Loạn Thần Dưới Váy

Chương 39




Trong ký ức của Thẩm Nghê, nàng rất ít khi bị bệnh, cho dù là có chạy nhảy khắp nơi cũng không thấy va chạm hay bầm dập gì.


Nhưng vào một buổi sáng sớm năm nàng mười lăm tuổi, nàng đột nhiên bị mù.


Không có bất kỳ dấu hiệu báo trước nào, khi nàng tỉnh lại trước mắt nàng là một mảng hư vô, không có màu sắc cũng không có ánh sáng, nhưng lại không phải màu đen, chỉ là một khoảng trống bao la vô tận.


Nàng suy sụp hét lớn, ngã xuống dưới giường trong sự hoảng loạn, đầu đập xuống đất hôn mê bất tỉnh. Khi tỉnh lại ánh mắt vẫn chưa khôi phục, nàng khóc đến mức ruột gan đứt thành từng khúc, ông trời dường như đang gom góp hết mười lăm năm bệnh tật trả lại cho nàng.


Danh y như nước chảy mây trôi ra vào Thẩm phủ, bất kể là người từ Triệu Châu hay từ Kinh Sư, là người trong giang hồ hay là người từ trong cung, không một người nào có thể chẩn đoán được Thẩm Nghê mắc bệnh gì.


Ba tháng trôi qua, bệnh tình của Thẩm Nghê không hề có chút khởi sắc nào, trước mắt nàng vẫn là một mảng hư không.


Cũng may nàng là một người lạc quan, sau mấy ngày suy sụp, nàng đứng dậy bước ra từ trong tuyệt vọng, nghe theo lời đề nghị của các đại phu, ra ngoài phơi nắng nhiều hơn bổ sung thêm dương khí.


Vốn dĩ Thẩm Nghê đã chuẩn bị xong xuôi tâm lý sẽ bị mù cả đời này, nhưng vào đêm trước lễ đoan ngọ năm đó, một hòa thượng chống gậy trúc chân đi dép rơm gõ cửa Thẩm phủ để xin khất thực.


Khi đó phòng bếp đã nghỉ ngơi, quản gia cũng không dám thờ ơ, mời hòa thượng vào cửa rồi dẫn đến sảnh ngồi nghỉ ngơi một chút, sau đó lấy một cái bánh nướng từ trong phòng mình ra rồi lấy thêm trà nước mời hòa thượng.


Hòa thượng nhận lấy bánh nước, không ăn ngay mà ngược lại hỏi một câu không đầu không đuôi: “Có phải trong phủ các ngươi có một người mắt không nhìn thấy gì không.”


Bị mù không phải là chuyện gì đáng tự hào, người nhà Thẩm gia không công khai chuyện này khắp nơi, đại phu được mời đến khám đều nhận tiền ngậm miệng sẽ không nói về chuyện này, người ngoài không thể nào biết được Thẩm Nghê bị mù.


Quản gia biết hòa thượng không phải người bình thường, ông ấy nhanh chóng bảo gã sai vặt đi gọi lão gia và phu nhân đã đi nghỉ ngơi dậy.


Thẩm Nghê cũng bị gọi tới chính đường. Sau khi ngồi xuống nàng theo thói quan đưa cổ tay ra, hòa thượng lại nói: “Bần tăng không phải đại phu, không hiểu tứ chẩn nhìn nghe hỏi sờ. Nếu Thẩm tiểu thư tin lời bần tăng, tiểu thư không ngại đến Quy Nguyên tự nho nhỏ ở ngoại ô ở mấy ngày, nghe một chút kinh phật hóa giải tai ương.


Người của Thẩm gia tin phật, lúc ở kinh thành có thói quen thường đến chùa tĩnh dưỡng tu thiền, Thẩm Nghê ham chơi, tất nhiên cũng là một thành viên trong số người đi chùa.


Huống chi Quy Nguyên tự ở Triệu Châu tiếng tăm lẫy lừng, Thẩm Chính Vinh cũng không lo lắng hòa thượng có mưa đồ gì, nói nếu muốn đi thì mang theo một số nha hoàn và thị vệ là được.


Thẩm Chính Vinh nhìn về phía Thẩm Nghê, khóe môi im lặng ba tháng của nàng cuối cùng cũng nhếch lên, ông ấy biết không cần hỏi thêm gì nữa.


Chọn ngày không bằng gặp ngày, Thẩm Nghê bảo nha hoàn thu dọn hành trang ngay trong đêm đó, sáng sớm hôm sau theo hòa thượng lên đường đi ngoại ô.


Đến khi vào cổng núi, khi tiểu sa di đang quét sân tiến lên chắp tay hành lễ gọi trụ trì, nàng mới biết vị hòa thượng mặt mũi hiền hậu này là trụ trì của nơi này, Tuệ Giác đại sư.


Mắt Thẩm Nghê không nhìn thấy, sinh hoạt thường ngày đều do nha hoàn lo liệu, khi tiếng chuông sáng sớm vang lên nàng lần mò đến trước bảo điện Đại Hùng nghe kinh, đến tối tiếng chuông chỉ điểm là lúc nàng trở về liêu phòng nghỉ ngơi.


Cứ như vậy trôi qua bảy ngày, một hôm nàng bị ánh sáng làm cho tỉnh ngủ, lẩm bẩm than vãn: “Các ngươi vén rèm lên hết, ta làm sao ngủ được?”


Nha hoàn vội vàng buông rèm trước giường xuống, đang thả rèm xuống được một nửa thid nha hoàn hét lớn một tiếng, vọt tới bên mép giường quơ quơ tay trước mặt Thẩm Nghê: “Tiểu thư, người có thể nhìn thấy ánh sáng rồi ạ?”


Thẩm Nghê nghe vậy cũng ngẩn ra, không hề để ý hình tượng cứ thế bò xuống đất, nha hoàn nâng nàng lên đỡ nàng đi ra ngoài liêu phòng.


Bầu trời hôm đó trong xanh, khi ánh mặt trời chiếu xuống, ngoài sự ấm áp ra nàng còn cảm thấy chói mắt.


Sau khi Thẩm Chính Vinh biết chuyện, ông đã tự mình đến Quy Nguyên tự quyên góp hai trăm văn tiền nhang đèn, cũng dặn dò Thẩm Nghê mỗi ngày phải ngoan ngoãn nghe kinh niệm kinh.


Từ ngày hôm đó trở đi, mắt Thẩm Nghê càng lúc càng sáng hơn, từ lúc chỉ thấy một chút vệt sáng mờ mờ, đến khi có thể nhìn thấy rõ đường nét của mọi vật, rồi đến khi nàng có thể vững vàng tự bước đi mà không cần người khác đỡ.


Với bản tính không thể ngồi yên, nàng đã quên toàn bộ lời dặn dò của Thẩm Chính Vinh ra sau ót, ngày nào cũng chạy ra phía sau núi, rồi một ngày nọ nàng vấp phải một người tả tơi nằm trong vũng bùn trật chân té, khiến cái trán bị sưng u lên một cục lớn.


Nha hoàn sợ đó là một thi thể, ôm chặt lấy Thẩm Nghê không cho nàng tiến lên lật người đang nằm đó lên xem.


Thẩm Nghê gan lớn, không để ý mọi người ngăn cản, vươn ngón tay tới để dưới chóp mũi người đó dò xét.


“Còn thở, nhanh đưa hắn về chùa!”


Thị vệ lập tức nâng người lên, lúc này Thẩm Nghê mới nhìn thấy đối phương mà một tiểu hài tử mới lớn, gầy như que tre, trong mắt nàng không khác gì một cái bọc vải nho nhỏ màu xám.


Trở lại trong chùa, Thẩm Nghê mời vị sư huynh am hiểu về y thuật trong chùa đến chuẩn mạch, khi chắc chắn tiểu hài tử này chỉ là vì quá đói mà ngất lịm đi chứ không phải là do ôn dịch hay bị bệnh gì thì mới thở phào một hơi.


Vào ban đêm, ánh đèn chập chờn liu diu như một hạt đậu, tiểu hài tử bị cưỡng ép đút cho một bát cháo cả đêm cuối cùng cũng chầm chậm tỉnh lại.


Không có ánh sáng, thị lực của nàng lại trở về một mảng tối đen như mực, nàng nghe thấy tiếng tiểu hài tử ngồi dậy, lên tiếng nói: “Đệ còn đói không? Trên bàn còn cháo nóng đấy, đệ tự ăn đi.”


