Trương Ngạc đã chi một ngàn hai trăm lượng bạc để mua suất giám sinh này, lại không cần phải thi nhập học, vào thẳng chính nghĩa đường học. Chắc hẳn Nam Kinh bộ Lễ và quan viên Quốc Tử Giám đều rõ, đối với các lệ giám này mà nói, có thi cũng mất công, chẳng lẽ thi không được thì trả lại tiền cho họ, không cho vào học Quốc Tử Giám nữa ư?
Chạng vạng hôm đó, ba huynh đệ Trương Nguyên dùng xong bữa tối ở tửu lầu gần bến tàu, thong thả đi về bờ sông Tần Hoài, ngồi ở mũi thuyền hóng mát, đúng dịp trăng tròn mười bảy tháng sáu sáng tỏ như gương, sóng tâm lay động, trăng thanh tịnh không một tiếng động, Trương Đại phiền muộn nói:
Trương Ngạc lập tức đề nghị:
Trương Nguyên cười nói:
Trương Ngạc nói:
Trương Nguyên nói:
Trương Ngạc nói:
Nói xong liền cười lớn.
Bỗng nghe bên thuyến một tiếng nói giòn giã như tiếng chim vàng oanh:
Lúc Trương Ngạc xấu hổ vội quay đầu lại nhìn, nhưng thấy một chiếc thuyền lá nhỏ không biết đã trôi tới bên thuyền đu từ lúc nào. Nữ lang Vương Vi dứng ở mũi thuyền, ngẩng đầu nhìn ba huynh đệ họ, trên mặt còn nở nụ cười chế nhạo.
Việt
Thuyền bơi trên mặt nước, nước chảy chậm rãi, mũi thuyền có một cái án nhỏ bằng gỗ mun, trên án có ba cái chén sứ, nước trà vừa rót đầy, mặt trăng trong chén khẽ lay động,khi ba người Trương Đại, Trương Ngạc, Trương Nguyên cùng đứng dậy, mũi thuyền lún nhẹ, ánh trăng trong cốc chao đảo.
Trong tay nữ lang đang đứng ở mũi thuyền dưới trăng kia cầm một cái giỏ trúc, thứ trái cây trong giỏ hiện ra trong suốt sáng bóng dưới ánh trăng, tròn nhỏ, màu nhạt, giống như hạt chân trâu, giọng nói của cô gái giòn tan:
Tiểu đồng tóc dài bên cạnh nữ lang cũng đưa một giỏ khác tới, nói:
Trương Ngạc nhận lấy cái giỏ anh đào, Trương Nguyên nhận lấy giỏ táo, Trương Ngạc cười nói:
Vương Vi cười nói:
Thế này thì Trương Ngạc không còn gì đển nói. Trương Nguyên và đại huynh Trương Đại liếc nhau, thầm nghĩ:
Trương Đại nói:
Thuyền đu ba mái chèo cao hơn nhiều so với cái thuyền nhỏ kia, nữ lang ngẩng mặt lên, búi tóc gọn gàng, vầng trán rộng, lông my đẹp, môi đỏ răng trắng, mỉm cười đáp:
Chiếc thuyền nhỏ đẩy hai mái chèo, tuy là ngược dòng nhưng thuyền đi cũng không chậm, nhanh chóng biến mất dưới ánh trăng trên sông Tần Hoài. Lại có tiếng sáo rẽ nước vọng đến, ánh trăng mênh mông, dòng nước chảy xiết, tiếng sáo cũng xa ngút ngàn dặm không thể nghe thấy nữa.
Mà ngay cả Trương Ngạc bản tính nóng vội cũng đợi cho tới khi không còn nghe thấy tiếng sáo nữa mới hỏi:
Không ai trả lời, không dám xác định.
Trương Đại ngẩn người, mê mẩn nói:
Trương Nguyên cười nói:
Trương Ngạc nói:
Trương Nguyên cười ‘hắc’ một tiếng, nhặt lên một quả anh đào, cho vào miệng, cực ngọt, khen:
Hắn bảo bọn Mục Chân Chân, Tiểu Vũ đều tới nếm thử, lại hỏi Lai Phúc và Tiểu Vũ việc tìm thuê phòng tới đâu rồi?
Lai Phúc nói:
Hai mươi lượng có thể đảm bảo cơm ăn áo mặc cả năm cho nhà năm miệng ăn, thuê nhà một năm mất ba mươi lượng, theo Lai Phúc thì quá đắt.
Trương Nguyên nói với Trương Ngạc:
Ngày mai Trương Ngạc không cần thi, ngày kia trực tiếp nhập học luôn.
