Chung thái giám tiếp đón Trương Nguyên, nói:
Thầm nghĩ: “Ngồi đây toàn là những bậc thi gia hàng đầu Giang Tả, cả đời đọc sách, văn thơ lai láng, theo ta thấy thì còn chả bằng một góc của cậu thiếu niên này. Đến ta còn không nhớ ra câu thơ “Liễu nhứ phi lai phiến phiến hồng” xuất xứ từ đâu mà chỉ mình cậu ta nhớ được, nếu không phải có Trương Nguyên nhắc nhở thì hôm nay bổn thái giám ta chẳng phải đã bị đám người này cười cho thối mũi rồi hay sao?Ai ya, như vậy thì đúng là oan tày đình mà.
Người đương thời có một câu tục ngữ đó là có ba loại người mà không nên chọc tức vào đó.Thứ nhất, đó là thái giám, thứ hai là khuê nữ, và thứ ba, là tú tài. Thời vãn Minh, tú tài rất hay gây chuyện, đến quan phủ còn phải sợ,nên tú tài là không nên dây vào đầu tiên.Còn thái giám và khuê nữ thì cũng gần gần như nhau, chủ quản Nam Kinh công bộ Tạ Triệu Chế đã từng nói: “Hoạn quan, phụ nữ xem kịch không ai là không rơi lệ.Mà thái giám lại còn đáng sợ hơn khuê nữ nữa kìa, vui giận thất thường, khó chiều hết sức.
Cố tình quấy rối, tính nết biến hóa khôn lường rất khó đoán định, nhưng nếu nắm được mà làm vừa lòng họ thì họ sẽ coi bạn là tri kỉ thậm chí còn vì bạn mà không quản sống chết. Đương nhiên, ngược lại nếu chẳng may bạn đắc tội với họ thì đúng là thảm rồi...
Chung thái giám là một tay chúa sĩ diện, nhất là trước mặt các văn nhân nho sĩ. Trương Nguyên dùng một bài thơ đổi lấy sĩ diện cho lão, rất là hợp ý lão.
Chung thái giám cảm thấy trong các vị cao hiển ngồi đây chỉ có lão và Trương Nguyên là hai người tài hoa nhất. Đương nhiên, lão là thứ nhất, Trương Nguyên xếp thứ hai, còn đám người kia chỉ là hữu danh vô thực, là hạng mua danh chuộc tiếng, thiếu chút nữa đẩy lão vào tình thế mất mặt.
Lão quay sang dặn dò sai dịch mau chóng bưng tới một chiếc ghế bành đặt cạnh ghế của lão. Trương Nguyên thi lễ, mạn phép xin ngồi. Chung thái giám nhìn đánh giá Trương Nguyên một lượt, khen :
Rồi quay sang Trương Kỳ Liêm:
Trương Nhữ Sương đáp:
Chung thái giám liền cười nói:
Trương Nguyên thầm nghĩ:
Rồi cung kính chắp tay nói:
Bịa ra thơ mà lại tưởng thơ mình là thơ của cổ nhân, Chung thái giám hứng trí nổi lên, cười nói:
Trống Hạt lại nổi lên, Chung thái giám vừa mới cầm cành mai trong tay đưa cho Trương Nguyên thì tiếng trống dứt.Chung thái giám cười to, nói:
Trương Nguyên đứng lên nói:
Tạm dịch:người dịch: Nguyễn Thị Bích Hải
Mắt ướt hỏi hoa hoa chẳng nói
Tơi bời hoa rụng hơn thu tới.
Trương Kỳ Liêm cười nói:
Bài thơ “Điệp Luyến Hoa” này của nhà thơ Âu Dương Tu thì Chung thái giám biết rõ, lão vui mừng ra mặt, nói:
Đề nghị này đã làm khó cho tất cả các vị cao hiển ngồi đây, chỉ có Vương Tư Nhâm đối được câu “Hồng phấn giai nhân phiên lệ xướng, kinh khởi uyên ương, lưỡng lưỡng phi tương hướng” nhưng thật ra cũng là ba câu rồi. Chung thái giám thấy Vương Tư Nhâm thân là thầy của Trương Nguyên nên miễn cưỡng cho thông qua. Ngược lại đối với những người khác, ai đối không xong cũng đều phải phạt rượu, điều này càng làm cho Chung thái giám có thiện cảm với cậu thiếu niên Trương Nguyên này hơn.
