

Bây giờ, tôi cũng không biết bạn nghĩ đến điều gì khi tôi nói đến con rồng. Cho dù nó có là gì đi chăng nữa, nó cũng không thể hiện hết được nỗi sợ hãi. Nó mang thân hình của một con rắn và to như một tên lửa khổng lồ với những chiếc vẩy lấp lánh ánh đồng. Tôi không thể đếm nổi nó có bao nhiêu cái đầu, cứ như thể hàng trăm con mãng xà chết người trong thần thoại kết hợp với nhau vậy. Nó có vẻ như đang ngủ. Những cái đầu nằm cuộn lại như một đĩa spagetti trên đồng cỏ, tất cả những con mắt đều nhắm.

Sau đó, những cái bóng ở phía trước chúng tôi bắt đầu chuyển động. Có một giọng hát hay và kì quái – giống như những giọng từ dưới đáy giếng vọng lên. Tôi với lấy cây Thủy Triều nhưng Zõe kéo tay tôi lại. Bốn dáng người mờ ảo từ từ xuất hiện – bốn người phụ nữ trông rất giống với Zõe. Tất cả họ đều mặc những chiếc áo chiton màu trắng. Làn da của họ có màu nâu nhạt. Mái tóc đen như lụa xõa xuống ngang vai. Điều này rất kỳ lạ, nhưng tôi chưa bao giờ nhận ra Zõe đẹp dường nào cho tới khi tôi trông thấy những chị em ruột của cô. Chị em nhà Hesperides. Trông họ rất giống với Zõe – rực rỡ và chắc chắn là rất nguy hiểm.

“Các chị em,” Zõe nói.

“Chúng ta không nhìn thấy bất kỳ người chị em nào cả,” một trong số những cô gái nói một cách lạnh lùng. “Chúng ta chỉ nhìn thấy hai con lai và một Thợ Săn. Tất cả bọn họ đều sẽ nhanh chóng phải chết.”

“Cô đã nhầm rồi.” Tôi tiến lại phía trước. “Sẽ không ai chết cả”.

Những cô gái quan sát tôi. Họ có những đôi mắt giống như đá núi lửa – trong vắt và đen huyền.

“Perseus Jackson,” một trong số họ nói.

“Đúng vậy,” một người khác phụ họa. “Em không biết tại sao cậu ta lại là một mối đe dọa.”

“Ai đã nói tôi là một mối đe dọa?”

Người chị đầu liếc nhanh ra phía sau về phía đỉnh núi. “Họ sợ ngươi. Họ không vui khi thấy người này vẫn chưa giết chết ngươi.”

Cô ta chỉ về phía Thalia.

“Thi thoảng điều đó cũng hấp dẫn,” Thalia thừa nhận. “Nhưng tôi không biết ơn về điều đó. Cậu ấy là bạn của tôi.”

“Chẳng có người bạn nào ở đây hết, con gái của thần Zeus ạ,” cô gái nói. “Chỉ có những kẻ thù. Hãy quay lại đi.”

“Tôi sẽ không quay lại nếu không có Annabeth,” Thalia cương quyết.

“Và cả nữ thần Artemis nữa,” Zõe thêm vào. “Em và các bạn phải đến được ngọn núi.”

“Ngươi biết rằng ông ta sẽ giết chết ngươi,” cô gái nói. “Ngươi không thể địch lại với ông ta.”

“Nữ thần Artemis phải được tự do,” Zõe khăng khăng nói. “Hãy để chúng em đi qua.”

Cô gái lắc đầu. “Ngươi không có quyền gì ở đây nữa. Chúng ta chỉ cần cất cao giọng là Ladon sẽ tỉnh dậy.”

“Nó sẽ không làm đau em đâu,” Zõe nói.

“Không ư? Thế còn những người bạn của ngươi thì sao?”