Sáng sớm ngày mười tám tháng sáu, ăn xong há cảo Kim Lăng, Trương Nguyên và đại huynh Trương Đại còn cả mấy nô bộc Vũ Lăng, Mính Yên vội tới cống viện Nam Kinh. Những giám sinh mới tới Quốc Tử Giám nhập học thi ở cống viện, do thượng thư bộ Lễ Nam Kinh và Tế Tửu Quốc Tử Giám cùng chủ trì.
Trương Ngạc thì bảo Lai Phúc dẫn tới gần chỗ Kê Minh tự xem nhà, quả nhiên là yên tĩnh tao nhã, tiền viện trồng hoa, hậu viện đầy trúc cảnh, ở giữa là một cái lầu nhỏ sắp xếp các tòa nhà hình chữ phẩm (品). Trương Ngạc khá hài lòng, vừa xinh ba huynh đệ họ mỗi người một tòa. Gã lập tức bàn việc lập khế ước với chủ nhà. Chủ nhà họ Từ, thấy vị giám sinh này tới thuê nhà, xem ra là con nhà giàu có, thuê nửa năm cũng bỏ ra mười tám lượng, vậy thì còn gì để nói nữa, liền nói:
Trương Ngạc nói:
Chủ nhà họ Từ kia vội nói:
Trương Ngạc không muốn dông dài với chủ nhà này, đồng ý đưa ra năm quan tiền. Chủ nhà họ Từ liền dẫn gã đi tìm người làm chứng để lập khế ước. Khế ước lập xong, trả luôn tiền thuê, ba bên đều điểm chỉ, mỗi bên giữ một bản. Tiểu viện dưới chân núi Kê Minh này là chỗ ở tạm của ba huynh đệ Trương thị rồi. Trương Ngạc sai Năng Trụ và mấy người hầu tới quét dọn, gã tự mình tới chỗ cống viện xem Trương Đại và Trương Nguyên thi xong chưa?
Cống viện Nam Kinh ở giữa những năm Hồng Vũ là trường thi hương, thi hội. Sau khi Vĩnh Lạc dời đô tới Bắc Kinh, nơi đây chỉ dùng cho thi hương Nam Trực Lệ, quy mô xây dựng to lớn hơn so với cống viện hành tỉnh. Đầu giờ thìn, Trương Nguyên và đại huynh Trương Đại từ long môn cống viện Nam Kinh bước vào, thấy tả hữu đều có quảng trường, lần lượt là “Minh kinh thủ sĩ” và “Vi quốc cầu hiền”. Bởi vì các quan viên chưa tới, nên các giám sinh đợi thi phải đứng ở hai bên lầu Minh Viễn, chờ Nam Kinh Lễ Bộ Thượng thư Lý Duy Trinh và Nam Kinh Quốc Tử Giám Tế Tửu Cố Khởi Nguyên tới. Những giám sinh mới tới xếp thành hai hàng, có tuế cống, tuyển cống, cử giám, ấn giám, khoảng hơn hai trăm người. Nam Kinh Quốc Tử Giám này tuy không hưng thịnh như trước, nhưng hàng năm vẫn duy trì khoảng ba ngàn giám sinh tới học, phủ học và huyện học còn lâu mới bì kịp.
Minh Viễn lầu có tất thảy ba tầng, cao sáu trượng, để quan giám khảo ở trên cao nhìn xuống giám sát các thí sinh theo số thứ tự, nên bốn mặt đương nhiên là để trống không che chắn gì. Tuy là buổi sáng, nhưng cái nắng gay gắt tháng sáu cũng rất khó chịu, đợi khoảng hai khắc, mới thấy một đám quan lại tiến vào trường thi dưới sự hộ vệ của các quan sai, Lý Thượng thư nhìn dáng vẻ khoảng chừng hơn bảy mươi tuổi, hơi béo, gương mặt mỉm cười. Cố Tế tửu khoảng chừng năm mươi tuổi, vóc người bậc trung, hai mắt hơi sâu, vẻ mặt khá nghiêm túc.
Đi xuyên qua dưới lầu Minh Viễn, phía trước là “Chí công đường”, Lý thượng thư và Cố Tế tửu và một số quan viên khác ngồi vào vị trí của mình trên công đường. Các giám sinh mới nhập học đứng ở dưới đường, Lý thượng thư cũng không dài dòng, trước tiên bảo thư lại thu và kiểm tra giấy phép nhập học của giám sinh, ông nói:
Lúc này, chợt thấy một quan sai của cống viện lên công đường bẩm báo: