Liêu Trai Chí Dị II

Quyển 16 - Chương 405




Vương Tử An là danh sĩ huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông) nhưng lận đận mãi ở chốn trường ốc. Khoa ấy vào thi xong, Vương rất mong mỏi, gần đến ngày ra bảng thì uống rượu say mèm, về nằm trong phòng. Chợt có người bẩm ngựa báo tin thi đỗ tới Vương choàng dậy nói "Thưởng người báo tin mười ngàn”. Người nhà thấy say, nói dối cho qua chuyện "Xin cứ ngủ yên, đã thưởng rồi", Vương lại ngủ tiếp. Giây lát lại có người bẩm “Ông đỗ Tiến sĩ". Vương nói một mình "Còn chưa lên kinh, làm sao đã đỗ Tiến sĩ”. Người ấy nói “Ông quên rồi à? Đã qua tam trường rồi". Vương cả mừng lại vùng dậy gọi "Thưởng người báo tin mười ngàn”. Người nhà lại nói dối "Xin cứ ngủ yên! Đã thưởng rồi". Lát sau, một người bước mau vào bẩm “Ông thi điện đỗ Hàn lâm, Trưởng ban đang có mặt”. Nhìn ra quả có hai người đang lạy trước giường, áo mũ tề chỉnh. Vương gọi dọn rượu mời, người nhà lại ậm ừ, cười thầm là say tới như thế. 

Hồi lâu, Vương lại nghĩ không thể không ra ngoài cho vẻ vang với làng xóm, cất tiếng gọi Trưởng ban, nhưng gọi cả chục lần vẫn không thấy thưa. Người nhà cười nói "Xin tạm nằm thêm một lúc, ông ta vừa ra ngoàí". Hồi lâu quả nhiên Trưởng ban lại tới, Vương đập giường giậm chân mắng thằng đầy tớ chậm chạp đi đâu mất mặt, Trưởng ban nổi giận nói “Đồ học trò khố rách vô lại, nãy giờ ta đùa với ngươi, mà ngươi mắng thật à?". Vương giận lắm vùng dậy tát cho rơi cả mũ, Vương cũng ngã theo. Vợ vào đỡ dậy nói "Sao mà say tới mức này?”. Vương đáp "Thằng Trưởng ban đáng ghét, ta phải trị nó chứ say cái gì?". Vợ cười nói "Trong nhà chỉ có một mụ già ban ngày nấu cơm, ban đêm ấp chân cho ông, lấy đâu ra Trưởng ban? Chờ đến khi ông rạc xương ra ấy à?". Con cái đều phì cười, Vương cũng hơi tỉnh rượu, chợt như tỉnh mộng mới biết những việc trước đó đều là nhảm nhí. Nhưng vẫn nhớ việc Trưởng ban rơi mũ, tìm tới sau cửa thấy có một cái núm giải mũ to bằng cái chén, mọi người đều lạ lùng. Vương cười nói "Người xưa bị quỷ trêu chọc, ta nay thì bị hồ lấy làm trò cười" 

Dị Sử thị nói: Học trò vào trường thi có bảy cái giống. Lúc mới đầu, đi chân mang tráp giống ăn mày. Lúc gọi tên, quan thét lính mắng giống thằng tù. Lúc về chỗ ngồi, nhô đầu lố nhố, thò cẳng quều quào giống ong lạnh cuối thu. Lúc ra khỏi trường thi, tâm thần thảng thốt, trời đất đổi màu giống chim bệnh rời lồng. Lúc chờ ra bảng thấy cây cỏ đều sợ sệt, mơ mộng cũng chập chờn, nghĩ tới chuyện thi đỗ thì khoảnh khắc lầu gác tựa mọc lên, nghĩ tới chuyện thi rớt thì chớp mắt xương cốt như mục nát, đứng ngồi không yên giống con khỉ bị trói. Chợt tới lúc ngựa ruổi báo danh, không có tên mình thì tinh thần suy sụp chết điếng giống con nhặng say thuốc, ai chọc ghẹo cũng không biết. Đầu tiên thì lòng dạ tan nát, chửi quan trường không mắt, bút mực không thiêng, mọi đồ dùng học hành đều đem đốt, đốt không cháy thì giẫm đạp, giẫm đạp không vỡ thì ném xuống cống, rồi xõa tóc vào núi, quay mặt vào vách, nếu lại có kẻ lấy văn chương "thả phù”* khen hay dâng cho mình, nhất định sẽ vác dao rượt. Không bao lâu, ngày tháng trôi đi, lòng dạ nguôi dần, lại đâm ra ngứa nghề, thì giống chim cưu vỡ trứng, đành tha rác làm tổ, ấp ủ trứng mới vậy. Tình cảnh như thế, người trong cuộc khóc lóc tưởng chết song người ngoài cuộc nhìn vào chỉ thấy buồn cười. Vương Tử An nháy mắt trong lòng sinh muôn mối, chắc hồ quỷ cười trộm đã lâu mới nhân lúc bị say mà đùa cợt, nên lúc đầu giường tỉnh rượu, há không bật cười tự nhạo mình sao? Nghĩ lại cái ý vị của sự đắc chí chỉ trong chớp mắt, các ông trong rừng văn thì chỉ được trong đôi ba chớp mắt, thế mà Vương Tử An chỉ nếm hết trong một buổi, cái ơn của hồ đáng sánh với của bậc phòng sư** vậy. 

* Văn chương thả phù: tức văn chương bát cổ dùng trong khoa cử ngày trước, gồm có tám đoạn, chuyển ý từ đoạn trước sang đoạn sau thường dùng hai chữ "thả phù” (vả lại) để đưa đẩy. 

** Phòng sư nguyên văn là "tiến sư”, chỉ các quan chấm thi, ngày trước học trò đi thi được lấy đỗ phải làm lễ tạ ơn, Tôn trọng như bậc thầy.