Trời ạ, chán kinh hồn. Ước gì mình chết quách đi cho xong.
Dòng suy nghĩ ấy giáng vào tôi trong lúc đôi chân lê bước trên đại lộ, lòng tự hỏi tại sao tôi lại đồng ý tham gia chuyến đi này. Biết như thế chắc tôi đã ở Tokyo ngay từ đầu rồi. Tại mảnh đất Hakodate, bầu không khí ngày thu lạnh buốt như đang cấu vào da thịt, làm sức chịu đựng của tôi muốn rụng rời. Dù mặt trời đã lên cao, nhưng bất cứ khi nào chúng tôi rẽ qua một góc phố và đi vào bóng râm tạo nên từ những tòa nhà cao chọc trời đặc trưng nơi phố thị, cái cảm giác lạnh buốt ấy lại ập đến khiến tôi cứ ngỡ bản thân vừa bước chân vào một cái kho cấp đông. Trời lạnh đến khó tin dù bây giờ mới chỉ cuối tháng Mười, song tôi cũng cảm nhận được mồ hôi ướt đẫm, túa ra không ngừng trên hai bên hông và lòng bàn tay. Đây không phải minh chứng cho thấy chiếc áo khoác len dày của tôi giữ nhiệt tốt mà là báo động về nỗi sợ giao tiếp xã hội đang bộc phát trong tôi.
Đằng trước tôi là một nhóm bốn cậu bạn đang khoác vai nhau, chiếm gần hết vỉa hè mà đi, vừa xô đẩy vừa cười đùa rôm rả. Bên dưới lớp áo lông cùng áo phao dày cộp, họ mặc chung một bộ đồng phục cấp ba. Họ là những học sinh chung nhóm tôi trong chuyến tham quan của lớp lần này, nhưng suốt nửa tiếng qua tôi chẳng nói với họ một lời nào.
Lúc đầu tôi đã cố hết sức để theo sau bọn họ và tham gia vào cuộc chuyện trò, chỉ đợi họ hỏi rồi ậm ừ đáp lại hay gật đầu đồng tình. Tôi biết bản thân vốn không nằm trong nhóm và đang phải vờ làm một thành viên của hội. Nhưng sau một lúc, tôi nhận thấy mọi nỗ lực từ nãy đến giờ thật vô ích làm sao, thành thử tôi dần bước chậm lại, kéo dài khoảng cách từ một bước chân thành hai mét. Đáng lý tôi nên biết thân biết phận hơn, giao tiếp đã không rành mà làm thính giả cũng chẳng xong.
Bốn người họ từ lâu đã là một nhóm bạn khăng khít, tôi thường xuyên thấy bọn họ tụ tập lại trong giờ giải lao giữa tiết và ăn trưa cùng nhau. Không có chỗ cho một kẻ như tôi có thể chen chân vào. Tôi thậm chí còn chưa từng nói chuyện một lần nào với bất kỳ ai trong số họ, chứ đừng nói đến việc đi chơi hay thực sự chung tay làm gì đó. Người thường cũng đủ thấy rằng tôi là một kẻ lạc quẻ không thuộc về nơi đây.
Tôi thừa biết mình vốn không nên tham gia vào chuyến đi này.
“Cậu không nghĩ thế sao, Mugino-kun?”
“Hở?!”
Tôi rời mắt khỏi vỉa hè để nhìn một thành viên trong nhóm bạn đó, cậu ấy tên Nagai. Bối rối vì đột ngột bị gọi tên, tôi nhanh chân thu hẹp khoảng cách với nhóm họ.
“Ơ… x-xin lỗi. Các cậu đang về gì vậy?”
“Ha ha. ‘Xin lỗi’ cơ. Bình tĩnh nào. Tụi mình không ăn thịt cậu đâu mà sợ,” Nagai cười, và ba người còn lại trong nhóm cũng cười theo. Từ giọng điệu cậu ấy, tôi biết Nagai không có ác ý, song hai má tôi vẫn đỏ bừng. “Tụi tớ đang nói rằng tham quan Hokkaido vào mùa thu thật là lãng phí vì không ngắm tuyết được. Nên tới vào mùa đông thì hay hơn, cậu thấy thế nào?”
“À ừm, tớ không biết… Chắc vậy.”
“Hửm, cậu không thích cái lạnh sao?”
“K-không hẳn… Chỉ là tớ không quan tâm tới vụ đó cho lắm.”
“Ra vậy… Cũng phải nhỉ?”
Nagai đáp lại tôi bằng một nụ cười gượng gạo, coi bộ cậu ấy nhận ra rằng cố gắng kéo tôi vào cuộc trò chuyện rõ tốn công vô ích. Tôi cảm thấy thật tệ vì đã vô tình gạt bỏ sự quan tâm của Nagai. Xét về mọi mặt, cậu ấy là một người rất tốt tính.
Nagai chính là người đã chào đón tôi vào nhóm khi tôi là người duy nhất bị ra rìa trong lớp và giáo viên đã hỏi có nhóm nào chấp nhận cho tôi tham gia không. Cậu ấy cũng như ba người còn lại đều không phản đối. Tôi thực sự may mắn khi có các người bạn cùng lớp tốt bụng đến vậy; khác xa với những gì tôi đã phải chịu đựng hồi học cấp hai. Tuy nhiên, thật lòng mà nói, được đối xử tử tế và nồng nhiệt quá mức lại khiến khoảng cách tôi tự áp đặt lên bản thân thêm nặng nề.
Ngay phía trước, một người đàn ông vận bộ đồ công sở đang đi ngược lại với chúng tôi, nhóm Nagai thấy vậy liền nếp sang một bên. Càng đến gần ga Hakodate, chúng tôi thấy càng nhiều người hối hả đi lại trong những chiếc áo khoác dày, khăn quàng cổ lẫn áo len. Tôi cứ ngỡ rằng người Hokkaido vốn đã quen với cái lạnh, song nhìn dòng người lướt qua, họ đều ăn mặc không khác chúng tôi là bao.
“Ê, Nagai,” một cậu bạn trong nhóm lên tiếng. “Ăn trưa xong tụi mình ghé Animate đi nhể?”
Nagai đáp “Ôi thôi nào, thanh niên. Đã lặn lội tới tận Hokkaido mà ông chỉ muốn đi xem hàng lưu niệm hoạt hình thôi à?”
“Coi thử ở đây có khác gì không thôi, lỡ lại tìm được món nào hay ho thì sao?”
“Vậy à? Chịu đấy… Cơ mà ở Hakodate có Animate không nhỉ?”
“Đối diện công viên Goryokaku ấy.”
“Ừ, tí nữa tham quan chỗ đó xong tạt qua xem sao. Mugino-kun, cậu có muốn đi chỗ nào nữa không?” Nagai cười giễu, đoạn quay sang tôi.
“A, ừ… Không, tớ không,” tôi đáp.
“À. Hiểu rồi.”
Cậu ấy còn bỏ cuộc nhanh hơn cả lần trước.
Bất thình lình, cảm giác tủi hổ bao trùm lấy tôi vì không thể mở lòng và đón nhận sự nhiệt thành của người khác. Có lẽ tôi nên nêu đại một địa điểm du lịch nào đó, mặc dù trong lòng chẳng hề muốn đến. Cậu ấy đã cố hết sức để lôi kéo tôi vào cuộc chuyện trò; ít ra tôi nên cởi mở hơn mới phải. Giờ đây, tôi không khác gì gánh nặng sẽ phá hỏng bầu không khí vui tươi của nhóm.
Tôi thực sự, thực sự không biết phải giao tiếp với người khác như thế nào. Song tôi cảm thấy mình cần tìm ra lý do nào đó để tiếp chuyện. Tôi vừa theo sau bọn họ, vừa vắt óc nghĩ ra một chủ đề trò chuyện—nhưng càng cố gắng tập trung bao nhiêu, vô vàn thứ âm thanh từ và kích thích từ bên ngoài cứ không khỏi khiến tôi phân tâm. Tiếng còi xe. Tiếng người nói. Tiếng quạ kêu. Tiếng giao thông trên đường. Kể cả cơn gió thổi qua và những phiến lá lìa cành rơi trên mặt đất tạo thành những tiếng xào xạc trên từng bước chân đi. Hiện tại mới mười một giờ sáng của ngày trong tuần, nhưng Hakodate thật sống động với cơ hồ thanh âm. Mỗi âm thanh đều nhỏ và dễ dàng phân biệt tách bạch, song khi chúng kết hợp với nhau, tạo thành một khối âm hưởng hỗn loạn, tước đi khả năng tập trung, mọi khả năng xử lý và trí óc tôi. Một khi đã để chúng lọt vào tai sẽ không thể nào gạt bỏ được. Tựa hồ có chú bọ ngựa đang mài sắc hai chi bên trong cơ quan thần kinh tôi.
Ựa, mình không thể suy nghĩ thông suốt được nữa…
Hết cách, tôi bắt đầu đưa tay lên nghịch mái tóc như một tật máy giật, đồng thời là một cách nhằm giải tỏa sự căng thẳng của tôi. Tóc mái của tôi dài đến mức che cả mắt, và mỗi lần tôi quay đầu, chúng lại cọ vào hàng lông mi tôi. Việc mất đi một phần tầm nhìn không khỏi khiến tôi khó chịu, song tôi rất ghét cắt tóc thành thử cứ để tóc mọc dài ra mãi.
Chúng tôi tiếp tục hành tiến tới ga tàu và tạm dừng chân vì gặp đèn đỏ. Năm đứa đành phải đợi đèn giao thông chuyển xanh để có thể an toàn băng qua đường.
“Cậu biết không, Mugino-kun… Phải thừa nhận là,” Nagai bỗng đối mặt tôi cất tiếng. Tôi nhìn cậu ấy, định bụng sẽ đáp lời thật hòa nhã, tuy nhiên Nagai lại nói tiếp, “tớ hơi không tin rằng cậu lại tham gia chuyến tham quan này.”
Dòng suy nghĩ rời rạc của tôi tức thì tan biến theo mây gió. Từng lời Nagai nói vang vọng trong đầu tôi, tưởng chừng thanh âm ấy đã tống hết máu ra khỏi hộp sọ tôi rồi vậy. “Tớ hơi không tin rằng cậu lại tham gia chuyến tham quan này.”
“Ơ, ừm… Xin lỗi… A ha ha…”
Tôi không thể thốt nên lời, đâm ra chỉ có thể lúng túng khẽ cười thật gượng gạo. Nagai cau mày, ngơ ngác nhìn tôi, dường như cậu ta không hiểu tại sao tôi lại vừa cười vừa xin lỗi. Vài giây sau cậu ấy mới tỏ vẻ bối rối vì nhận ra sai lầm của mình.
“A, không! Tớ không có ý xấu hay gì hết! Ý tớ là hẳn cậu can đảm lắm mới đồng ý tham gia chuyến đi lần này, nhất là khi cậu ít chung vui với lớp. Tớ mà là cậu chắc chả có gan làm vậy đâu, cho nên… Tớ ăn nói hơi kém! Lỗi tớ mới đúng!”
Nỗ lực trấn an tôi dường như không hiệu quả lắm, nó chỉ tổ khiến tôi thêm phần tự ti, càng cảm thấy thêm lạc lõng. Tôi đoan chắc Nagai không hề có ý xấu. Công bằng mà nói, tôi cũng không thực sự tin lời cậu ta. Kể từ thời điểm đặt chân xuống Hakodate, tôi luôn tự hỏi bản thân rằng hà cớ gì mình lại đồng ý tham gia chuyến tham quan, từ lúc ngồi trên máy bay, à không, trên xe trung chuyển tới sân bay mới phải.
“Từ từ. Sao ông xin lỗi thế?” Một người trong nhóm Nagai nhận ra vấn đề, liền quay lại nhìn chúng tôi.
“Chuyện chi rứa? Bộ có gì vừa xảy ra à?”
Tôi cảm nhận được chút căng thẳng đang dần hình thành trong bầu không khí của cả nhóm. Điều này không đúng; mặc cho lời nói thiếu khôn khéo của Nagai, cậu ấy chỉ đang cố giúp tôi hòa nhập cùng nhóm. Trách nhiệm giờ đây thuộc về tôi để làm rõ sự việc—và tôi cần làm điều đó thật nhanh, trước khi đèn giao thông chuyển sang xanh.
“Thật ra, ưm… Nagai không có lỗi gì cả. Cậu ấy chỉ… diễn đạt hơi kém thôi, làm tớ hiểu lầm. Không có chuyện gì to tát cả… vậy đấy.”
Tôi dứt lời, đồng thời đánh một hơi dài thườn thượt đầy nặng nề. Chỉ nói liền mạch mỗi ba câu thôi mà tôi đã cạn kiệt sức lực. Song nhìn biểu cảm giãn ra trên gương mặt Nagai, lòng tôi thầm nhủ công sức mình bỏ ra là xứng đáng. Biểu cảm của những người còn lại cũng dần dịu đi, dường như họ mừng vì sự vụ không có gì nghiêm trọng. Ổn rồi—đây đích thị là phản ứng tôi mong chờ từ mọi người.
Một cậu bạn lên tiếng, “Nagai ấy mà, hoạt bát nhưng không khéo ăn khéo nói chút nào, nhiều lúc vạ miệng mà không nhận ra luôn cơ.”
“Ừ, đôi khi lại thẳng thắn quá nữa.”
“Cứ tự nhiên mà góp ý nhé, Mugino-kun,” người còn lại thêm vào. “Để cậu ta còn rút kinh nghiệm chứ.”
Ba người họ cười phá lên. “Thôi đi mấy bố!” Nagai trông chừng hơi cáu kỉnh, nhưng nhìn cách cậu ấy thúc cùi chỏ đùa vui một cậu bạn, xem ra cậu ấy chỉ đang làm bộ.
“Ê, đừng giận cá chém thớt chứ!” Cậu bạn kia đáp, giơ hai tay chịu thua.
Và cả bốn người bọn họ đều chung vui, cười đùa vô tư lự đến nỗi nếu có máy quay để lưu giữ cảnh này, tôi có thể dùng tư liệu này để làm ví dụ minh họa về một tình bạn đẹp. Họ thân với nhau thật, tôi thầm nghĩ. Cảnh tượng trước mắt không khỏi khiến tôi xúc động, hệt đang nhìn bầy chim cánh cụt túm tụm lại để cùng nhau sưởi ấm, vượt qua cái lạnh khắc nghiệt nơi Nam Cực. Dẫu vậy, nó lại quá xa lạ với thế giới của riêng tôi, tôi chưa từng nghĩ rằng mình có thể hòa nhập và vui đùa giống một thành viên trong hội bạn đó. Thông thường, tôi sẽ chẳng bận tâm nhiều đến vậy, nhưng ngay bây giờ, lòng tôi ngập tràn cảm giác u sầu không giống mọi khi. Và rồi quay về sự hoài nghi ban nãy: Tại sao tôi lại có mặt ở đây?
“Mấy ní thích trêu tui thế? Trêu nữa là đây nghỉ chơi, qua chơi với Mugino-kun đó.”
Nagai tiến đến choàng vai tôi.
Nhưng vào giây phút đầu ngón tay của cậu ấy vừa chạm vào tôi.
Tôi tức thì xô cậu ấy ra bằng cả hai tay.
Làm cho Nagai ngã xuống vệ đường.
Ngay lập tức, bầu không khí vốn đã lạnh giá xung quanh chúng tôi đóng băng hoàn toàn, cùng với tiếng bính bong, bính bong của cụm đèn giao thông báo hiệu đèn đã chuyển xanh. Vài người qua đường băng qua liếc nhìn chúng tôi bằng ánh mắt nghi hoặc, dẫu vậy họ vẫn tiếp tục cất bước mà không nói lời nào.
“Úi da…” Nagai rên rỉ.
Một trong số ba người còn lại liền đánh mắt sang tôi để chất vấn. “Ê! Làm cái gì đấy?!”
Nhờ đó mà tôi mới hoàn hồn, và một cảm giác tội lỗi dâng trào khi tôi nhận thức được bản thân vừa gây chuyện. Tim tôi đập loạn nhịp, tâm trí tôi trống rỗng và bắt đầu đánh mất bình tĩnh, lúng túng không biết làm sao để cứu vãn hậu quả mình vừa gây nên. Tất cả những gì mà cơ quan thần kinh của tôi có thể ghi nhớ được vào lúc này là cảm giác khi tiếp xúc da thịt còn lưu trên đầu ngón tay và bờ vai.
“Xin lỗi, tớ hơi tự nhiên quá nhỉ? Lỗi tớ cả, suốt ngày tớ toàn bị nhắc phải chú ý giới hạn khi tiếp xúc với người khác… Từ giờ tớ sẽ chú ý hơn.”
“Hả…? Không, tớ… tớ—”
Có rất nhiều điều tôi muốn nói. Tôi nợ cậu ấy một lời xin lỗi và một lời giải thích cùng sự đoan chắc rằng hành động vừa nãy là không hề cố ý. Song tôi không thốt nổi nên lời, câu từ cứ nghẹn lại trong cổ họng, và trước khi tôi kịp thành tiếng, Nagai đã quay lưng lại với tôi và hối thúc ba người còn lại băng qua đường. Cậu bạn kia vẫn trừng mắt nhìn tôi, xong cũng giận dữ bỏ đi và lẩm bẩm một câu quen thuộc: “Nó bị gì thế?”. Đó là câu nói mà tôi đã nghe không biết bao nhiêu lần suốt nhiều năm qua, dần dà cứ như những vết dao ngày càng cứa vào lòng tôi sâu hơn, vì đó là một niềm nghi vấn tới bây giờ tôi chưa thể tìm ra câu trả lời.
Đèn báo hiệu bắt đầu nhấp nháy. Tôi đành ngậm miệng lại và theo chân họ băng qua con phố, tiếp tục an phận ở vị trí cách hai mét.
Đã từ rất lâu rồi, tôi sống cả cuộc đời mình tách biệt với mọi người.
Tôi rất sợ bị người khác chạm vào cơ thể.
Không có nguyên nhân nào cả, chỉ đơn thuần là bản năng, phản xạ vô điều kiện của tôi. Giống như việc người ta vô thức rùng mình trước tiếng móng tay cào lên bảng phấn hay tiếng hai miếng xốp chà xát vào nhau. Bởi vì nó mà tôi luôn tránh lại gần các đám đông, tôi thậm chí còn không thể đến tiệm cắt tóc. Nay tôi mười bảy tuổi và vẫn phải để mẹ cắt tóc cho. Mỗi việc sống như một con người bình thường thôi đối với tôi là một khổ hình đầy nhục nhã.
Tôi đồng ý tham gia chuyến tham quan sau khi được giáo viên chủ nhiệm thuyết phục rằng, nếu tôi bỏ lỡ cơ hội này thì mai sau tôi sẽ thấy hối hận. Quả thực là sai lầm mà, vì chuyến đi vừa mới bắt đầu thôi mà tôi đã hối hận rồi. Cái gì mà trải nghiệm có một không hai không thể bỏ lỡ? Thật lòng mà nói, ngay từ đầu đừng nên tổ chức làm gì, ai cần cơ chứ?
Nhưng sâu trong thâm tâm, tôi biết chuyến tham quan không có vấn đề cả.
Vấn đề nằm ở tôi. Tôi nên ở nhà thì hơn.
“...Xin lỗi.”
Tôi chỉ dám khẽ thốt ra hai tiếng xin lỗi ấy sau lưng Nagai và nhóm bạn cậu ấy. Nagai chẳng thể nghe được, lời xin lỗi lí nhí ấy đơn thuần là cách giúp tôi cảm thấy khá hơn chút ít, nhưng tôi lấy đâu ra can đảm để xin lỗi cậu ấy cho đàng hoàng.
Tôi sợ phải giao tiếp còn hơn sợ ma.
Đột nhiên, tôi cảm thấy hơi nóng bốc lên trong mắt, nên tôi ấn ngón cái và ngón trỏ vào sống mũi, ngước mắt nhìn lên bầu trời, nơi độc một chiếc máy bay đang trôi đi giữa khoảng không xanh nhạt, để lại những vệt hơi nước phía sau. Tôi thầm nghĩ, mình nên trở về thì hơn, liệu giáo viên có cho phép nếu mình giả vờ ốm không nhỉ? Song tôi đang suy nghĩ viển vông mà thôi, bởi lẽ giáo viên đã đặt sẵn vé khứ hồi cho cả lớp. Nếu tôi mà cáo bệnh, giáo viên sẽ để tôi ở lì trong phòng khách sạn suốt chuyến đi này, như vậy vẫn tốt hơn làm một kẻ thừa thãi. Hiện giờ tôi đang là nhân tố phá hỏng tinh thần của cả nhóm, khiến họ không thể tận hưởng chuyến tham quan. Thành thử tôi nên vờ ốm để thoát khỏi thảm cảnh n—
Ựa. Nữa rồi, mới suy nghĩ một chút thôi mà.
Về lâu dài, cứ tiếp tục tránh né như thế này sẽ không có lợi cho tôi. Giáo viên chủ nhiệm cũng đã bảo tôi không thể cứ trốn chạy khỏi vấn đề mình đang gặp mãi được. Ngay từ đầu, tôi quyết định tham gia chuyến đi là vì lý do đó.
Tôi lắc đầu, cố gắng xua tan đi nỗi lo âu và đưa mắt nhìn con đường trước mặt. Tôi cần bớt cả nghĩ và cứ tùy cơ ứng biến thôi, phải bình tĩnh lại, đừng gây chú ý và tiếp tục cắn răng chịu đựng. Hakodate chỉ mới là điểm dừng chân đầu tiên của chuyến tham quan, tôi không thể chùn bước được. Xong Hakodate, chúng tôi sẽ đến Noboribetsu, rồi tới Sapporo và cuối cùng là Otaru. Nếu muốn vượt qua, tôi cần học cách mỉm cười và cam chịu.
Và thế là, tôi đã hạ quyết tâm.
Nhưng không lâu sau đó…
Vây lấy tôi là một sự im lặng đến rợn người.
Tôi lập tức ngừng bước.
“Hả?” Tôi thốt lên, rồi vô thức lùi lại trong kinh sợ.
Tôi vừa giật mình bởi giọng nói của chính mình.
Cơ mà tại sao giọng tôi lại to như vậy?
Không—không phải vì âm giọng tôi.
Mà bởi vì xung quanh tôi không có lấy một thanh âm.
Tôi đưa mắt nhìn quanh và phát hiện:
Cả thế giới dường như đứng yên tại chỗ.
Cả thế giới, trừ tôi ra.
Bốn người bạn chung nhóm tôi, những người qua đường, và cả xe cộ trên đường đều chững lại, ngỡ như thời gian đã ngừng trôi. Hơn cả, vạn vật đều yên lặng. Mọi sự huyên náo và ồn ã của phố thị đã tan biến trong giây lát.
“...Khoan, cái g…? Chuyện gì thế này?”
Sự yên lặng đáng sợ làm tiếng thầm thì bối rối của tôi vang vọng khắp con phố. Không chỉ mỗi giọng nói của tôi, từng nhịp thở, tiếng quần áo cọ vào nhau mỗi khi tôi cử động, tiếng giày đạp lên mặt đất—tất thảy những âm thanh mà bình thường tôi không hề chú ý đến đều trở nên nổi bật.
Chuyện quái đang xảy ra ngay lúc này vậy? Không lẽ tôi đang bị vướng vào chương trình truyền hình chơi khăm? Hay một thể loại “flashmob” nào đó chăng? Có khi nào tôi đã vô tình bị cuốn vào buổi tiệc bất ngờ của cả thành phố mà không nhận ra? Không, cái đó quá lớn lao và phức tạp nên khó mà khả thi được… Chơi khăm thì cũng có quy mô giới hạn, còn như hiện tại đã hoàn toàn vượt qua giới hạn đó rồi.
“Ưm… X-xin chào?” Tôi thu hết can đảm để thu hút sự chú ý của Nagai, kêu lên đủ to để cậu ấy có thể nghe thấy. Nhưng Nagai và các cậu bạn kia đều không hề có phản ứng. Tôi đi lên phía trước để nhìn mặt cậu ấy.
Tưởng chừng như tôi đang nhìn vào một bức tượng sáp tinh xảo. Nagai vẫn đang cười, nhưng khi quan sát chi tiết, tôi nhận thấy chút nét buồn bã ẩn giấu đằng sau nụ cười hồn nhiên ấy. Tôi cảm thấy đôi phần tội lỗi vì đã mang đến nét u ám đó. Sau một khắc lưỡng lự, tôi vẫy tay trước mặt cậu ấy, song Nagai vẫn đứng yên như phỗng. Ánh mắt không hề suy chuyển, cậu ấy cũng không chớp mắt.
Sự chú ý của tôi tình cờ bị thu hút bởi chiếc đồng hồ đeo tay trên tay phải Nagai. Nhìn kỹ hơn, tôi nhận ra kim giây đã hoàn toàn ngừng chạy, khiến chiếc đồng hồ dừng lại vào đúng 11 giờ 14 phút 36 giây. Đây không phải là cách nói ẩn dụ nữa, thời gian đã thực sự ngừng trôi.
Tôi đưa mắt nhìn khắp chung quanh để tìm kiếm bất kỳ sự sống nào khác, tuy nhiên, mọi thứ ngoại trừ tôi ra đã trở nên bất động. Xe cộ lưu thông trên đường, bảng hiệu đèn lúc trước còn nhấp nháy, kể cả những đám mây trên trời đều—
“Ồ, quao…”
Ngay lúc đó, tôi phát hiện một con quạ xuất hiện ngay trên đỉnh đầu, nó đứng yên với sải cánh dang rộng giữa khoảng trời trong xanh. Và cao hơn nữa, chiếc máy bay vài phút trước vừa bay ngang qua cũng đã dừng lại trên không trung. Tôi đứng trơ ra, mắt chữ A mồm chữ O nhìn bầu trời, trong khi bộ não tôi cố gắng xử lý toàn bộ thông tin nhằm phân tích liệu đây là ảo thị hay mọi định luật vật lý đã bị phá bỏ.
