Lại nói về trận chiến quyết định bên bờ Hoàng Hà.
Rất nhiều thánh cào phím sẽ cho là mười vạn đại quân Liêu Đông lao đến, thằng nào cũng quấn bên người phao da thú sau đo cười khà khà khà nói với Quách Quỳ.... “ Nổ Đê Đi” . Sau đó là ầm ầm. Đê nổ nước tràn bờ Bắc Hoàng Hà. Liêu Đông quân có phao bơi, Đại Tống không có phao chết, hết chuyện.
Xin lỗi nếu đánh kiểu học sinh cấp hai đầu óc mộng mơ này thì đã quá vũ nhục tri tuệ của cả Quách Quỳ và Liêu Đông Vương.
Nếu Liêu Đông Vương đột ngột dẫn toàn bộ mười vạn đại quân không đầu không đuôi lao tới, chính Quách Quỳ cũng không tin tưởng, và sẽ không phá đê mà chơi kiểu sống mái. Tuy phần thua lớn nhưng giết hai ba vạn quân Liêu Đông làm đệm lưng.
Vì cách tấn công trẻ trâu đó ngay cả một tên tân tướng cũng không làm, cho dù Liêu Đông Vương có phát điên nhưng đó là một gã điên thiên tài quân sự, không thể phạm loại hành vi ngu ngốc chiến thuật như vậy.
Thêm vào đó Quách Quỳ đã chuẩn bị phá đê, hắn không đóng bè chuẩn bị chắc?
Tất nhiên Quách Quỳ có chuẩn bị bè gỗ, tuy không quá nhiều nhưng cũng đủ dùng cho một đội lớn bịn sĩ. Hắn không dám đóng quá nhiều cũng quá lộ liễu bè gỗ sợ lộ ra mưu kế, nếu thám báo của Liêu Đông biết được thì kế hoạch coi như bỏ đi hoàn toàn.
Vì tính chất phức tạp của chiến dịch bờ Hoàng Hà, đây có thể nói là trận chiến quyết định toàn bộ Chiến Dịch Hà Bắc, kẻ nào thành công Hà Bắc thuộc về kẻ đó, cho nên cả hai bên Quách Quỳ và Ngô Khảo Tước đều phải quy củ đánh.
Phải quy củ đánh mới ẩn dấu được mục đích sau cùng của bọn họ.
Ngô Khảo Tước là điên cuồng trong quy củ, hắn không thể tỏ ra quá điên cuồng mặc kệ quân sự tính toán mà đánh, nếu như vậy quá lộ liễu, đối phương chưa chắc mắc bẫy.
Quách Quỳ lại càng phải quy củ, không những cẩn thận bố ráp trận địa y như quyết chiến thực sự mà hắn còn thực sự phải quyết chiến trước khi đi đến bước đường cuối cùng kia.
Sau ba ngày nhận được hai hộp gỗ thì quân Liêu Đông các hành vi điều động quy mô lớn đã dựng đứng lên, thám báo của Đại Tống đã cảm giác được điều này. Những hành vi điều động quân quy mô lớn ở các Thành Vệ Huy, Hoạt thành, Bộc Dương và ngay cả An Dương không thể qua mắt được thám báo Đại Tống.
Tuy kỵ binh của Liêu Đông quả thật rất mạnh nhưng cả một vùng đồng bằng rộng lớn Hà Bắc lại là bản địa của người Tống cho nên vẫn có cá lọt lưới có thể tiếp cận gần một chút trọng địa khu quân sự của người Liêu Đông.
Tất nhiên nếu Liêu Đông quân quyết tâm gắng sức phong tỏa thám báo của người Tống vẫn có thể, toàn binh của Liêu Đông toàn là kỵ binh, mỗi tên đều có thể trở thành thám báo suất sắc nếu so với người Tống.
Phía Quách Quỳ chỉ có hai vạn kỵ binh tinh nhuệ biên quân trong đó lại có tới năm ngàn Thái Nguyên kỵ binh không dám dùng. Còn lại một vạn rưỡi đay chính là tinh hoa Kỵ binh cuối cùng của người Tống. Quách Quỳ không muốn họ tẫn tuận ở bờ Hoàng Hà cho nên để một vạn kỵ binh này ở Biện Kinh phòng ngừa trường hợp xấu nhất. Còn lại chỉ có năm ngàn tinh kỵ cùng một vạn bộ binh cưỡi ngựa xấu.