Bữa dạ yến đang đến hồi vui vẻ thì bỗng ngoài Tinh Tú các vọng tới một tiếng náo loạn, tựa như có kẻ đang gây lộn ngoài đó.Trương Kỳ Liêm tỏ vẻ không vui, nói:
Thiệu Hưng Tri phủ Từ Thời Tiến và Sơn Âm Huyện lệnh Hầu Chi Hàn vội vàng đứng dậy ra khỏi các xem rốt cuộc là đang xảy ra chuyện gì.Trương Nguyên nghe thấy trong tiếng tranh chấp đó hình như có tiếng của tiểu hề nô Vũ Lăng, nhớ tới ban nãy trên đồi Bồng Lai gặp một tay thanh niên công tử háo sắc, liền vội vã đứng dậy, nói:
Thái giám thích nhất chuyện ầm ĩ, thấy chuyện này đương nhiên không thể bỏ qua, nói:
Vậy là tất thảy mọi cao hiển trong các đều lần lượt bước ra.
Long Sơn đỉnh nghiêng từ đông sang tây. Chỗ cao nhất phía đông chính là Tinh Tú các. Từ Tinh Tú các sang đến vách núi phía tây hơn trăm bước, núi đá, cây cối không chỗ nào không có đèn. Đám người Thương Đạm Nhiên thấy Trương Nguyên bước vào Tinh Tú các bèn đi chỗ khác ngắm đèn. Tiểu cảnh Huy trông thấy phía xa là thành Hội Kê, hỏi Thương Đạm Nhiên:
Thương Đạm Nhiên chỉ chỉ nói:
Thấy không, đó chính là núi Bạch Mã.Dưới chân núi Bạch Mã chính là nhà chúng ta đó. Tiểu Cảnh Huy kiễng chân ra sức căng mắt trông, lắc đầu nói:
Chỉ thấy núi thôi, không thấy nhà đâu cả.
Thương Đạm Nhiên mỉm cười nói:
Tiểu Cảnh Huy cố căng mắt ra nhìn kĩ lại một lượt rồi mới lên tiếng:
Thương Cảnh Lan nói:
Thương Chu Đức cười nói:
(Truyện kể về một vị quan tên là Điền Đăng, vì “đèn” tiếng hán là “đăng”, nên gã cho rằng gọi như vậy là sĩ nhục gã, thế là mọi người dân đều không dám gọi “phóng đăng” (thắp đèn) nữa, mà chỉ dám nói là “phóng hỏa”. về sau câu nói “cho phép quan châu phóng hỏa, không cho dân chúng thắp đèn” được mọi người dùng để ám chỉ cường quyền bá đạo, ỷ thế hiếp người.)
Nghe xong câu chuyện cười của Thương Chu Đức, chị em Cảnh Lan Cảnh Huy khanh khách cười.
Tiểu Cảnh Huy nói:
Thương Đạm Nhiên lại cười nói:
Đang nói đến đó thì bỗng nàng im bặt..
Vũ Lăng đứng bên nói:
Vũ Lăng vừa mới tìm được vị trí phủ học cung thì cánh tay trái đột nhiên bị một người giữ lấy.Một giọng nói vang lên:
Rồi chưa để Vũ Lăng trả lời đã kéo Vũ Lăng tới bên một hòn đá lớn.Trong lúc giãy giụa, Vũ Lăng nhận ra đây chính là gã nô bộc to cao ban nãy, vừa nhìn là biết hạng cường hào gia nô, bên cạnh gã là tay môn khách dáng người trung niên, cười cười nói:
Vũ Lăng bị tay kia cưỡng ép lôi đi nên cảm thấy không thoái mái chút nào.Mấy người hầu Thương thị lại tưởng hai kẻ lạ mặt này là người Vũ Lăng quen biết nên cũng chẳng lên tiếng hỏi.Tên môn khách rút ra mười mấy đồng trước mặt Vũ Lăng, nói:
Vũ Lăng không thèm đếm xỉa đến chỗ tiền đó, nói:
Tên môn khách hướng ánh mắt về phía Thương Đạm Nhiên, hỏi:
Các ngươi là người nơi nào, gia chủ tên gì?