…Có khi nào tôi đang nằm mơ?
Nếu đang mơ thì tôi có tỉnh dậy ngay bây giờ được không? Tôi thử đưa tay lên véo má, y hệt kiểu tình tiết đã đi theo lối mòn trong các tác phẩm hư cấu, hay giống như những cuốn truyện tôi đã từng đọc, và kết quả không khác mấy, vô ích cả.
“T-từ từ! Mình biết rồi!”
Tôi thò tay vào trong túi áo khoác và lấy ra chiếc điện thoại của mình. Tôi nhấn nút nguồn và màn hình bật sáng. Tôi thở phào nhẹ nhõm bởi ít ra vẫn tồn tại vật thể còn khả năng vận hành trong thế giới này ngoài tôi ra… Hoặc có thể tương tác với tôi. Tuy nhiên, kỳ lạ thay, chính giữa trung tâm thành phố mà lại không có sóng, nếu không kết nối được vào mạng, chiếc điện thoại chẳng thể giúp ích gì nhiều vào thời điểm này. Nghịch điện thoại một hồi, tôi quyết định đi vòng quanh để xem có bắt được tí sóng nào không. Sau một hồi đến một vạch sóng cũng chả hiện, tôi chịu thua và nhét chiếc điện thoại trở lại túi áo.
Tôi chợt nhận thấy tiếng ong ong trong tai mà không thể gạt đi nổi. Không gian xung quanh quá mức yên lặng làm tôi sắp sửa phát điên mất. Cuộc sống hàng ngày của con người luôn ngập tràn bởi vô vàn âm thanh, từ tiếng xe cộ inh ỏi vào giờ cao điểm cho tới tiếng lá cây đung đưa xào xạc bên ngoài cửa sổ lúc đêm buông. Tất thảy âm thanh biến mất giống như lấy đi toàn bộ không khí vậy. Nó khác hoàn toàn với sự yên tĩnh. Giống như khi trở về đất liền sau một chuyến đi thuyền, mặc dù chân đã ở trên bờ nhưng cảm tưởng cả thế giới bên dưới vẫn đang nhấp nhô không ngừng. Ngay cả với một người vốn không thích sự ồn ào như tôi, cái sự tĩnh mịch này là quá sức chịu đựng. Cộng thêm sự vô minh trước tình cảnh bấy giờ càng khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn rất nhiều.
Có người ở đây.
Có tiếng người nói, là giọng con gái.
“Ơi… Ở đằng này!” Tôi dốc hết sức hét thật lớn, rồi chạy về phía giọng nói ấy. Nghe như nó phát ra từ phía bên kia nhà ga. Tôi hối hả chạy dọc theo vỉa hè, luồn lách giữa dòng người trên đường, tiếng bước chân tôi vang vọng khắp tuyến phố yên lặng. Một lúc sau, tôi chạy đến trước một giao lộ có đèn đỏ, và tôi vô thức dừng lại đợi đèn chuyển xanh, để rồi chợt nhớ ra thời gian đã ngừng trôi nên cái đèn xanh kia sẽ không bao giờ xuất hiện, tôi lắc đầu bó tay trước sự ngốc nghếch của bản thân và tiếp tục dấn bước. Có một chiếc ô tô dừng lại giữa đường ngay bên kia vạch kẻ, vì thế để cho an toàn, tôi chạy vòng ra đằng sau chiếc xe phòng trường hợp nó đột nhiên di chuyển trở lại.
Rốt cuộc, ga Hakodate cũng hiện ra trước mắt tôi. Chiếc đồng hồ to lớn gắn trên tường hiển thị thời gian giống chiếc đồng hồ đeo tay của Nagai: 11 giờ 14 phút sáng. Tôi láo liên khắp quảng trường trước ga đầy ắp các tượng sáp vô tri để tìm bất cứ người sống nào, và phát hiện ra một cô gái trẻ giữa đám đông kia, cô ấy cũng đang lo lắng tìm kiếm xung quanh nơi đây.
A! Một người nữa! Lòng tôi mừng thầm. Xem ra tôi không phải người duy nhất bị mắc kẹt trong thế giới này. Tôi thở phào nhẹ nhõm, và đi từng bước thật chậm lại gần cô ấy, người đó nom cũng đã nhận ra tiếng chân tôi rồi. Khi cô ấy quay lại đối mặt với tôi, nếp gấp trên tà váy cô ấy khẽ phất phơ.
Trông cô ấy bằng tuổi tôi. Với chiếc áo khoác bóng chày có mũ trùm đầu, mái tóc nhuộm màu vàng sáng, nhưng chân tóc đã mọc dài ra khiến một phần mái tóc trở về màu đen tự nhiên. Cô ấy mang đến phong thái của thành phần nổi loạn, côn đồ thường thấy ở trường học. Giây phút cô ấy nhìn thấy tôi, cô nàng lập tức nâng cao cảnh giác, hạ thấp trọng tâm cơ thể, đưa hai tay lên thủ thế, giống đang chuẩn bị cho điều gì sắp xảy đến. Tôi nhận ra đây là cách cô nàng bảo tôi không được tiến đến gần hơn nữa, cho nên tôi dừng chân cách cô ấy khoảng ba, bốn mét.
“Ê, nhóc là ai đấy?” Cô nàng kia hỏi tôi bằng tông giọng đầy hăm dọa.
Người này mới gọi mình là “nhóc” ư? Tôi hơi co ro trước thái độ cộc cằn của cô ấy.
“A, ừm… X-xin lỗi, mình không định làm cậu sợ đâu. Mình là Kayato. Mugino Kayato.”
Sau khi giới thiệu bản thân, cô nàng nhìn tôi một lượt từ đầu tới chân. Ánh mắt ấy hiện rõ vẻ cảnh giác tựa thú hoang—đôi mắt cô nàng mở to, mống mắt rung lên như người vừa thức trắng đêm.
“Nhóc sống quanh đây à?” Cô ấy tiếp tục chất vấn.
“Không, mình đến từ Tokyo… Mình đến đây để tham quan thôi.”
“Vậy à?” Cô ấy vẫn rất thận trọng, song cũng rời mắt khỏi tôi và quan sát khu vực chung quanh. “Chuyện này là như thế nào đây?”
“Ý cậu là sao?”
“Sao mọi thứ cứ đứng yên thế?”
“Mình chịu… mình cũng không biết gì giống cậu thôi.”
“...Chậc.”
Cô nàng tặc lưỡi như thể biết rằng tôi không thể giúp ích được gì, khiến tôi không khỏi nhăn mặt. Điệu bộ thất vọng ấy là điều dễ hiểu trong hoàn cảnh này, nhưng nó vẫn không khỏi khiến con tim tôi héo úa. Thất cách, tôi chỉ còn nước đứng nhìn cô nàng láo liên khắp quảng trường.
Để ý thì bên dưới lớp áo khoác bóng chày của cô ấy là bộ đồng phục học sinh, coi bộ cô nàng học ở trường cấp ba gần đây. Kiểu cài nút khá quen thuộc, nhưng lại thiếu mất cà vạt hay chiếc nơ. Lúc cô ấy nghiêng đầu, tôi thấy vài cái khuyên trên vành tai.
Chỉ nhiêu đó thôi đã khiến tôi căng thẳng. Thằng như tôi không có việc gì phải giao du với một người điệu đà nhưng nói năng lỗ mãng giống cô nàng—đặc biệt là nếu cô ấy thuộc dạng cá biệt ở địa phương. Chắc mẩm cô ấy cũng có ác cảm với thành phần thảm hại sợ giao tiếp như tôi. Nếu không bị kẹt trong thế giới lạ kỳ này, hẳn chúng tôi sẽ chẳng bao giờ nói với nhau một lời nào.
Tuy vậy, lòng tôi dấy lên nỗi băn khoăn:
Vì sao chỉ có hai chúng tôi là có thể chuyển động?
Biết đâu vẫn còn người khác, nhưng họ đang không ở quanh đây?
“Ựa… Nhóc bị gì à?” Cô nàng kia cất tiếng hỏi, mắt nhìn chòng chọc vào tôi.
Úi. Ắt cô nàng vừa phát hiện ra tôi vẫn đang đực người ra nhìn cô ấy. Tôi bối rối xin lỗi và nhanh chóng đánh mắt sang chỗ khác. Cô ấy tiến lại gần hơn để quan sát tôi, có vẻ cử chỉ vừa rồi đã khơi dậy sự tò mò của cô nàng.
“Ê nhóc, mấy tuổi rồi?” Cô nàng hỏi tôi.
“M-mười bảy ạ.”
“Uầy, bằng tuổi nhau à? Khó tin ghê… trông cứ như học sinh cấp hai ấy.”
“Mình… Hửm?”
Nói thế thì chịu. Cô ấy nghĩ tôi có khuôn mặt non choẹt sao, hay tại cô nàng nhận ra tôi là một lên nhát cáy? Có lẽ tôi không cần thiết tỏ ra nhã nhặn thái quá nữa bởi lẽ hai đứa cùng tuổi. Không phải là tôi thấy sợ cô ấy, nhưng có một vài điểm mà tôi muốn được giải đáp.
“Đ-được rồi, nghe này, ừm…”
“Hả? Nói gì nói lẹ lên.” Chưa gì mà cô nàng đã quát tháo, coi bộ khó chịu ra mặt rồi. Mình không chịu được cô ta.
“Ừ thì, tớ biết tên cậu được không…?” Tôi rụt rè hỏi.
Thoạt đầu cô nàng hơi do dự nhưng rồi cũng thản nhiên trả lời. “Akira. Iguma Akira.”
“À, được rồi. Vậy, Iguma-san, cậu là người Hakodate sao?”
“Ừ, thế thì sao?”
“Ờm… Tớ chỉ đang thắc mắc chuyện này có thường xuyên xảy ra không, hay…”
“Chuyện này là chuyện gì?”
“Kiểu… thời gian dừng lại ấy.”
Akira nhướng mày tỏ vẻ kinh ngạc, rồi tiếp tục quát tôi. “Bị ngu hả? Bộ đây là tàu đến trễ hay gì mà người ta gặp hằng ngày chứ?”
“C-cũng phải. Hỏi ngu rồi. Lỗi tớ…”
“Bớt ba láp ba xàm nhé. Sút vỡ a lô bây giờ.”
Tôi cúi đầu và rối rít xin lỗi. Con gái con lứa gì mà dữ như cọp. Tôi thực sự không hiểu vì sao cô nàng cứ tỏ ra hằn học đến vậy, dù nghĩ thế nhưng tôi đâu có ngốc mà đi hỏi trực tiếp cô nàng. Phía bên kia, Akira thở dài não nề và đưa tay lên vuốt tóc mái.
“Ựa… Yên tĩnh thật đấy, nhức đầu quá… Nhóc thực sự không hề biết chuyện gì đang diễn ra phỏng?”
“Đúng là thế… Tớ đang đi trên đường thì vạn vật cứ đứng yên như vậy thôi… C-còn cậu thì sao?”
“Đây làm sao biết được?”
Bất chấp lời lẽ cay nghiệt và thái độ bất cần đời, câu vừa rồi của Akira khiến tôi cảm tưởng cô ấy đang tuyệt vọng. Không lẽ vẻ bề ngoài dữ dằn kia chỉ đơn thuần là một mớ lời lẽ khoa trương nhằm che giấu nỗi sợ sâu bên trong cô nàng.
“Chờ chút đã,” tôi đột nhiên nhớ ra. “Iguma-san, cậu sống ở đây, đúng chứ?”
“Ừ, vừa nói còn gì?”
“Phải, nhưng ý tớ… Hôm nay là ngày trong tuần mà. Cậu lang thang ở quanh đây làm gì chứ?”
Đang là sáng thứ Ba—tôi thì không thành vấn đề bởi đang đi tham quan cùng lớp, nhưng đáng lý ra cô ấy nên ở trường mới đúng. Nếu được nghỉ thì cô nàng đã không mặc đồng phục rồi, còn bận việc đột xuất cần về nhà gấp lại hơi khó tin. Lời giải thích hợp lý nhất là cô nàng đang trốn học.
“...Không phải việc của nhóc,” cô ấy đáp cộc lốc.
Xuyên suốt khoảng thời gian vừa rồi, tôi vẫn chưa thể lấy được sự tin tưởng của cô nàng. Mong sao nguyên do xuất phát từ khả năng tương thích xã hội kém của tôi chứ không phải tại tôi làm gì sai.
“Vậy bây giờ cậu tính thế nào?” Cô nàng tiếp tục hỏi tôi.
“Ưm… có lẽ chúng ta cần tìm hiểu nguyên nhân gây nên tình trạng này.” Tôi ậm ừ đáp.
“Bằng cách nào?”
“Tớ… chưa nghĩ ra, thành thật xin lỗi.”
“Hay lắm, rõ ăn hại…”
Nữa rồi…
Akira chẳng thèm nói lời nào, cô nàng quay gót và cất bước.
“N-này! Cậu định đi đâu vậy?”