Ngay sau đó Zõe làm cái điều cuối cùng mà tôi có thể tưởng tượng. Cô ấy la to, “Ladon! Hãy tỉnh dậy!”

Con rồng cử động, sáng lấp lánh như một ngọn núi tiền xu. Chị em nhà Hesperides hét lên và chạy tán loạn. Cô gái đầu đoàn nói với Zõe “Ngươi điên rồi sao?”

“Chị chẳng hề có chút lòng dũng cảm gì cả, chị gái ạ,” Zõe nói. “Đó chính là vấn đề của chị.”

Con rồng Ladon đang quằn quại, hàng trăm cái đầu đang quất xung quanh, những cái lưỡi đu đưa và nếm không khí. Zõe bước lên phía trước, cánh tay dơ lên.

“Đừng, Zõe” Thalia ngăn lại. “Cô không còn là một Hesperid nữa. Nó sẽ giết chết cô mất.”

“Ladon được huấn luyện để bảo vệ cái cây,” Zõe nói. “Hãy đi men theo rìa của khu vườn. Trèo lên ngọn núi. Nghĩa là tôi vẫn còn là một mối đe dọa lớn hơn, nó sẽ không chú ý đến mọi người.”

“Sẽ,” tôi nói. “Ngay cả cậu cũng không chắc chắn được điều đó.”

“Đây là cách duy nhất,” cô ấy nói. “Thậm chí tất cả ba người chúng ta hợp lại cũng không thể đánh bại được nó.”

Ladon há những cái miệng ra. m thanh của hàng trăm cái đầu cùng rít lên ngay lập tức đã khiến tôi lạnh hết sống lưng, đấy là còn chưa kể đến hơi thở của nó trước đó đã làm tôi choáng váng. Mùi đó giống như axít. Nó làm bỏng rát mắt của tôi, da tôi sởn gai ốc và dựng cả tóc gáy. Tôi nhớ khi một con chuột bị chết bên trong bức tường phòng của chúng tôi ở New York vào giữa mùa hè. Cái mùi này cũng giống như vậy, chỉ có điều nó còn mạnh hơn gấp hàng trăm lần và còn trộn với mùi của cây bạch đàn nhai nhuyễn. Tôi tự hứa với bản thân mình ngay lúc đó rằng tôi sẽ không bao giờ hỏi xin y tá ở trường thêm bất kỳ viên kẹo ho nào.

Tôi muốn rút gươm ra. Nhưng ngay sau đó, tôi nhớ ra giấc mơ của mình về Zõe và Hercules, và Hercules đã thất bại như thế nào khi đâm đầu vào tấn công. Tôi quyết định phải tin theo sự phán đoán của Zõe.

Thalia đi bên trái. Tôi đi bên phải. Zõe đi bộ thẳng tới chỗ con quái vật.

“Là tao đây, chú rồng bé nhỏ” Zõe nói. “Zõe đã quay trở lại.”

Ladon dịch chuyển về phía trước, sau đó lùi lại. Vài cái miệng của nó ngậm lại. Một vài cái khác vẫn rít lên. Con rồng đang bối rối. Trong khi đó chị em nhà Hesperides chiếu lấp lánh và chuyển thành những bóng tối. Giọng của người lớn tuổi nhất thì thầm, “Đồ ngốc.”

“Tao vẫn thường cho mày ăn bằng tay,” với một chất giọng chân thật, Zõe tiếp tục nói trong khi cô ấy tiến dần đến chỗ cái cây vàng. “Ngươi vẫn còn thích thịt cừu non chứ?”

Mắt con rồng lóe sáng.

Thalia và tôi đang đi được nửa khu vườn. Xa xa phía trước, tôi có thể nhìn thấy một đường đá duy nhất dần đến đỉnh màu đen của ngọn núi. Cơn bão đang cuộn phía trên nó, xoay tròn ở trên đỉnh giống như nó là trục của toàn bộ thế giới vậy.

Chúng tôi gần như đã đi ra khỏi được bãi cỏ thì có gì đó không ổn xảy ra. Tôi nhận thấy tâm trạng của con rồng đã thay đổi. Có lẽ Zõe đến quá gần nó. Có lẽ con rồng nhận ra rằng nó đang đói. Cho dù là vì lý do nào đi chăng nữa thì nó cũng đang tấn công Zõe.

Việc luyện tập trong hai nghìn năm đã cứu sống cô ấy. Cô ấy né tránh được một bộ răng đang chém xuống và lộn nhào dưới một bộ răng khác, len lỏi qua những cái đầu của con rồng và vừa chạy về hướng của chúng tôi vừa bịt miệng để tránh hơi thở khủng khiếp của con quái vật.

Tôi rút cây Thủy Triều để giúp.

“Không!” Zõe nói hổn hển. “Hãy chạy đi!”

Zõe hét lên đầy đau đớn khi con rồng đớp vào một bên sườn cô. Thalia lấy tấm khiên Aegis ra và con rồng rít lên trong đau đớn. Trong giây phút nó còn chần chừ do dự, Zõe chạy nhanh qua chỗ chúng tôi lên ngọn núi và chúng tôi theo sau cô ấy.

Con rồng cũng không cố gắng đuổi theo. Nó kêu phì phì và dậm mạnh xuống đất, nhưng tôi đoán nó đã được đào tạo tốt để bảo vệ cái cây. Nó sẽ không bị sập bẫy cho dù nó có thể dễ dàng ăn thịt những anh hùng.

Chúng tôi chạy lên ngọn núi khi chị em nhà Herperides lại tiếp tục bài hát của họ trong bóng tối đằng sau chúng tôi. Giờ đây âm nhạc dường như không còn quá hay với chúng tôi nữa – nó giống với phần nhạc cho một đám tang hơn.

Trên đỉnh ngọn núi là một tàn tích – những tảng đá Granit và đá cẩm thạch đen lớn như những ngôi nhà. Những cây cột đổ vỡ. Những bức tượng bằng đồng trông giống như đang bị tan chảy đi mất một nửa.

“Tàn tích của núi Othrys,” Thalia thì thầm trong nỗi kính sợ.

“Đúng vậy,” Zõe nói. “Trước kia nó không như thế này. Điều này thật tệ.”

“Núi Othrys là gì?” tôi hỏi và cảm thấy mình vẫn ngốc như mọi khi.

“Ngọn núi pháo đài của các thần khổng lồ Titan,” Zõe nói. “Trong cuộc chiến đầu tiên, Đỉnh Olympus và Othrys là hai thủ phủ đối địch nhau của thế giới, Othrys là…” cô ấy nhăn mặt và giữ chặt một bên sườn.

“Cô bị thương rồi,” tôi nói. “Hãy để tôi xem nào.”

“Không! Tôi không sao cả. Tôi đang nói… trong cuộc chiến thứ nhất Othrys đã bị nổ tung thành các mảnh.”

“Nhưng … nó ở đây bằng cách nào?”

Thalia nhìn xung quanh một cách cẩn thận trong khi chúng tôi tìm đường đi thông qua đống gạch vụn, vượt qua những tảng đá cẩm thạch và cổng tò vò đổ nát. “Nó dịch chuyển giống như Đỉnh Olympus dịch chuyển. Nó luôn luôn tồn tại trên đỉnh của nền văn minh. Nhưng sự thực là nó ở đây, trên ngọn núi này, là điều không tốt.”

“Tại sao?”

“Đây là ngọn núi của Atlas,” Zõe nói. “Nơi ông ta chống…” Cô ấy ngừng lại và sau đó nói tiếp bằng giọng rời rạc, xen lẫn với nỗi tuyệt vọng. “Nơi ông ấy từng dùng tay chống bầu trời.”