Một vạn bộ binh cưỡi ngựa xấu này là bất đắc dĩ lực lượng kỵ binh mới thành lập gần đây nhằm bổ xung tổn thất kỵ binh của Đại Tống trước đó. Đám này bốn là bộ binh mới mấy tháng làm quen lưng ngựa chiến đấu. Thái Nguyên – Hà Bắc lại thất thủ cho nên chỉ có thể lấy ngựa thồ thay cho ngựa chiến. Cái nôi chiến mã của người Tống cả hai nơi đều bị bứng ổ cả rồi.
— QUẢNG CÁO —
Thực tế có thể trở thành thám báo của quân Tống lúc này chỉ có thể chọn ra trong năm ngàn tinh kỵ binh biên quân, số này so với mười vạn người ai cũng có thể làm thám báo của Liêu Đông là quá bé nhỏ.
Nhưng Liêu Đông Vương Ngô Khảo Tước là cố tình mở một chút mắc lưới để người Tống có thể từ xa nhìn thấy quân Liêu Đông đang quy mô lớn điều động binh mã.
Vào thời điểm này Ngô Khảo Ký đã đi đến Bắc Bình, đang ngoại tình , xôi thịt A Đóa thì nhận được tin tức hai hộp gỗ cùng tình huynh đệ rạn nứt, hắn chán nản bỏ về Liêu Đông Vương Thành. Cũng cùng lúc này Trát Đạt Lan bộ lạc ( gọi tắt Trát Mộc bộ) nhân được thư tiến cử của Ngô Khảo Ký mà hăm hở cử trăm chiến sĩ đi trước lao thẳng về An Dương đầu quân Ngô Khảo Tước.
Mở đầu trận đánh kinh điển bờ sông Hoàng Hà.
Hai vạn thiết kỵ Liêu Đông mở một trận tập kích lớn vào cánh tả phòng tuyến Đại Tống.
Nhắc lại, hai mươi vạn người không thể co cụm ở một chỗ vì nếu co cụm lại thì trong tác chiến thực tế chỉ có một phần mười trong số đó có thể đối diện địch nhân mà chiến đấu, còn lại chỉ là đứng xem. Đến khi vỡ trận thì chín thành còn lại mất tác dụng. Cho nên trong sử sách thường nói chung chung 20 vạn chỗ này ba mươi vạn chỗ kia nhưng thực tế bố trí quân đội luôn được trải rộng nhưng không tản để tận dụng tối đa binh lực.
Quân Đại Tống lúc này tạo thành một hàng phòng tuyến dài đến gần một trăm năm mươi dặm dọc bờ bắc Hoàng Hà kéo dài từ Vũ Trác, Nguyên Dương đến Phong Khâu cuối cùng kết thúc ở Trường Viễn phía Đông.
Trong đó Vũ Trác chính là cánh tả của quân Đại Tống , trung môn là Nguyên Dương Phong Khâu, hữu quân là Trường Viễn.
Đối ứng thì quân Liêu Đông cũng trải rộng mười vạn kỵ chia làm hữu quân Mục Dã, Trung quân Hoạt Thành, Tả quân Bộc Dương nhìn chằm chằm phòng tuyến Đại Tống.
Mở màn trận đánh là Mục Dã quân lao thẳng đến Vũ Trác tấn công… trong đêm.
Vũ Trác trong thành có một vạn tinh nhuệ bộ binh nhưng xung quanh thành bên ngoài dày đặc hầm hào, lũy đất cọc gỗ, Liên kết với vô số trại lính quân số lên đến bốn vạn bố trí quanh một vùng bán kính hai lăm km.
Loại trận hình này rất khó công.
Như đã nói thủ thành là thủ một cách cực đoan, thành cao hào sâu có lợi thủ nhưng khó phản công vì cổng thành bé và ít, muốn tụ quân phản công không thể linh hoạt và cũng dễ bị đoán trước bắt bài. Thủ thành kiểu này chỉ thực hiện khi quân đội số lượng hai bên chênh lệch quá xa.