“Tìm xem còn người nào khác không. Đây tự lo phần mình, nhóc muốn làm gì thì làm.”
“Ơ? Nh-nhưng mà…”
Theo lẽ thường tình, giữa tình cảnh nguy khốn mà tách nhau ra quả không phải ý hay—không những thế, còn có yếu tố siêu nhiên tác động vào, thành ra không thể biết trước chuyện gì sẽ xảy đến. Hơn cả, chúng tôi cần trao đổi thêm thông tin về tình hình hiện tại.
Song tôi không ngăn được cô nàng rời đi. Ắt cô ấy có nghe thấy tiếng tôi lắp bắp phản đối, nhưng vẫn tảng lờ và đi vào thành phố. Tôi mất dấu cô ấy gần như ngay lập tức, chẳng mấy chốc tiếng bước chân cũng dần phai đi—để lại mình tôi trước ga Hakodate, đơn độc trước sự yên lặng kinh dị thêm một lần nữa.
Thật ra tôi có thể đuổi theo cô nàng và ép cô ấy thảo luận cho ra nhẽ nếu muốn. Lý do duy nhất khiến tôi không làm vậy là bởi tôi biết mình và cô nàng sẽ chẳng thể nào hòa hợp nổi. Chúng tôi quá đỗi khác biệt, vì vậy không còn lựa chọn nào khác ngoài tự mình tìm cách giải quyết vấn đề này. Tôi vốn không có thói quen dựa dẫm vào người khác, thành ra tôi không để bụng mấy.
“Mình nên bắt đầu từ đâu đây…?”
Trước tiên cần tìm ra gốc rễ gây ra hiện tượng này, nhưng bằng cách nào. Tôi không biết phải bắt đầu như thế nào. Suy cho cùng, hiện tượng thời gian ngừng trôi, hay “thời gian đóng băng” xảy ra quá đột ngột và không có dấu hiệu nào báo trước, thành thử tôi không thể suy đoán được nguyên nhân. Như thể một vị thần vô hình nào đó đã bấm nút ngưng đọng thực tại, hoặc tôi bị dịch chuyển sang một chiều không gian khác nơi vạn vật đều giống hệt với thế giới ban đầu, mỗi tội thời gian dừng lại đúng thời khắc tôi dịch chuyển.
Cứ như bị mắc kẹt trong một bức tranh tầm sâu khổng lồ vậy.
Đúng lúc đó, tôi nhận thức được sự vắng mặt của một thứ cảm giác trên làn da. Đó là trời không có gió. Một chút cũng không. Liệu rằng thời tiết vốn không có gió chăng? Vô lý. Nếu không thì chí ít vẫn cảm nhận được khí động quanh cơ thể. Thiếu đi luồng không khí ấy khiến tôi cảm tưởng mình bị mắc kẹt trong một không gian khép kín, mặc dù bản thân đang đứng ngoài trời. Mọi sự trước mắt tôi đều bất thường, vượt ngoài phạm trù nguyên lý khoa học. Điều đó dấy lên nỗi hoài nghi: Liệu đây là sự thật, hay nó chỉ đang diễn ra trong tiềm thức tôi.
Coi bộ mong muốn được thoát khỏi chuyến tham quan này của tôi đã trở nên mất kiểm soát, đâm ra khiến tôi bị hoang tưởng. Đó là một lối nghĩ đáng quan ngại, nhưng không còn lời giải thích nào hợp lý hơn trừ ngoài về yếu tố siêu nhiên. Tôi nhớ mang máng đã từng đọc về một chứng rối loạn tâm thần có tên hội chứng Alice ở Xứ sở thần tiên, khi mà cảm quan của một người về kích thước, cơ thể, hoặc môi trường xung quanh bị bóp méo, cũng như gián đoạn trong nhận thức về thời gian. Coi bộ “nhận thức rằng thời gian đã ngừng trôi” không nằm trong số các triệu chứng vừa đề cập, song về căn bản, những gì tôi đang trải qua lại thuộc phạm trù chung của căn bệnh kia. Dẫu vậy, nếu kỳ thực tất thảy chỉ là ảo giác, cô nàng mới gặp ban nãy là sao?
“Hừm…”
Nghĩ suông thôi chả đi đến đâu. Đúng lúc lâm vào bế tắc thì dạ dày tôi bỗng kêu lên, làm tôi nhớ ra rằng mình chưa ăn trưa.
“Kiếm thứ bỏ bụng trước đã…”
Có thực mới vực được đạo. Và thế là tôi lê bước dọc theo con phố, lướt qua vài quán xá trông hấp dẫn và ấm cúng. Gần trưa rồi thành ra mọi nhà hàng đã mở cửa đón thực khách, song vào đó mà phục vụ lẫn đầu bếp đều bất động cũng vô ích. Vậy phải đi đâu đây?
“Oái!”
Mải vắt óc suy nghĩ, tôi suýt chút đá trúng một chú chim bồ câu trên đường. Tí nữa thì. May mà mình phát hiện kịp. Chú chim đó đứng im trên mặt đất y hệt thú nhồi bông. Dân Tokyo vốn không lạ gì loài bồ câu, nhưng đây là lần đầu tiên được chứng kiến một chú chim bồ câu gần đến vậy, thậm chí còn suýt đá phải. Chúng luôn biết tránh ra xa khi thấy con người tiếp cận. Nhưng vì thế giới đã đóng băng, thành thử tôi cần chú ý từng bước chân hơn mới được.
Trước khi đi tiếp, tôi khom người xuống chú bồ câu để quan sát kỹ hơn. Anh bạn trông lùn và mập hơn loài bồ câu ở Tokyo, có lẽ do sở hữu bộ lông dày hơn để chống chọi cái lạnh của Hakodate. Tôi hiếu kỳ đưa mu bàn tay xoa xoa cái cổ của nó. Mềm mại làm sao, dù anh bạn chẳng hề cử động, tôi có thể cảm nhận được chút hơi ấm mong manh tỏa ra từ hình dáng nhỏ bé ấy.
Chí ít mình không sợ chạm vào động vật nhỉ.
Tôi đứng dậy, phủi tay vào quần và tiếp tục rảo bước.
Cuốc bộ thêm một hồi, tôi dừng chân trước một cửa hàng tiện lợi có khu vực ăn uống bên trong. Tôi đẩy mở cánh cửa vào trong cửa hàng, bầu không khí tại đây mát lạnh, mặc cho điều hòa đã ngưng hoạt động. Tôi lấy một chai trà từ tủ đồ uống cùng một cốc mì ăn liền trên kệ và bước đến quầy thu ngân. Tại đó, tôi đặt đúng số tiền trước mặt anh nhân viên đang ngáp đồng thời lấy một đôi đũa rồi đi qua khu ăn uống.
Tôi thường xuyên dành hàng tiếng đồng hồ ở những cửa hàng tiện lợi như này khi trốn học. Quả thực là nơi lý tưởng cho bọn hay cúp học giống tôi, bởi lẽ nhân viên thường không bận tâm mấy đến khách hàng hay hoàn cảnh của họ ra làm sao. Trước đây tôi hay lui tới thư viện công cộng nữa, nhưng từ hồi được thủ thư bắt chuyện và đối xử như khách quen, tôi không còn đặt chân tới đó nữa. Tôi không muốn tiếp xúc với bất kỳ ai.
Tôi bóc nắp hộp mì và đặt ngay dưới vòi máy rót nước sôi. Tôi nhấn nút và đợi cho nước sôi chảy ra.
“Hửm?”
Không có chút nước nào chảy ra, mặc dù vạch báo mức nước chỉ lượng nước bên trong còn đầy. Tôi nhấn nút thêm vài lần song vô ích. Thất cách, tôi thử mở trực tiếp nắp máy và một luồng hơi nước lập tức cuồn cuộn bốc lên khỏi bình chứa rồi ngưng lại giữa không trung. Xem ra tôi cần tìm hiểu nhiều hơn về cách thức vạn vật hoạt động trong thế giới này. Tôi lấy ngón tay chọc vào đám mây hơi nước kia...
“Úi, nóng quá!”
Tôi tức thì rụt tay lại, suýt thì bỏng. Không hiểu sao mặc dù tôi biết đấy là hơi nước nóng nhưng cứ muốn nghịch. Tôi nghiêng cái máy và rót trực tiếp nước nóng vào cốc mì, dẫu hơi vụng về làm nước đổ xuống sàn chút ít. May thay ông trời không phụ lòng cái bụng đói của tôi, xoay sở mãi cũng rót đủ nước, tôi dán nắp cốc mì và đậy lại cái máy, sau đó yên vị xuống ghế. Lần đầu tiên trong cuộc đời mà ăn uống mà phải đấu tranh khổ sở đến thế.
Tôi rút điện thoại ra kiểm tra giờ giấc. Màn hình hiển thị 12 giờ 25 phút, hơn một tiếng kể từ khi hiện tượng này bắt đầu. Chiếc đồng hồ treo trên tường của cửa hàng tiện lợi vẫn dừng ở 11 giờ 14 phút. Không hiểu sao có thứ vẫn chạy còn có thứ thì không, thay vì thắc mắc, coi bộ tôi nên tìm hiểu kỹ càng không cách thế giới vận hành. Nhưng trước tiên phải hốc cái đã.
Tôi nghịch điện thoại đợi cho mì chín. Bởi vì không có mạng thành ra tôi chỉ ngẫu hứng mở rồi đóng ứng dụng trên máy. Vô tình, tôi ấn vào danh bạ, ngón tay dừng lại trước cái tên Chú Kurehiko nằm trong lịch sử cuộc gọi.
Chú gọi cho tôi hai tuần trước, ba ngày sau cuộc gọi ấy, chú Kurehiko mất vì suy tim cấp tính ở tuổi ba mươi chín. Chú qua đời thật đường đột ấy vậy mà không mấy người tiếc thương trước sự ra đi của chú ấy. Tính tình lập dị, thích sống ẩn dật khiến chú không có nhiều bạn bè và bị người thân, họ hàng xa lánh.
Tại lễ tang, mẹ tôi bảo có lẽ tôi là người cuối cùng mà chú ấy nói chuyện. Nhưng cái lần trò chuyện cuối ấy, chú Kurehiko đã nói gì nhỉ? Tôi nhắm mắt và cố lục tìm ký ức mình.
“Chú nói mày nghe, rặt một lũ ngu xuẩn cả thôi.”
Chú Kurehiko luôn tức giận vì điều này hay điều khác—cuộc gọi cách đây hai tuần cũng không ngoại lệ. Đương một giờ sáng, vừa nhấc máy lên thì một tràng càu nhàu chui tọt vào tai tôi, nom ông chú đang say xỉn sau khi tham gia bữa tụ họp với hội họa sĩ nọ. Giọng chú cay nghiệt hơn hẳn mọi hôm.
“Tất cả tụi nó, đúng là một lũ ăn hại. Thế mà tồn tại một đám não tàn hơn cơ, cái bọn sẵn sàng bỏ tiền ra mua đống rác tụi nó vẽ ấy. Giờ thằng nào có mắt nhìn tí lại chả khinh ra mặt cái nghề của tụi nó, tới chết vẫn khinh. Mẹ, toàn lũ ngu.”
“A… dạ…” tôi lí nhí đáp.
“Còn bọn gà mờ cứ thích tỏ vẻ chuyên gia, tiên tiến nọ kia. Đếch biết lịch sự cái chó gì cả. Đèn trong nhà chưa tỏ, chuyện ngoài ngõ đã tường. Rặt một lũ kền kền ăn xác thối. Tụi nó đầy rẫy trong giới vẽ rồi, phải giết cho bằng sạch chứ không bôi tro trát trấu lên cái nghề này mất.”
“Vâng ạ…”
Không có chủ đề nào mà chú Kurehiko không nói gì đó tiêu cực. Từ chính trị, điện ảnh, mỹ thuật, thời tiết, người nổi tiếng, hay cả hàng xóm, mọi thứ tới mọi người đều bị cuốn vào cái vòng phê phán của chú ấy. Chú chỉ trích không phải vì nó xấu, mà là chú mang mối hận thù với gần như tất thảy vạn vật trên đời. Mặc dù tôi biết chú trước giờ chưa hề đập chết một con ruồi.
Rồi chú chuyển chủ đề sang tôi…
“Sao thế ông nhõi? Nói gì khác ngoài ậm à ậm ừ không được à? Người ta nói thì nên chú ý lắng nghe nhé. Không thì ra đời làm sao kết thân với người ta được.”
“Chú ơi, cháu buồn ngủ lắm rồi ạ. Mai cháu còn phải đi học nữa…”
“Hừ. ‘Phải’ cái gì mà ‘phải’. Ai bắt ông cháu học cấp ba đâu. Mày ngồi nhà coi hết các bộ phim kinh điển của mấy tay đạo diễn vĩ đại nhất lịch sử cho chú. Coi cho bằng hết. Đấy, giới trẻ bây giờ chả—”
Không hiểu sao chú Kurehiko có vẻ ưa tôi, được một người tiêu cực quý mến thế này không ngờ lại có mặt tích cực. Một điều mà tôi nhận thấy về chú Kurehiko, mặc dù chú là một người nghệ sĩ lành nghề, chú vẫn bị cả xã hội ruồng bỏ và xem thường. Dẫu hơi xúc phạm khi nói ra, song những người như chú vẫn có chỗ đứng và tồn tại trong thế giới này quả thực đã mang đến cho tôi chút hy vọng về tương lai của chính mình.
Dù cho chú đã chết trẻ và cô độc tới cuối cuộc đời.
“Ê, ông nhõi có thích đi học không đấy?”
“Dạ?”
“Nghe cho kỹ. Chú hỏi mày có thích đi học hay không?”
Qua chiếc loa đàm thoại, tôi nghe thấy tiếng chú đang nốc ừng ực thứ nước uống gì đấy. Coi bộ là rượu rồi. Dù sao thì tôi cũng đã quen.
“Cháu làm gì có quyền lựa chọn đâu ạ. Ba mẹ là người chu cấp học phí. Với cả, cũng chỉ trải qua được một lần cấp ba trong đời, thành ra…
“Nhưng cháu có thực sự thích không đã?”
“Ý là…” tôi bất giác chững lại, không thể đưa ra câu trả lời.
“Hừ. Chú mày cứng rắn lên coi. Phải biết nói lên chính kiến của mình. Đàn ông mà ù ù khạc khạc mãi thì dễ bị người ta dụ lắm. Mày nghe chú này: toàn bộ hệ thống chính trị lẫn xã hội được thiết kế để trở thành một cái bộ máy quan liêu sẽ nuốt chửng bất kỳ kẻ yếu thế nào. Và nếu bị nó nhắm vào, mày cần dựa vào lợi nói và hành động của bản thân để chống lại nó.”
“...Cháu đi ngủ được chưa ạ?”
“Chưa.”
“Chú à, đã một giờ sáng rồi đấy.”
“Đúng là trò hề mà. Đừng để mình trở thành nô lệ của thời gian, nó chỉ là ảo giác cả thôi. Quá khứ, hiện tại, tương lai suy cho cùng chẳng khác gì các huyễn hoặc trong bức tranh mang tên số mệnh. Nó chứa đựng cả ngàn lớp, vô số chiều còn con người chúng ta chỉ có thể quan sát duy một khía cạnh tại một thời điểm.”
Chú đã hoàn toàn say khướt rồi, nhưng tôi vẫn nán lại chút để lắng nghe mấy lời càm ràm nửa vời của chú. Đồng hồ điểm hai giờ sáng, và tôi không còn hy vọng vào việc sáng mai sẽ thức dậy đúng giờ. Hẳn đây là lý do tôi không cúp máy. Không phải tôi muốn tìm một cái cớ để ngủ nướng, mà giống như lời chú ấy nói, tôi thực sự không thích đi học chút nào.
Tôi không nhớ nhiều về nội dung cuộc gọi từ thời điểm đó trở đi. Tôi đã mệt lử và lời chú nói càng lúc càng khó hiểu, nên âm thanh cứ đi vào tai này rồi ra tai kia. Nhưng tôi vẫn nhớ như in đoạn cuối cùng:
“‘Thế giới hổ phách,’ chính là nó. Tôi không nhớ vì sao chú ấy lại đề cập tới nó, nhưng cụm từ ấy đã khắc sâu trong trí nhớ tôi.
“Hổ phách ạ?”
“Ừ. Nó là nhựa cây hóa trong đó chứa những vi sinh vật đóng băng theo thời gian, nhờ đó mà chúng mãi trường tồn suốt hàng triệu năm. Chú mày đã từng chứng kiến thế giới này nằm trong một khối hổ phách, ở đó khái niệm thời gian không tồn tại.”
“Ý tưởng mới của chú ấy ạ?”
“Không. Đến cả mày cũng không tin chú à? Thôi sao chả được, cái đó nghe hơi vô lý. Nhưng chú đã được nhìn thấy tận mắt đó. Đã kinh qua nên chú mới biết, không phải hoang tưởng đâu, chú hoàn toàn tỉnh táo nhé. Cái thế giới đó… trần trụi. Một thực tại bất khả phủ định.”
“Trần gì cơ ạ? Cháu không hiểu lắm…”
“Sẽ sớm thôi. Ta sẽ giải mã được quy luật chi phối nó. Chú cảm nhận được. Lần tới ta sẽ tìm cách mang về bằng chứng không thể chối cãi. Tụi nó chỉ còn nước tin ta. Tới lúc đó mày sẽ hiểu thôi Kayato. Đứa sáng dạ như chú mày sẽ hiểu được sự vĩ đại, sự… sự…
Im bặt.
“Chú ơi? Chú Kurehiko ơi?”
Không còn âm thanh nào khác ngoài tiếng ngáy. Chú ấy lăn ra ngủ luôn rồi. Tôi đành cúp máy và vùi mặt vào chiếc gối.
Ba ngày sau, chú Kurehiko mất. Thi thể chú ấy được người ta phát hiện ở trước ga tàu gần nhà. Người qua đường thấy chú nằm đó và gọi cứu thương, nhưng thời điểm đó chú đã không còn thở nữa. Khi tôi nhìn thấy chú nằm trong linh cữu, gương mặt chú ấy trông già và hốc hác hơn lần cuối chúng tôi gặp. Những nếp nhăn hằn sâu trên vầng trán, như tượng trưng cho sự hận thù với thế giới chú đã từng sống.
“Thế giới trong khối hổ phách sao…?”
Cụm từ ấy thu hút sự chú ý của tôi, và ý tưởng nơi thời gian không tồn tại nữa—không lẽ chú đã cho tôi gợi ý sao? Hay đây đơn thuần là sự trùng hợp, hoặc có mối liên hệ giữa lời lảm nhảm vô thưởng vô phạt của chú với tình cảnh tôi đang trải qua. Chú ấy bảo giải mã được quy luật chi phối nó, nhưng chi phối thứ gì mới được? Tôi mà biết trước tương lai thì đã chăm chú nghe kỹ hơn.
Căn hộ chú Kurehiko sống nằm tại một khu chung cư ở Tokyo. Nếu tới đó và lục tìm trong mớ di vật của chú ấy, biết đâu tôi có thể thu thập được ít nhiều manh mối đằng sau điều chú đề cập. Tuy vậy, vì xe trên đường đã đứng yên tại chỗ, tôi đoán các loại phương tiện giao thông khác cũng ngừng vận hành cả. Thành thử quay về Tokyo không phải chuyện dễ dàng, cũng không có gì đảm bảo tôi sẽ tìm thấy thứ mình cần hòng hóa giải hiện thực trước mắt.
“Hừm…”
Thế mình làm sao bây giờ?
Tôi ngồi đó khoanh tay suy tính, rồi sực nhớ tới cốc mì. Chết dở, quên béng mất. Mì bây giờ chắc nở hết rồi, nhưng có còn hơn không. Tôi bóc nắp dán và nhúng đũa vào chiếc cốc.
Ơ khoan…
Mì vẫn dính liền một khối. Đã hơn ba phút rồi mà, tại sao vẫn chưa chín chứ? Nước không đủ nóng sao? Hồi nãy rờ vào hơi nước thôi cũng suýt bỏng tay mà. Tôi sờ cốc mì và thấy nó tương đối nóng. Lạ kỳ thật…
À phải rồi!
Do thời gian đã ngưng lại nên dù tôi có đợi bao lâu đi nữa, mì bên trong không thể hấp thu được nước. Vì lẽ đó mà tôi không thể pha nổi một cốc mì đạm bạc. Không hẳn tôi thích mì ăn liền, nhưng nếu không nấu được các món cần nước thì lựa chọn thực phẩm của tôi sẽ khá hạn chế. Xem ra tôi chỉ có thể tiêu thụ các bữa ăn chế biến sẵn, hoặc trái cây không cần nấu chín và rau sống.
Linh cảm mách bảo những hạn chế kia sẽ không gói gọn trong việc ăn uống. Sắp tới còn có nhiều thứ hơn không thể sử dụng được. Tốt hơn hết tôi nên thực hiện vài thử nghiệm, để tổng kết các định luật của thế giới này. Tạm gác ưu tiêu tìm hiểu nguyên nhân khiến thời gian dừng lại sang bên.
Hành động tiếp theo của tôi đã được ấn định.
Năm tiếng sau khi rời cửa hàng tiện lợi, tôi đang lang thang trước một tiệm bán đồ lưu niệm gần cảng thì điện thoại tôi hết pin.
Tôi đành tìm về khách sạn nơi cả lớp đã đặt phòng. Tôi nhớ rằng người phụ trách chính của chuyến tham quan đã nói hành lý sẽ được chuyển từ sân bay đến khách sạn sau, chắc mẩm giờ này va li và ba lô có chứa sạc điện thoại của tôi đang ở đó rồi.
Bầu trời trên cao một ngày tháng Mười đáng lẽ ra đã nhuộm màu đỏ thẫm mới đúng, ấy vậy sắc xanh trầm vẫn còn đấy. Tôi không xem được giờ giấc nữa, chỉ nhớ thời gian đã mãi dừng lại vào 11 giờ 14 phút. Nghĩ tới dù thời gian có trôi qua bao lâu, ngoài trời sẽ sáng mãi không khỏi làm tôi bất an. Nếu không có đồng hồ trên điện thoại, chẳng chóng thì chầy cơ thể tôi cũng đánh mất nhận thức về thời gian.
Suy nghĩ ấy gợi nhớ đến một bộ phim tôi đã từng thuê đĩa DVD về xem, cốt truyện lấy bối cảnh tại một thị xã nằm ở vòng Bắc Cực. Nhân vật chính vì vấn đề công việc nên được thuyên chuyển tới đó. Áp lực từ công việc và môi trường xa lạ nơi mặt trời không bao giờ lặng khiến anh ta mắc chứng mất ngủ trầm trọng, và từ đó mọi thứ dần đổ vỡ. Mong tôi không lâm vào hoàn cảnh tương tự. Tôi không biết sẽ phải trải qua tình cảnh hiện tại thêm bao lâu, nhưng tôi muốn mình chí ít có thể duy trì nhịp sinh học bình thường. Trước tiên, tôi cần sạc điện thoại đã.
Tôi đặt chân tới khách sạn và bước vào trong sảnh. Nhớ không nhầm thì hành lý của chúng tôi được cất giữ tại quầy gửi đồ. Có lẽ nằm ở đâu đó phía sau bàn tiếp tân.
“Xin phép ạ…” tôi nói với cô lễ tân đang mỉm cười rồi đi ra sau quầy đến khu vực nhân viên. Đi qua các phòng phía sau một lúc, tôi cũng thấy thứ mình cần tìm. Một khối hành lý lớn được cất gọn tại một chỗ. Chẳng tốn bao lâu để lấy cái ba lô của tôi ra khỏi đống hành lý. Xong việc, tôi ra ngoài tiền sảnh và kéo khóa ngăn trước, lôi cáp cùng củ sạc điện thoại ra.
“Ngon, giờ tìm ổ điện đã…”
Tôi ngó nghiêng quanh và tìm thấy một khu vực giống như không gian làm việc dành cho khách lưu trú vì mục đích công tác. Có vô số ổ điện tại đó, nên tôi nhanh chóng cắm sạc rồi đợi điện thoại bật sáng trở lại… song đợi suốt một hồi lâu, màn hình vẫn tối đen. Nhớ lại cốc mì ban nãy, tôi đôi phần tiu nghỉu.
“Chán thật.”
Trải qua vài tiếng đồng hồ nghiên cứu giới hạn trong thế giới này, tôi rút ra được một số điều cơ bản. Thứ nhất, hầu hết các thiết bị điện tử hay cơ học không cần con người thao tác để hoạt động đều không thể vận hành. Cửa tự động phải tự dùng lực để mở, trụ ATM không phản hồi, thang máy không chạy được và cảm biến của vòi nước tự động không thể nhận diện tay người. Bất tiện thực sự, tệ hơn cả là tôi không thể dùng toilet cho đàng hoàng nữa. Có gạt cần nước thì nước cũng không xả xuống, thành ra nếu muốn đi vệ sinh nhiều lần thì phải đổi toilet liên tục.
Nhưng nếu điện thoại không sạc được, đồng nghĩa rằng tôi không thể sử dụng nguồn điện từ các ổ cắm. Coi bộ dòng điện trong dây dẫn đã đứng yên nốt rồi.
Tôi cất điện thoại và bộ sạc vô túi áo khoác, vứt ba lô lại chỗ sảnh rồi rời khách sạn. Xem chừng tôi sẽ phải biến khách sạn thành căn cứ tạm thời sau khi điều tra toàn bộ manh mối ở Hakodate này. Tôi bước đi bên vệ đường, vừa ráng tổng kết tất thảy mọi thông tin đã thu thập được.