Chúng tôi đã đi đến đỉnh. Một vài thước trước mặt chúng tôi, mây xám cuộn vào trong một cơn lốc xoáy khổng lồ, tạo nên một cái phễu bằng mây gần như chạm vào các đỉnh núi, nhưng thay vào đó, cả khối đen đó đang đặt trên vai của một cô gái mười – hai – tuổi với mái tóc nâu và một chiếc áo bạc đã cũ mèm rách nát – nữ thần Artemis, chân cô bị buộc vào đá bằng sợi xích đồng celestial. Đây là những gì tôi đã thấy trong giấc mơ của mình. Thứ mà nữ thần Artemis phải giữ không phải là trần của một cái hang. Nó là mái nhà của thế giới.

“Chủ nhân!” Zõe chạy lên phía trước, nhưng nữ thần Artemis nói, “Dừng lại! Đây là một cái bẫy. Mọi người đi ngay đi.”

Giọng nói cô đầy căng thẳng. Người cô ấy ướt đẫm mồ hôi. Trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy một nữ thần trong đau đớn, nhưng trọng lượng của bầu trời rõ ràng là quá nặng với nữ thần Artemis.

Zõe đang khóc. Cô chạy về phía trước bất chấp sự phản đối của nữ thần Artemis và giật mạnh sợi xích.

Sau đó một giọng nói trầm vang lên phía sau chúng tôi. “À, cảm động quá!”

Chúng tôi quay lại. Tên Tướng quân đã đứng đó trong bộ vét bằng lụa màu nâu của hắn. Bên cạnh hắn là Luke và sáu con yêu tinh rắn dracanae mang quan tài vàng của Kronos. Annabeth đứng ở bên cạnh Luke. Hai bàn tay cô bị cọng phía sau lưng, một cái giẻ bịt miệng trong mồm, và Luke giơ đầu thanh kiếm chĩa vào cổ họng cô ấy.

Tôi nhìn vào mắt cô ấy, cố gắng hỏi cô ấy hàng nghìn câu hỏi. Nhưng chỉ có một tin nhắn duy nhất là cô ấy muốn gửi cho tôi: CHẠY ĐI.

“Luke,” Thalia gầm gừ. “Thả cô ấy ra.”

Nụ cười của Luke yếu ớt và xanh xao. Hắn nhìn thậm chỉ còn tệ hơn ba ngày trước tại D.C. “Đó là quyết định của Tướng quân, Thalia. Nhưng thật tốt khi lại gặp lại em.”

Thalia nhổ nước bọt vào Luke.

Tên Tướng quân cười khúc khích. “Nhiều thứ cho bạn bè cũ quá nhỉ. Và cô, Zõe. Cũng lâu rồi đấy nhỉ. Cô thế nào rồi, kẻ phản bội bé nhỏ của ta? Ta sẽ thích thú với việc giết chết cô lắm đấy.”

“Đừng trả lời,” nữ thần Artemis rên rỉ. “Đừng thách thức ông ta.”

“Chờ một lát,” tôi nói. “Ông là Atlas?”

Tên Tướng quân liếc nhìn qua tôi. “Vậy là, ngay cả những đứa anh hùng ngốc nghếch nhất cuối cùng cũng có thể hiểu chuyện. Đúng thế, ta là Atlas. Tướng quân của các thần khổng lồ Titan và là nỗi khiếp sợ của các vị thần. Xin chúc mừng. Ta giết ngươi ngay bây giờ đây, ngay sau khi ta đối phó với cô gái đáng thương này.”

“Ông sẽ không thể tổn thương Zõe,” tôi nói. “Tôi sẽ không để ông làm thế.”

Tên Tướng quân cười nhếch mép. “Ngươi không có quyền can thiệp, anh hùng nhỏ ạ. Đây là vấn đê gia đình.”

Tôi cau mày. “Một vấn đề gia đình?”

”Đúng thế,” Zõe thất vọng đáp. “Atlas là cha tôi.”