Ngược Về Thời Lê Sơ (Nam Việt Hải Quốc)

Chương 236: Không dễ nuốt




Vì Ấn Độ là nơi giao thương giữa Á và Âu, cùng với lý do đất nước này không quá khép kín thế nên nền khoa học từ Châu Âu du nhập khá nhiều, các loại như súng hỏa mai, pháo thần công là không thiếu. Mặc dù tầm bắn ngắn đến đáng thương thế nhưng nếu số lượng tăng đến một giới hạn nào đó sẽ biến thành chất lượng.

Chỉ sau một tuần tấn công, với sự hỗ trợ của hạm đội hải quân quá mạnh mẽ thì ba cảng biển cực Nam Ấn là Tuticorin, Cochin và Calicut đã thuộc về tay của quân Nam Việt. Thế nhưng tiến quân vào lục địa sâu hơn thì khó khăn lộ ra ngay lập tức, binh lực của 2 vạn thủy quân lục chiến là không đủ với đất nước có số dân nhiều như kiến này. Thương vong bắt đầu xuất hiện tại các cuộc giao tranh trong nội thành, với số lượng quân khổng lồ Người Ấn núp trong các ngõ ngách chật hẹp tại nội thành, hay trong nhà dân rồi bất ngờ tấn công. Binh sĩ Nam Việt bị thương vong toàn vì những lý do không đâu. Tiếp đến nữa là mỗi làng mạc và thành trì đều cần để lại quân coi dữ vậy nên quân số 2 vạn trở nên rất mỏng sau khi tấn công đến Bangalore thì quân số của Nam Việt chỉ còn lại 1 vạn quân chiến đấu, số còn lại phải phân ra chiếm đóng các vị trí chiến lược, duy trì con đường lương thảo và liên tục chịu sự quấy phá của kiểu đánh tập kích nhóm nhỏ.

Thành Bangalore la thành trì lớn thứ 3 của Ấn độ trong này chứa 30 vạn quân chính quy Ấn Độ và có tới 5000 tay súng hỏa mai. Tuy rằng chỉ sau 1 ngày pháo kích thì cửa thành cùng tường thành Bangalore tanh bành không ra hình. Thế nhưng 1 vạn quân Nam Việt cũng chả dám vào thành, vào rồi 20 vạn quân ùa ra kể cả có súng máy cũng đỡ không xong nhất là những tên cung thủ nấp trên mái nhà là ác mộng của họ. Hồ Vấn bất đắc dĩ đóng quân áng ngữ ngay trước thành Bangalore và chờ mệnh lệnh mới của Nguyên Hãn. Hai bên nhìn nhau gầm gừ, Người Ấn không dám ra mà người Việt không dám vào, thương vong của Nam Việt thủy quân lục chiến tính đến thời điểm này đã là 321 người chết và 124 người bị thương phải quay về tàu cứu trị.

Tình hình của Nam Hàn và Nhật Bản cũng chả khác là bao, họ chỉ chiếm được hai cảng biển và vài thành phố nhỏ đã hết lực đi tiếp. Cả hai vi Vương tử như kiến bò chảo mỡ vội vàng viết thư về cầu tăng viện của nước nhà, thế nhưng nêu muốn quân tăng viện thì ít nhất cũng phải hai tháng nữa mới tới nơi.

Chiến trường miền Nam và miền Tây của Ấn Độ có vẻ lắng xuống thế nhưng chiến trường Miền Đông Ấn thì rực lửa, với số lượng quân đội khổng lồ là 10 vạn hỏa thương binh và 15 vạn phụ binh thì Đại Việt bẻ gãy nghiền nát hết thảy chướng ngại vật, Chỉ trong một tháng trời họ đã đánh chiếm gần như toàn bộ miền đông giàu có của Ấn Độ gồm cảng Vishakhapatnam, thành phố lớn thứ 2 Ấn độ Nagpur, thành phố Haldia và Kalkutta và vô số thị trấn nhỏ và trung. Nếu không có hiệp ước chia sẻ thuộc địa thì họ sẵn sàng thêm quân mà đánh luôn cả Ấn Độ cũng không phải không thể, nên nhơ Đế quốc Đại Việt sau 4 năm phát triển thì diện tích đã gần ngang bằng Ấn Độ lúc này. Mặc dù trong đất nước họ khá bất ổn do phong trào phản kháng của các vùng đất mới chiếm đóng, nhưng vì chính phủ lâm thời quá mạnh nên họ không hề lo lắng gì. Bất tri bất giác nhìn lại thì Đại Việt lúc là đất nước rộng thứ 2 ở Đông Á chỉ sau Đại Minh mà thôi, tổng “dân số” lên tới 70 triệu người. Về lục quân họ phải xếp hạng đầu khu vực, hải quân thì xếp thứ 2, lần này chiến tranh xâm lược mới thấy rằng Đại Việt mới thực sự là một con quái vật khổng lồ tại Đông Á này.

Nhóm quân cuối cùng cần kể đến là quân Tamol của Vishal, vì là cùng dân tộc lại quá nhiểu nhau, một bên có vũ khí tối thượng một bên chỉ có đao kiếm và cung tên thế nên kết quả là hoàng tộc của Kandy quốc và Kotte quốc muốn trốn cũng không xong, chỉ chưa đầy ba tháng đến 27 tháng 12 âm lịch thì cả Sri Lanka đều đã nằm trong sự khống chế tuyệt đối của Nam Việt, không còn phản kháng, không còn âm thanh trái chiều. Tất cả người dân Sri Lanka đều hân hoan hạnh phúc khi chiến tranh kết thúc và tất cả họ đều đã thuộc về thần quốc của Thần tử Nguyên Hãn.

Toàng dân Sri Lanka bắt đầu công cuộc cải cách, tiếng phổ thông ở đây chuyển thành tiếng Việt, quan chức muốn làm việc ở chính phủ phải đọc thông viết thạo tiếng Việt, giờ đây tiếng Việt trở thành ngôn ngữ quốc tế như tiếng Anh thời hiện đại vậy.