Những thứ không xài được là một, dẫu vậy vẫn có vài ngoài lệ bao gồm điện thoại hoặc máy tính bảng và mấy cái bật lửa rẻ tiền, chúng có tinh thể áp điện kèm sẵn khí ga nên chắc hoạt động bình thường. Các sinh vật sống cũng bị ảnh hưởng. Vừa rồi tôi bốc một con nhện nhỏ ở trên nhành lá, đặt trên lòng bàn tay thì bất thình lình nó chuyển động trở lại làm tôi giật điếng người, rũ văng nó đi. Nó rơi xuống đất rồi đứng yên một lần nữa, bốc nó lên thì nó tiếp tục cử động. Nhưng giống với các thiết bị điện tử cỡ lớn, các loài động vật to cỡ chim bồ câu đều không sống dậy được.
Thứ chuyển động được, thứ thì không. Tôi cảm thấy mình ít nhiều đã nắm bắt được sự khác biệt giữa hai thứ đó.
“Hử?”
Cách thùng rác trước mặt tôi vài mét là một cái lon rỗng. Không biết kẻ nào đã vô ý thức vứt nó trên đường, nhưng tôi liền nắm lấy cơ hội để thực hiện chút thí nghiệm. Tôi nhặt cái lon lên, chạy đà, nhắm vào miệng thùng rác mà ném. Cái lon vừa rời ngón tay tôi liền vút đi trên không trung, nếu không đột ngột dừng lại giữa chừng thì nó đã lọt vào thùng rác rồi.
“Đúng như mình nghĩ.”
Tôi tóm lấy cái lon bất động giữa không trung và đặt nó trong thùng rác.
Có lẽ “hào quang” là từ thích hợp để diễn tả hiện tượng này, một cái trường gì đó bao quanh cơ thể cho phép tôi và mọi vật trong phạm vi ảnh hưởng vận động bình thường. Giả thuyết kia hoàn toàn dựa trên cảm tính. Nhưng dù có tồn tại cái trường vô hình đó hay không, tôi đã chứng minh rằng vật thể do đích thân tôi chạm tay đều hoạt động ổn thỏa và chỉ trở lại trạng thái bất động chừng nào rời xa tôi. Tôi dễ dàng sử dụng các thiết bị phức tạp như điện thoại và máy tính bảng, song nếu bỏ tay ra, chúng sẽ bị vô hiệu hóa giống cái lon nhôm khi nãy. Miễn là các vật đó tôi có thể cầm nắm thì khả năng cao chúng sẽ vận hành được.
Còn hàng tá thứ tôi chưa nắm rõ lắm. Nhưng nếu chịu khó bỏ công sức ra tìm hiểu, nhiều điều sẽ dần hé lộ hơn. Hiện tại, tôi chỉ cần tiếp tục đi theo hướng mình đang đi. Cơ mà trước khi định làm gì khác, tôi cần tìm một cái đồng hồ mới đã—
Rítttt.
Tôi ngay lập tức quay người lại.
Âm thanh vừa rồi là gì thế?
Nghe giống tiếng đế giày cọ vào mặt đường. Tôi đưa mắt dò la chung quanh. Trên vỉa hè có vài người nhưng họ đều bất động cả.
“A-ai đó?” Tôi lớn tiếng hỏi, song không có phản hồi.
Vừa rồi không phải ảo thanh. Trong thế giới nơi gió đã ngừng thổi, bất kỳ âm thanh nào khác lạ đều giống như nốt nhạc sai cao độ trong bản giao hưởng. Biết đâu là cô nàng tôi gặp trước nhà ga chăng? Vì nghĩ hẳn cô ấy đang lang thang quanh đây, tôi thử cất tiếng gọi “Iguma-san?” nhưng vẫn không ai trả lời. Giọng tôi vang vọng giữa phố phường lặng im rồi phai dần.
Một cơn ớn lạnh dọc xuống sống lưng tôi. Mỗi việc tồn tại giữa một thế giới vô thường thôi, tôi đã thấy lạnh run người rồi. Không phải do thời tiết mà là sợ thì đúng hơn. Tình huống này thật ngặt nghèo. Tới cả vũ trụ cũng bị khống chế, mọi khả năng điều có thể xảy ra và không ai khả dĩ lường trước. Có lẽ tôi đang bị săn đuổi bởi một sinh vật vô danh giống trong trò chơi kinh dị. Dù có là người đi nữa, tôi cũng chả có lấy một phương tiện nào nhằm tự vệ. Khỏi mơ tới trợ giúp, ngộ nhỡ bị thương chắc còn nước nằm đây chờ chết. Tôi không hề biết mình sẽ bị kẹt tại đây cho tới khi nào, chưa kể liệu mọi sự có quay về bình thường hay không nữa.
Luồng adrenalin chạy khắp cơ thể tôi khi nhận thức rõ về tình cảnh kinh hoàng hiện tại. Tôi không thể giữ bình tĩnh được nữa. Làm gì bây giờ? Tôi dần lùi ra sau, mong sao duy trì khoảng cách giữa bản thân với nguồn âm thanh quái lạ đó sẽ giúp tôi bớt căng thẳng, đồng thời suy tính cách thoát khỏi mớ bòng bong này. Đi tới gần cuối con đường, tôi phát hiện một bóng hình quen thuộc.
Bốn cậu con trai đang đứng vai kề vai bên vệ đường, đó là Nagai và mấy cậu bạn cùng nhóm tôi. Bước chân vô thức dẫn tôi đi mãi, rốt cuộc cũng quay trở về nơi mọi thứ bắt đầu. Mới vài tiếng đồng hồ ngắn ngủi trôi qua, nhưng sau khi chinh qua vô số điều kỳ quái rồi gặp lại những người bạn cùng lớp, tôi bỗng thấy hoài niệm về cái chuyến tham quan chết giẫm đó. Tôi vòng ra trước mặt Nagai để đối diện cậu ấy thêm lần nữa. Thực ra còn một thí nghiệm nữa tôi muốn thực hiện mà cứ dây dưa mãi.
Nếu tôi chạm vào người khác thì sao?
Tôi nặng nề đánh ực. Chạm vào người khác… nghĩ đến thôi mà da tôi tưởng chừng muốn nổi mề đay. Tôi không muốn làm chuyện đấy chút nào trừ khi đó là phương án cuối cùng. Tôi cân nhắc về điều đó ngay lúc này bởi vì cái giả thuyết “hào quang” vừa được đưa ra ban nãy. Nếu thực sự ảnh hưởng của nó lên Nagai giống với chú nhện, đây sẽ là bước ngoặt lớn. Nhưng suy cho cùng linh cảm vẫn chỉ là linh cảm mà thôi.
Tôi hít một hơi thật sâu, giãn gân cốt chút rồi bước tới.
“...Được rồi.”
Tôi hạ quyết tâm, chầm chậm đưa tay ra chuẩn bị chạm vào Nagai…
Ây khoan. Nhưng tôi nên chạm chỗ nào mới được? Chạm vào vai có lẽ an toàn hơn, nhưng trực giác mách bảo tôi nên chạm vào da thay vì quần áo nếu thực sự muốn thử nghiệm. Khó cho tôi quá, cơ mà thuốc đắng dã tật. Mặc dù không có gì đảm bảo chạm áo hay chạm vào da đều sẽ hiệu quả, tôi đành lựa chọn theo trực giác của mình.
Tôi quyết định chạm vào da cậu ấy. Lòng đầy do dự, nhưng nếu chạm vào áo mà không có phản ứng nào thì cũng vậy cả. Chỉ có hai nơi trên người cậu ấy để lộ làn da: là mặt và tay. Hiển nhiên tôi chọn cái sau.
Tôi cúi xuống và đưa ngón tay lại gần. Trống ngực đập liên hồi, tôi cố trấn tĩnh bản thân rằng thế này chả là bao so với được bác sĩ khám tổng quát. Song mồ hôi cứ không ngừng túa ra từ hai bên hông.
“À quên…”
Nhỡ tôi chạm Nagai xong bất thình lình cậu ấy chuyển động trở lại thì sao? Cậu ấy sẽ va vào tôi mất, may mà tôi kịp nhận ra. Tôi đứng lên, đi ra phía sau Nagai.
“Được rồi… làm thôi…”
Tôi run rẩy chạm đầu ngón tay vào Nagai rồi nhanh chóng rụt tay lại, nhảy bật về sau. Nhưng đợi mấy giây đều không thấy phản ứng gì. Cậu ấy vẫn bất di bất dịch.
Cơn kiệt sức đột ngột ập đến khiến tôi ngồi thỏm xuống đất. Tôi nắm chặt lấy những ngón tay vừa chạm lấy Nagai, siết thật chặt cho cảm giác kia tan biến. Rốt cuộc chạm vào người khác chẳng có nghĩa lý gì. Điều duy nhất đạt được chính là sự tỉnh táo của tôi đang mai một. Tôi đang mong đợi điều gì vậy nhỉ? Một cái chạm sẽ phủ định hiện trạng siêu nhiên này ư? Nực cười thật.
Nghĩ lại thì, tôi đã chắc mẩm mục đích cuộc thí nghiệm này. Xuất phát từ một tia hy vọng nhỏ nhoi thôi, muốn tìm cách phá bỏ phong ấn. Nagai trước mặt tôi đứng yên bất động, cậu ấy chưa chết cũng không hề sống theo nghĩa đen. Nagai không thở, và tim cậu ấy không đập. Đơn giản là tôi muốn thông qua cái chạm ấy giúp Nagai trở nên giống tôi. Song thật phí công, giây phút đầu ngón tay tôi tiếp xúc với làn da cậu ấy, tưởng chừng mọi tế bào trong cơ thể tôi đều phản đối dữ dội.
Tôi chống tay đứng dậy, phủi bụi sau đũng quần, và ngước mặt nhìn lên trời cao. Tôi sẽ mãi như vầy sao? Cảm giác này không phải lo sợ hay buồn bã, mà là một nỗi bồn chồn mơ hồ, âm ỉ về phần đời còn lại và những cuộc tranh đấu tôi sẽ đối mặt… Nhưng cứ nghĩ mãi cũng không được ích lợi gì, tôi cần bình tĩnh lại và tập trung vào tình trạng trước mắt.
“Ê,” bỗng một giọng nói vang lên.
“Aaaaa?!”
Suýt chút tim tôi đã rớt ra khỏi lồng ngực. Tôi quay mặt thì thấy một cô gái tóc vàng, hai tay bỏ trong túi chiếc áo khoác bóng chày. Cô nàng nhìn tôi bằng ánh mắt đầy dị nghị, mặt mũi cau có. Người ấy không ai khác ngoài Akira.
“Qu-quái gì vậy, Iguma-san…? Đừng dọa mình thế chứ…” tôi thở hổn hển. Làm sao cô ấy có thể đến gần mà không để lộ tiếng bước chân chứ.
“Tại sao không? Bộ đang làm điều mờ ám à?” Cô nàng khoanh tay, nói với giọng điệu cáu kỉnh.
“Đ-đâu có. Tớ không thích bị hù thôi… Cơ mà cậu làm gì ở đây vậy?”
“Theo dõi thôi.”
Câu nói của cô nàng khiến tôi không khỏi nghi ngại. Cô ấy bảo muốn đi tìm người nào khác không bất động mà nhỉ?
“Sao phải theo dõi chứ?”
“Để đảm bảo cậu không làm chuyện mờ ám.”
“Việc đáng ngờ là sao?”
“Là… là… ựa! N-ngu thế, còn phải hỏi nữa à?”
Không hiểu sao cô nàng lại quát tôi. “Mờ ám”... chả lẽ cô ấy lo rằng tôi sẽ nhân cơ hội mà làm tình làm tội khắp nơi chăng? Xem ra Iguma thượng tôn pháp luật hơn tôi tưởng.
“Chậc. Sao chả được. Đây chẳng thèm bận tâm đâu.” Akira quay lưng với tôi.
“Vậy nhỉ…?”
Hàm ý trong lời cô nàng thay đổi xoành xoạch, tôi không biết liệu mình đã được tín nhiệm hay chưa. Cô ấy đã theo dõi tôi bao lâu rồi nhỉ? Chắc từ lúc tôi nghe thấy tiếng chân cô ấy…
“Cậu là người gây ra cái âm thanh kia hả?”
“Âm thanh nào?”
“Lúc tớ thử gọi tên cậu ấy…?”
“Ừ đúng rồi đấy.” Cô nàng thừa nhận. Tôi đành nhún vai…
“Cũng phải lên tiếng đi chứ…”
“Chả thích.”
“Thôi nào…”
Cô ta bị sao mà ngoan cố thế không biết? Đã mấy tiếng kể từ khi chúng tôi gặp nhau trước ga Hakodate. Tôi có nên tin rằng cô nàng đã bám đuôi suốt từ lúc đó không? Coi bộ cô ấy còn cô đơn hơn tôi nghĩ. Hoặc chỉ đang chán mà thôi. Có khi cả hai.
“À, cậu biết mấy giờ rồi không?” Tôi hỏi.
“Hừm, đợi chút.” Cô ấy vén tay áo lên để lộ chiếc đồng hồ đeo trên chiếc cổ tay mảnh khảnh ấy. “Sáu rưỡi rồi. Sao đó?”
“Muộn vậy rồi ư…?” Tôi tưởng mới năm giờ kém. Không ổn, tôi đang dần suy giảm nhận thức về thời gian.