Tiểu hài tử cũng không khách khí với nàng, tự mình xuống giường đi đến trước bàn, há miệng uống cháo ừng ực ừng ực.


Thẩm Nghê bật cười thành tiếng, âm thanh ăn cháo lập tức dừng lại, cho dù không thể nhìn thấy được gì, nhưng nàng cũng có thể cảm nhận được ánh mắt sắc bén và đầy tính đề phòng như một con chim ưng dang dán lên người mình.


“Sau khi bị đói quá lâu, không nên ăn quá nhanh, ăn chậm một chút, nếu không đủ thì ta vẫn còn.”


Nhưng tiểu hài tử không nghe nàng, cầm cái bát lên đập vỡ lên trên bàn, xoay người định chạy ra ngoài.


“Chờ một chút!”


Cửa vừa mở ra, thị vệ canh giữ bên ngoài đã túm cậu lại.


Tiểu hài tử liều mạng giãy giụa, nhưng chân tay nhỏ bé căn bản là không thể giãy ra khỏi sự kiểm soát của thị vệ, chỉ có thể bị xách trở lại trong phòng.


“Đệ ấy vẫn là tiểu hài tử, các ngươi không nên thô lỗ như vậy!” Thẩm Nghê chuyển đèn qua trước mặt mình, nàng thấy trong mái tóc rối bù xù của tiểu hài tử có một chút cành khô với lá cây, còn có mùi chua chua khó ngửi, sự trìu mến đối với cậu càng sâu đậm hơn.


“Đệ bị lạc mất phụ mẫu sao?”


Tiểu hài tử vẫn muốn đi, nhưng bị thị vệ ấn chặt người xuống ghế, không thể động đậy được.


Thẩm Nghê đợi một lúc lâu không thấy cậu trá lời, nàng ngây thơ thở dài: “Là một đứa nhỏ bị câm…”


“Ngươi mới bị câm.”


Khẩu âm không phải người từ Triệu Châu non nớt mà lại quật cường, Thẩm Nghê bị mắng nhướng mày lên, đưa tay ra nhéo gương mặt của tiểu hài tử —— Không véo ra được miếng thịt nào, quá gầy.


Nàng đổi thành bóp miệng của cậu: “Ta nói nhiều với đệ như vậy, đệ thấy ta giống người câm sao?”


Tiểu hài tử nổi nóng hất tay nàng ra, giống như chú mèo con cáu gắt, chỉ có thể dùng móng vuốt hồng hồng cào nàng.


Thẩm Nghê thấy thú vị, bảo nha hoàn đi đun chút nước nóng, định tẩy rửa sạch mùi trên người tiểu hài tử, nàng đứng dậy đi đến bàn trang điểm lấy nước hoa hồng của mình.


“Tối nay Thích Không sư huynh trực đêm, đầu tóc của mấy tiểu sa di trong chùa đều là do huynh ấy cạo, sau khi tắm rửa sạch sẽ cho tiểu hài tử này thì đưa nhóc con tới đó đi.”


Bộ tóc như cỏ rơm này chắc chắn sẽ có rất nhiều rận ẩn nấp, tắm gội cũng không có tác dụng, cạo trọc đi đơn giản và dễ dàng hơn nhiều.


Tiểu hài tử vừa nghe tin mình sẽ bị cạo đầu, cậu cố gắng hết sức giãy ra khỏi khống chế của thị vệ nhảy xuống khỏi ghế chạy trốn.


Thị vệ bị đẩy ra vội vàng vươn tay ra bắt cậu trở lại, nhưng tiểu hài tử mới khôi phục lại thể lực cực kỳ linh loại, lăn qua lăn lại mấy vòng né tránh, giống như một miếng bánh xà phòng trơn trượt, làm thế nào cũng không thể bắt được.


Thẩm Nghê không nhìn thấy rõ được tình hình, sốt ruột đứng dậy đi xem.


Còn chưa đi được hai nước, “Cục xà phòng trơn trượt” kia vốn đang lao ra cửa bỗng nhiên đổi hướng, lỗ mãng đẩy ngã nàng ra đất.


——


Thẩm Chiếu Độ: Báo thù hay là báo ứng?