Nhưng thủ phòng tuyến ngoài thành như lúc này nếu binh lực đủ đông thì cực khó công phá, vì với binh lực nhiều thì bất kỳ lúc nào phe thủ cũng có thể phản kích tạo thành tổn thương vô tận cho phe tấn công.
Lần này chiến tranh có hơi khác biệt truyền thống.
— QUẢNG CÁO —
Liêu Đông quân không ào ào thúc ngựa xông lên lấy thân máu thịt lấp vào hào sâu hay lũy đất. Bọn họ có pháo.
Phật Lãng Cơ Pháo của Ngô Khảo Ký chỉ có 300kg tính cả bệ, bệ còn nặng hơn nòng một chút. Ngô Khảo Tước quyết định trang pháo lên xe ngựa tăng tính cơ động. Pháo bị tháo hết bánh xe và các bộ phận di chuyển không liên quan, giá pháo giảm trọng lượng 50kg được đóng đinh sắt cố định lên thùng xe ngựa.
Với “cải tiến” này của Ngô Khảo Tước có thể nói đây là những cỗ pháp tự hành Himars đầu tiên trên thế giới.
Ưu điểm cơ động vô dùng, một ngựa cũng có thể kéo vì pháo chỉ nặng 250kg cộng thêm kíp chiến đấu hai người và năm quả đạn tử pháo sẽ không quá nặng. Để tăng tính linh hoạt Ngô Khảo Tước cho dùng song mã kéo xe, mã … Liêu Đông không thiếu.
Cơ động thì cơ động rồi nhưng nhược điểm lộ rõ. Thiếu tính chính xác do bệ chỉ là cố định trên xe ngự bốn bánh, mà xe ngựa không có hệ thống giá đỡ thủy lực chỉ có thể dùng thanh gỗ cố định sàn xe với mặt đất khi nã pháo.
Thứ hai nhược điểm đó là khó chỉnh hướng qua hai bên, cần cả xe ngựa di chuyển mới được, độ chính xác ngắm bắn giảm xuống rất nhiều, pháo chỉ có thể tự do điền chỉnh theo góc độ lên xuống gật gù.
Nhưng như vậy đã đủ. Thứ Ngô Khảo Tước cần là pháo cơ động khôi kéo chân kỵ binh, Pháo không cơ động chính là một mục tiêu vướng víu nếu quân Đại Tống ùa ra đánh, kỵ binh không thể bỏ pháo dẫn đến mất tính cơ động của Kỵ binh mà rơi vào hạ phong.
Mở đầu trận chiến là pháo tự hành của quân Liêu Đông năm mươi thanh nổ rồn rập bắn vào các cứ điểm hào sâu lũy đất của quân Đại Tống. đây là pháo Phật Lãng Cơ nòng một trăm hai mươi ly dài một mét bảy, do nòng không kín cho nên tầm bắn không quá xa, tối đa 1200m hiệu quả trong vòng 800m.
Đại Tống cũng có pháo, triều đình Đại Tống cực giàu có, bọn hắn cái gì cũng chẳng gia hồn chỉ là làm kinh tế tốt, dân đông, bóc lột dân sẽ rất giàu. Từ khi nghiên cứu được hệ thống khe thuốc nổ giảm thiểu được nổ thang súng Đại Tống đã thể hiện sức mạnh sản xuất của một siêu cường kinh tế cũng thư công nghệ của thế giới lúc này.
Tuy công nghệ của Đại Tống không thể so Bố Chính nhưng họ hơn đứt về tài nguyên, nhân lực cùng nhiều yếu tố khác, đôi khi số lượng quá nhiều, chất lượng không thể so bì.
Quá nhiều đồng, quá nhiều thợ thủ công , dẫn đến số lượng pháo đồng của người Tống không hề thua số lượng pháo của Ngô Khảo Ký.
Chỉ có điều Đại Tống thiếu thuôc nổ, thủ công sản xuất thuốc nổ mà không hiểu nguyên lý tinh lọc các thành phần sẽ rất khó khăn.