“Nhóc lạ thật? Thời gian đã ngừng trôi rồi thì ai hơi đâu đi quan tâm giờ giấc nữa.”
“Cậu nói phải… Tớ căng thẳng khi không biết mấy giờ thôi.”
“Bình tĩnh đi. Không chết đâu mà sợ.”
Cô nàng hiểu tôi quá.
“Nhân tiện, thử nghiệm nãy giờ có rút ra được gì không?” Iguma hỏi tôi.
“Ừ thì, cũng nắm được sơ sơ cách thức vận hành ở đây rồi…”
“Nghe tự tin phết.” Cô nàng giễu, rồi đưa mắt ngó nghiêng khắp chốn một lượt. “Mà đây thấm mệt rồi. Kiếm chỗ nào ngồi đã.”
“Ô, ừ...”
Đoạn, Akira đánh gót rời đi, tôi thoáng tưởng lại đường ai nấy đi—nhưng đột nhiên cô nàng quay lại kêu tôi.
“Đứng đó làm gì? Nhanh chân lên.”
“A, xin lỗi!”
Coi bộ chúng tôi sẽ hợp tác cùng nhau. Tôi nhanh chóng theo chân cô nàng qua phố phường Hakodate đầy tĩnh mịch. Mới nãy cô nàng bảo không muốn dính líu đến tôi, không biết vừa ăn trúng cái gì mà lật mặt nhanh vậy. Chắc cô nàng đã nhận ra tầm quan trọng của việc trao đổi thông tin, bởi lẽ còn mỗi hai người tồn tại, và cô ấy đành hạ cái tôi xuống để hợp tác.
Akira dừng chân trước một nhà hàng ven đường và mở cửa bước vào. Tôi suýt đã nhanh chân vào theo—nhưng đứng khựng bên ngoài một hồi để chiêm ngưỡng mặt tiền vàng rực, trên đó có hình ảnh của chú hề hoạt hình khổng lồ. Chỗ này là Lucky Pierrot, một chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh tại địa phương, trước đây tôi đã từng thấy trên TV. Nếu nhớ không nhầm, quy mô của McDonald’s ở đây còn thua xa.
Bày trí nội thất cầu kỳ không khác bên ngoài. Không gian nhìn chung na ná các quán ăn hay cửa hàng đồ ăn nhanh bình thường, song toàn bộ nhà hàng đều được trang trí bằng đủ loại áp phích lẫn đồ lưu niệm sến súa. Và nơi đây chật kín thực khách.
Akira chen qua hàng thực khách vô hồn đang chờ đợi, tiến đến một cái bàn còn trống. Tôi theo sau cô nàng, nhưng tôi chỉ dám từ tốn lách qua họ. Vượt qua hết, tôi liền thở phào nhẹ nhõm. Di chuyển trong các nhà hàng đông đúc luôn là cơn ác mộng đối với tôi, may thay khi họ giờ đã đứng yên như trời trồng.
“Ơ khoan?”
Tôi để ý một phần khoai tây chiên phủ lớp sốt phô mai đặc quánh đặt trên bàn, bên cạnh có mấy chiếc cốc giấy lớn không có nắp đậy, coi bộ là sữa lắc. Hình như chỗ ngồi này đã có người, ắt họ đã tạm rời bàn đi lấy giấy ăn. Akira đưa tay, nhón lấy một cọng khoai tây chiên từ cái giỏ đó và bỏ thẳng vào miệng. Nhai chóp chép xong, cô ấy cong môi ngậm lấy ống hút ly sữa lắc và hút một hơi thật dài. Đã cái nư, cô nàng đặt cái ly xuống rồi đánh khà một tiếng đầy mãn nguyện.
“Khàaaaaa… ngon ghê.”
“Đồ ăn của ai vậy?”
“Chịu. Giờ là của tôi.”
“Cậu lấy nó ở đâu thế?”
“Cái người đằng kia kìa.”
Akira hất cằm sang bên, ra hiệu cho tôi nhìn về phía một cô nhân viên trung niên của nhà hàng đang đẩy một xe đồ ăn từ sau bếp. Nhưng giờ trên cái xe còn mỗi cái bánh hamburger. Đừng bảo là…
“C-cậu lấy đồ ăn của người ta à?” Tôi chất vấn.
“Này này. Đừng nói thế chứ, đây chỉ ăn ké thôi.”
“Như thế vẫn là trộm cắp…”
Có lẽ cô nàng lấy nó nhân lúc tôi đang chật vật chen chúc qua đám đông. Cứ ngỡ cô ấy thượng tôn pháp luật lắm, xem ra tôi cần suy xét lại.
“Vậy theo cậu, tôi nên làm gì?” Akira hỏi, ngả người xuống lưng ghế. “Giờ đâu thể bán buôn được gì, còn cách đi thó đồ ăn thôi.”
“Lấy xong vẫn để lại tiền được mà…”
“Hết tiền thì cậu tính sao? Bắt bồ câu rồi ăn sống à?”
“Ý là, không hẳn, nhưng ít ra…”
Công bằng mà nói, cô ấy có lý. Chúng tôi không biết tình trạng thời gian đóng băng sẽ kéo dài tới khi nào, cứ trả tiền đàng hoàng thế này thì sớm muộn tôi sẽ cháy ví thôi. Nhưng mặc cảm tội lỗi ngăn cản tôi làm điều trái đạo đức. Với cả, ăn bồ câu chắc cũng không được coi là hợp pháp.
Tôi ngồi đó mà suy ngẫm về phạm trù đạo đức của việc thó đồ ăn trong hoàn cảnh hiện tại, dạ dày tôi bất chợt cồn cào. Mới nhớ ra tôi chưa ăn gì kể từ sáng cả, cốc mì ban trưa ở cửa hàng tiện lợi tôi cũng đành vứt. Thấy tôi thở dài, Akira quắc mắt nhìn tôi.
“Muốn nói gì à?”
“Không hẳn… bụng tớ hơn cồn cào thôi…”
“Hở. Đừng nói ngày hôm nay cậu vẫn chưa ăn gì nhé?”
“Chưa.”
“Thiệt à…?”
Mắt Akira như lóe lên tia sáng.
“Không sao, đây đây. Cứ tự nhiên đi.” Nói đoạn, cô nàng đẩy giỏ khoai tây chiên sang cho tôi.
“Hả? Nó còn không phải thức ăn của cậu…”
“Khỏi lo. Đớp lẹ lên.”
Nhỏ nghĩ gì mà tỏ ra hào phóng với thứ không phải của mình nhỉ?
Biết trộm cắp là xấu thành thử tôi e dè mãi trước lời mời gọi đầy hấp dẫn của Akira. Người ngồi đối diện tôi có nhẽ là một trong hai người duy nhất còn lại trên Trái Đất, tôi không muốn tạo niềm bất hòa với cô nàng. Tôi chẳng thể thuyết phục cô ấy bỏ lại giỏ khoai tây chiên, đành thuận theo chiều gió.
“Cậu đã mời thì…” tôi nhón lấy một cọng khoai tây chiên. Nó vẫn còn nóng hổi như vừa mới ra lò. Thời gian đóng băng cũng có cái lợi, đồ ăn đã được nấu chín sẽ không bao giờ ôi thiu hay hỏng.
Tôi bỏ cọng khoai tây vào miệng nhận ra có một lớp sốt Bolognese bên dưới lớp phô mai nóng chảy. Ngon hơn tôi kỳ vọng, hay do đói ăn cơm muối cũng ngon? Akira chăm chú trông tôi ăn cọng khoai tây ngon lành.
“Giờ chúng ta là tòng phạm rồi nhé. Cậu sẽ phải nghe lời tôi.” Cô nàng nở nụ cười nham hiểm, để lộ cái răng khểnh nhỏ.
Tôi không khỏi nghĩ, cô nàng trông ngây thơ hệt trẻ con, trái ngược hoàn toàn với bề ngoài cá biệt. Cô ấy không khác những nữ sinh cấp ba bình thường là bao. Ấy mà khoan…
“T-tòng phạm á? Thế là sao cơ?”
“Vì biết là trộm cắp nhưng cậu vẫn ăn còn gì. Não bị chậm tiêu à?”
“Ngay từ đầu mớ khoai tây chiên này vốn không phải của cậu… Tớ mới ăn có một miếng. Tớ trả tiền cho miếng đó là được chứ gì?”
“Sao cũng được. Vậy cậu chỉ cần nghe lời tôi cho tới lúc đó thôi.”
Không rõ cô nàng tính sai khiến tôi thế nào với một miếng khoai tây chiên kèm topping các thứ. Hơn nữa, cô ấy coi bộ đã thoải mái hơn khi trước, thành thử tôi không dám tạt gáo nước lạnh. Cho nên tôi miễn cưỡng thuận theo ý cô nàng, tự ký vào bản hợp đồng nô lệ ngắn hạn.
“Thôi được…”
“Rất vui được hợp tác với cậu. Đừng làm đối tác thất vọng nhé.”
Cô nàng kéo giỏ khoai tây chiên về và tiếp tục hốc. Thế thôi á? Không biết nếu ăn hai miếng thì sẽ ra sao?
“Quay về vấn đề cũ… Cậu đã hiểu nguyên lý ở đây chưa?”
“À… mới đại khái thôi…”
Giao ước không công bằng cho lắm—dẫu vậy tôi nên tập trung vào đại cục hơn. Tôi bắt đầu kể cho cô nàng mọi thứ mà mình đã khám phá ra về hiện tượng siêu nhiên này một cách rõ ràng và súc tích nhất có thể.
“‘Hào quang’ à? Ban đầu tôi đã ngờ ngợ, không ngờ cậu cũng có chung nghi vấn. Nhưng có gì thú vị hơn không?” Cô nàng vừa hỏi vừa mút ngón tay.
“Ờm… Tớ đã kể về vật thể sẽ dừng lại trên không trung nếu ném đi chưa?”
“Toàn ba cái nhàm chán. Ý là có thứ nào lớn lao chút không, như có thể nổ máy xe hoặc kết nối được vào mạng ấy. Hay ‘trick’ gì đấy.”
“Hừm, tiếc là tớ chưa khám phá ra được… nhưng dùng xe với vào mạng coi bộ bất khả thi rồi. Chúng ta cũng đâu biết lái xe.”
“Ăn hại.”
Akira lại dựa lưng vào ghế và ồn ã hút cạn ly sữa lắc.
“Thế… còn cậu thì sao, Iguma-san? Cậu đã kiếm được ai khác giống chúng ta chưa?”
“Chưa. Ai nấy đều đơ ra như khúc gỗ. Lên tầng cao tìm cũng vô ích. Trừ cậu.”
“Hiểu rồi…”
Tôi tính trêu cô nàng tí vì cô ấy chẳng khám phá được nhiều so với tôi là bao, nhưng đây nhát lắm.
“Xem ra hai ta đều không biết cơ nguyên gây ra cái mớ lộn xộn này.”
“Cái đó thì…”
“Sao sao sao?”
Akira ngồi dậy và chồm tới gần tôi, ánh mắt lấp lánh. Cô ấy không phải kiểu người giỏi biểu đạt cảm xúc. Thoáng chừng tôi tính kể cho cô nàng về chú Kurehiko, song bất giác nỗi lo lắng dấy lên khiến tôi nhụt chí.
“...Ơ, xin lỗi. Không gì đâu.”
“Bớt bịp nhé. Cậu vừa định nói gì hả?”
“Mấy thứ vu vơ thôi. Tớ nghĩ nó vừa liên quan vừa không… Vả lại tớ không muốn nêu ra ba cái thuyết âm mưu vớ vẩn đâu. Cậu không cần biết thì hơn.”
“Nói nhanh!”
“Dạ.”
Tôi kể cho cô ấy về chú Kurehiko. Về cuộc gọi kỳ lạ với tôi trước khi mất, cả mấy cụm từ bí ẩn lúc đó nữa. Rằng chú ấy sống tại Tokyo nên biết đâu chúng tôi có thể tìm ra được điều gì mới thông qua di vật của chú. Nghe xong, Akira tức thì nhíu mày nom hết sức đáng sợ.
“Chú cậu gây ra mà tôi cũng bị cuốn vào sao?”
“Tớ không biết. Chú ấy không hề nói thế, chỉ bảo là đã khám phá ra thôi.”
“Hừm. Manh mối đầy hứa hẹn đó.”
Tôi tính phản bác nhưng rồi lại thôi.
Sự nghi ngờ của cô nàng là có cơ sở. Khó mà tin rằng một cá nhân có thể gây ra hiện tượng này, song không phủ nhận việc tôi bị cuốn vào chứng tỏ chú Kurehiko có liên quan. Dẫu vậy, lời dặn dò của chú Kurehiko đong đầy cơ số bí ẩn rối tựa tơ vò cùng câu hỏi chưa có lời giải đáp, liệu manh mối ấy có dẫn lối chúng tôi tới đích đến cuối cùng không. Tôi không muốn gieo hy vọng cho Akira rồi dập tắt. Đó là lý do tôi muốn giữ giả thuyết ấy trong lòng.