Chúng ta đương nhiên là người Thiệu Hưng, các người là từ đâu tới?
Nghe giọng nói của tên hào nô và tay môn khách này có vẻ như không phải người bản địa.
Tên môn khách không đáp mà tiếp tục hỏi:
Vũ Lăng lập tức cảnh giác cao độ, nói:
Đây là lời cố ý nhắc nhở tay môn khách đừng có mơ tưởng.
Tên môn khách tiếp tục hỏi thêm mấy câu. Gã thanh niên công tử mắt rậm mày ngài đứng sau tảng đá lớn, lên tiếng:
Vừa nói gã vừa chỉ chỉ Thương Chu Đức.
Tên môn khách liền bước tới chỗ Thương Chu Đức.Bị hai gia phó của thương thị ngăn lại, môn khách thở dài nói:
Thương Chu Đức không biết chuyện gì, thấy thanh niên kia lạ mặt nhưng ban nãy có đứng nói chuyện với Vũ Lăng thì tưởng có quen biết gì với Trương Nguyên, liền đi qua chắp tay nói:
Thanh niên này thở dài nói:
Thương Chu Đức nói:
Thanh niên công tử này nói:
Thương Chu Đức sửng sốt, mặt lập tức giãn ra nói:
Đổng Huyền Tể chính là Đổng Kỳ Xương, năm Vạn Lịch thứ mười bảy khoa Sửu đỗ đệ nhất nhị giáp tiến sĩ.
Hàn Lâm Viện chuyên biên tu, công thi văn, thư họa, vang danh cả nước. Hoàng trưởng tử Chu Thường Lạc trúng cử giảng quan, sau đó được thăng tiến lên Phó sứ Sơn Đông, Hà Nam tham chính nhưng đều không đi nhậm chức mà ở tại quê hương Hoa Đình, Tùng Giang nhàn cư dưỡng vọng.Tài năng thi họa của ông càng ngày càng đạt tới mức tinh thâm, danh tiếng càng lúc càng vang xa, đến mức sứ thần Triều Tiên đến kinh thành còn muốn lục soát bằng được Đổng Kỳ Xương thi họa mang về Vương kinh Seoul.Vị thanh niên này công tử là con thứ của Đổng Kỳ Hưng - Đổng Tổ Thường, công danh sinh đồ, cũng là nghe hôm nay ở Sơn Âm có hội đèn Nguyên tiêu thì đến, tại Long Sơn gặp Thương Đạm Nhiên xinh đẹp yêu kiều, hoa nhường nguyệt thẹn, tỳ nữ đứng cạnh cũng lệ sắc phi phàm liền tò mò muốn hỏi xem là nữ lang nhà ai.
Đổng Tổ Thường này có thói quen lần đầu nói chuyện với ai cũng lôi danh tiếng thân phụ ra: “Gia phụ Đổng Huyền Tể”.Năm chữ này rất có hiệu quả, chỉ cần là sĩ đại phu, người đọc sách thì không ai là không biết đến đại danh thân phụ y là Đổng Kỳ Xương cả.Lần này cũng vậy, Thương Chu Đức vừa nghe danh Đổng Kỳ Xương thì lập tức vội vã đứng lên khiêm nhường thi lễ.
Đổng Tổ Thường lúc này mới xưng tên mình:
Đổng Tổ Thường có vợ có thiếp đủ cả, câu chưa có hôn phối chẳng qua chỉ là y nói xằng mà thôi.
Thương Chu Đức mặt nhăn nhó nói:
Đổng Tổ Thường nói:
Thương Chu Đức rất là không hài lòng, giữa đường bàn chuyện hôn sự đã là vô lễ rồi, như vậy đúng là xem thường Thương thị của gã rồi.Xem Thương thị như thể bồng môn tiểu hộ chẳng chút thể diện gì sao mà vừa mở miệng đã đòi hôn ước nọ kia??? Hứ, Hội Kê Thương thị ta thiếu bạc hay sao?