Tuy nhiên ở Trác Vũ quân Tống cũng có hơn bốn mươi khẩu pháo lòng 150 ly. Tống pháo dĩ nhiên không theo quy củ của Bố Chính pháo là 50-120-240 ly rồi. Bọn họ có công thức tính toán riêng của bản thân.
Nhưng Tống pháo lên tới một tấn ba đến một tấn bảy tỉnh cả chân đế, tầm xa tối đa cũng chỉ 700-800m do hanh chế về thuốc nổ yếu kém cho nên bọn họ bố trí chận địa pháo trong thành trì mà không bố trí ngoài phòng tuyến ngoại thành.
Cho nên phòng tuyến của quân Tống là ăn đủ đạn pháo vào đầu, tuy thương vong không nhiều nhưng hoảng loạn sợ hãi là có. Đến lúc này người Tống muốn đưa pháo từ nội thành ra ngoài đối công là không thể, pháo Tống là loại không cơ động, để đâu chết dí đấy, cần nhiều thời gian và nhân lực để bố trí trận địa pháo mới.
— QUẢNG CÁO —
Không thể để hỏa pháo Liêu Đông tiếp tục công kích một cách vô tội vạ như vậy, thủ tướng ở Trác Vũ quyết định xuất quân dã chiến cùng quân Liêu Đông trong … đêm tối.
Trong đêm bộ binh không sợ kỵ binh. Kỵ binh tốc độ cao nhưng càng dễ lạc trong đêm, trận hình kỵ binh rất khó triển khai, các phương thức tác chiến của kỵ binh như tạt cánh đánh đầu… khụ khụ nhầm, bọc cách quấy nhiễu hậu phương, bóc từng hàng bộ binh rất khó thực hiện, chỉ một chút sơ sẩy các đội kỵ binh sẽ lạc nhau, không thể phối hợp, có thể tệ hơn là sa lầy vào nhóm lớn bộ binh mà bị xẻ thịt.
Cho nên đánh đêm là tối kỵ với kỵ binh.
Vấn đề lớn nhất lúc này đó là số lượng kỵ binh tấn công không rõ, trong đêm chỉ dựa vào ánh lửa đuốc để phán đoán số lượng kỵ binh. Nhưng cách này dễ rơi vào trá.
Thủ tướng Trác Vũ là Dương An em trai của Dương Khôi đã bị bắt ở Bắc Bình, là con cháu nhà Dương gia tướng, không phải kẻ tầm thường.
“ Phải tiêu diệt đám hỏa pháo kia, hỏa pháo không thể di chuyển nhanh. Do đó Mã tướng quân ngươi là đội quân sau cùng ngay khi ánh lửa phía đông rực cháy là lúc ngươi xuất kích kỵ binh trực diện tấn công hỏa pháo của Liêu Đông tặc.”
“ Tuân Kỳ, tướng quân dẫn năm ngàn binh mã từ phía Tây tiến về cánh hữu của địch quân, mỗi người cầm ba cây đuốc, đội hình cách nhau xa… nhớ tiến chậm, lập hàng rào kỵ mã, không được ham công”
“ Bản tướng sẽ đẫn một vạn quân chủ lực không đốt đuốc bí mật tiếp cận phía tả quân địch đánh tập kích chí mạng, khi nào cảnh tả quân địch nổi lửa, Mã Chung tướng quân nhớ nắm thời cơ xông lên.”
Không hổ là con cháu danh gia tướng, mới một lát đã nghĩ ra kế phá địch, có tầng tầng lớp lớp chuẩn bị.
Năm ngàn quân cầm nhiều đuốc hành quân cách nhau để địch nhân nhầm số lượng, đây là mồi nhử.
Một vạn âm thần tập kích người không ho, không thở mạnh không đèn đước âm thầm tiếp cận quân địch, để làm được điều này đám binh sĩ này ắt hẳn là tinh binh trong tinh binh.
Chuẩn bị cuối cùng là kỵ binh hai ngàn người sẵn sàng tập kích pháo đội Liêu Đông khi quân Liêu Đông đã loạn.
Chiến thôi, người Tống chiến tướng không yếu không ngu, chẳng qua họ bị chế độ Văn ức Võ hành hạ mà thôi. Không thể khinh thường anh hào của bất kỳ dân tộc nào.