“Tokyo… Cái thành phố to to đó…” Akira lẩm bẩm, mắt nhìn nơi xa xăm. Chưa kịp đổi chủ đề, cô nàng đã reo lên. “Quyết định thế đi! Tôi và cậu sẽ đi Tokyo.”
“Hả? R-rồi cậu tính đi bằng cách nào?”
“Đi bộ chứ gì? Đâu thể đi xe hay tàu.”
“Xa lắm đấy… nhưng đạp xe chắc được, chắc hai ba ngày mới đến nơi.”
“Xe đạp á? Cậu đã thử chưa thế?”
“Ý cậu là…”
“Rất không may cho cậu, xe đạp vô dụng nốt. Cưỡi được thôi nhưng bàn đạp nặng cực kỳ, còn tốn sức hơn cả đi bộ.”
“Khoan, thật à?!”
Nói thế thì chịu… Dường như hào quang của chúng tôi không ảnh hưởng toàn bộ lên cơ cấu chuyển động của xe đạp. Lợi của xe đạp nằm ở quán tính, nếu không có thì chả khác đeo tạ vào chân mà đi.
“Tệ thật, mà cho dù có tới được Tokyo, không gì đảm bảo chúng ta sẽ tìm ra lời giải.”
“Bộ cậu nghĩ sẽ tìm ra lời giải ở Hakodate chắc. Với cả, nhỡ đâu thời gian chỉ dừng lại trong phạm vi Hokkaido thì sao?”
“Cứ việc ngồi yên đây thôi, sớm muộn trợ giúp cũng xuất hiện.”
“Đi trên đường kiếm người giống chúng ta còn nhanh hơn đấy.”
“Cậu nói chí lý, nhưng—”
“Bớt cư xử như thỏ đế hộ! Cậu có thích hay không tôi vẫn sẽ đi Tokyo, đừng mơ cản được!”
Cô nàng quả thực ương bướng. Không hiểu sao cô ấy trông chờ hoàn toàn vào khả năng ít ỏi đó. Đi bộ từ Hokkaido tới Tokyo bao lâu nhỉ? Một tháng không? Vượt biển sang Honshu bằng cách nào đây?
Nhớ rồi. Có thể đi qua đường hầm Seikan, trên đường đi có thể tìm thấy thức ăn nước uống, không màng tới tiền bạc. Nghe khả thi thật, chúng tôi không bị thời gian hay kinh phí ràng buộc, miễn là đủ kiên trì. Dù sao thì tôi không có tư cách để ngăn cấm cô ấy.
“...Ừm. Bảo trọng nhé.”
“Mơ đi. Cậu sẽ đi cùng tôi.”
“Hả? Vì lý do gì chứ?”
“Sao? Không muốn à?”
“Ý là… cậu đi một mình được mà?”
“Nhà chú cậu thì tôi biết thế đếch nào được? Nhắc cho mà nhớ, cậu còn nợ tôi cọng khoai tây chiên đấy.”
“Một cọng khoai tây không đủ để cậu biến tớ thành hướng dẫn viên du lịch đâu, chưa nói tới việc lôi tớ đi khắp nơi…”
Tôi sắp phát điên mất, nhưng gan đâu chọc giận cô nàng. Ngạc nhiên thay, cô ấy không hề bực bội, nom lúng túng trước sự ngoan cố của tôi.
“Cậu tính ngồi lì ở Hokkaido tới hết đời hả? Chả giải quyết được gì sất.”
“Ý tớ là…”
Tôi nhận thấy con tim đang dao động.
Giả sử tình hình không có chuyển biến nào đáng kể trong thời gian tới, rốt cuộc tôi vẫn phải mò về Tokyo. Nhà tôi ở đó, tôi tới Hakodate để tham quan mà thôi, không còn mục tiêu nào khác. Vì thể nào cũng đi nên đi cùng Akira là lựa chọn sáng suốt nhất. Điều đó đồng nghĩa rằng tôi sẽ ở cạnh bên cô nàng suốt quãng thời gian tới, đâm nảy sinh nhiều quan ngại. Tôi có thể chịu đựng tính khí nóng nảy của cô ấy bao lâu đây?
Tôi lén lút đưa mắt quan sát biểu cảm cô nàng, coi bộ đang sốt ruột đợi câu trả lời từ tôi. Vẻ cầu xin hằn bóng trong mắt cô ấy, dường như cô nàng đã không còn lựa chọn nào ngoài trông chờ vào tôi. Điều này khiến tôi không khỏi bất an; nghĩ đến việc từ chối cô nàng làm tôi có chút chạnh lòng.
Tôi đành cam chịu số phận.
“...Thôi được. Tớ sẽ đi Tokyo với cậu.”
Từ “Tokyo” vừa dứt khỏi đầu môi, nét mặt Akira rạng rỡ hẳn. “Đấy! Đi chung không hay hơn sao. Làm đây cứ nơm nớp.”
“X-xin lỗi, tớ không có ý đó.”
“Phù, tôi cần về nhà chuẩn bị đã. Cậu cũng thế. Sáng mai chúng ta xuất phát.” Tâm trạng nhỏ quay ngoắt 180 độ; tôi thầm thấy cô nàng giống trẻ con đang háo hức trước đi chuyến đi chơi xa.
“Nhất trí. Ơ mà ngày mai luôn à? K-không phải hơi sớm sao?”
“Trâu chậm uống nước đục.”
Akira hốc hết chỗ khoai tây chiên còn lại và đem cái giỏ sang khu vực trả bát đĩa.
“Đúng chín giờ gặp nhau trước ga Hakodate, đừng có trễ đấy.” Cô nàng vứt rác rồi rời khỏi nhà hàng.
Mọi việc tiến triển hơi bị nhanh quá. Tôi vẫn chưa thấm nổi ý tưởng mai đi bộ về Tokyo cùng nhau, song giờ quay đầu thì đã không còn kịp nữa. Cơ mà ngày mai à?
“Chờ đã!” Tôi gọi Akira, nhanh chóng chen qua hàng thực khách để ra khỏi nhà hàng. Cô nàng đứng ngay trước cửa mà nhìn tôi.
“Hỏi chấm?”
“Tớ không coi được giờ giấc, nên là…”
“Sao cơ?”
Tôi không trách cô ấy vì phản ứng này vì vốn dĩ câu nói của tôi đôi phần ngớ ngẩn. Nhưng xét theo tình cảnh hiện tại, làm sao phân biệt được “hôm nay” và “ngày mai” bởi thời gian đã ngừng trôi? Ban đầu Akira nhìn tôi ngây ngốc, song cũng dần hiểu ra và vò đầu khó xử.
“Có điện thoại không?”
“Có mà hết pin rồi.”
“Đồng hồ thì sao?”
“Không nốt…”
“Chậc.”
Bớt tặc lưỡi đi mà. Cô nàng xem tôi như cái công việc nhà tốn sức nhất vậy.
Akira trợn mắt, đoạn cởi chiếc đồng hồ đeo tay và quăng cho tôi. Tôi hoảng hốt đưa tay ra hứng, song nó dừng lại giữa khoảng không. Tôi đành bước tới bắt lấy như ăn xin nhận bố thí, dặn lòng chuyện chẳng đáng là bao.
“Cho mượn thì nhớ giữ cẩn thận đấy.”
“C-cám ơn. Nhưng cậu tính xem giờ kiểu gì?”
“Điện thoại tôi còn chút pin. Giờ phải xài thôi. Cậu nợ tôi thêm lần nữa nhé.”
“Vâng ạ. Chân thành cảm ơn chị.”
“Nhớ mai đúng chín giờ sáng nhé. Tới trễ coi chừng!”
Dọa tôi xong, Akira chạy lon ton trên phố. Tôi nhìn chiếc đồng hồ mà cô nàng vừa cho mượn, thiết kế khá nữ tính, dây đeo màu hồng đồ… trông dễ thương phết. Kim giờ đã qua vạch số tám, bình thường mặt trời đã khuất dạng, nhưng bầu trời trên cao vẫn sáng trưng. Khung cảnh dễ đánh lừa thật, kể cả có đồng hồ bên cạnh đi chăng nữa. Không chuẩn bị gì thì ngày mai sẽ tới liền thôi.
Song trước hết…
“Đói quá, kiếm thứ bỏ bụng đã…”
Đến thời điểm hiện tại, tôi đã đói lả. Tôi hướng đến trung tâm mua sắm và chú ý không lặp lại sai lầm ban trưa, tôi sẽ mua đồ ăn làm sẵn luôn cho rồi.
Ăn uống no nê xong, tôi trở về khách sạn và qua đêm tại đó. Tôi còn chưa làm thủ tục nhận phòng nữa, do đó tôi đành tìm tạm ghế dài hay bất kỳ chỗ ngả lưng nào khác. Hình như bên trường đã thanh toán chi phí đặt phòng rồi nên không nhất thiết phải đấu tranh tư tưởng.
Tôi lấy hết hành lý và đi lên cầu thang thoát hiểm. Trên tầng hai, các nhân viên tạp vụ đang dọn dẹp, thành ra hầu hết phòng ốc trên này đều mở cửa sẵn. Tôi ló đầu vào nhìn qua, tìm thấy một căn phòng vừa mới được dọn xong, và thế là quyết định an cư tại đó.
Tiếp đến, chuẩn bị hành trang cho chuyến đi… Thực ra không cần gì nhiều bởi lẽ tôi tới đây là đang du lịch mà. Tôi không biết mình cần trang bị những gì vì trong chúng đều có cả đây. Điện thoại không xài được, chắc vô hiệu sách tìm một tấm bản đồ vậy.
Tôi ngồi xuống giường và thở dài.
“Muốn được tắm quá.”
Người tôi nhễ nhại mồ hôi, chân tay mỏi nhừ. Không biết kiếm đâu ra nước chảy mà tắm đây. Coi bộ đành chịu thôi.
Từ từ. Tôi đứng dậy xem tờ hướng dẫn dành cho khách đặt trên bàn. Lật sang trang chỉ dẫn khu vực trong khách sạn, tôi phát hiện trên tầng cao nhất có phòng tắm chung.
Không tắm vòi hoa sen được thì tắm bồn vậy…
Tôi thay đồ, mang theo ít vật dụng vệ sinh cá nhân cùng khăn tắm rồi đi bộ lên tầng trên cùng. Đi qua cái rèm cửa đề chữ NAM, tôi cởi tất ra ở phòng thay đồ và di chuyển qua khu vực tắm rửa. Tại đó có một cái bồn to chứa đầy nước ấm. Suýt chút nữa tôi đã nhảy cẫng lên vì vui mừng. Tôi nhanh nhảu tiến đến và nhúng tay vào kiểm tra nhiệt độ.
“Ựa… hơi nóng quá…”
Có lẽ chỗ này vốn không mở cửa vào 11 giờ sáng; tôi nên xem trên tờ hướng dẫn luôn mới phải. Tuy vậy, nước cũng không lạnh và hơn cả, không biết trên đường tới Tokyo tôi có được tắm thêm lần nào không, thành thử không thể bỏ qua cơ hội hiếm có.
Tôi trở về phòng thay đồ, cởi nốt áo quần, mang theo dầu gội và sữa tắm từ tủ đựng đồ vệ sinh cá nhân ngay cạnh cái bồn. Tôi lấy cái gáo múc một ít nước và xối thẳng lên đầu.
“Haaaa… sướng quá.”
May thay trọng lực có tác dụng quanh cơ thể tôi nhờ vào cái hào quang, nên dòng nước chảy xuống người tôi mà không gặp trở ngại nào—nhưng nó không thể chảy xuống rãnh thoát nước và dần ứ đọng dưới chân tôi. Thật khó chịu khi ngâm chân trong tù nước bẩn. Tôi kỳ cọ thân thể và gội đầu thật kỹ càng rồi thả mình vào bồn tắm.
“Phù… Lạ lẫm thật…”
Hơi khó để diễn tả, nước như sánh lại. Khi vùng vẫy chân, tôi cảm nhận được nhiều lực cản hơn bình thường. Dù sao cũng không khó chịu; thoải mái thì đúng hơn vì nó khiến cơ thể tôi vững vàng. Tôi thả mình tận hưởng, thơ thẩn ngước mắt nhìn trần nhà và hồi tưởng lại một ngày dài đã qua.
“Lần đầu tiên mình nói nhiều tới vậy…”
Tôi hiếm khi mở miệng trên trường, về nhà cũng thế, trừ lúc ăn cùng bố mẹ. Vì thanh quản ít hoạt động cho nên nói nhiều tí đã đau. Xem chừng tôi cần chú ý hơn để còn đối phó với tính tình nóng nảy của Akira, đồng thời giải quyết những vấn đề phát sinh trên đường đi.
“Mong mình và cô ấy có thể hòa thuận…”
Dạo gần đây tôi độc thoại nhiều hơn thường lệ, tựa hồ cách để tôi bảo toàn lý trí trước sự tĩnh lặng tuyệt đối. Cảm thấy mệt mỏi trước hàng vạn suy nghĩ đan tơ trong tâm trí, tôi chìm sâu vào bồn nước ấm. Tưởng chừng sự mệt mỏi dồn nén khiến cơ thể tôi từ từ nổi lên bề mặt.